Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Chúa muốn nghe chúng ta ca tụng những kỳ công của Ngài

Tác giả Thánh vịnh viết: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công”. Những gì Chúa đã làm thật là kỳ diệu. Ngài đã tạo dựng toàn bộ vũ trụ từ hư không. Ngài đã tạo ra loài người theo giống hình ảnh của Ngài, có lý trí và ý chí tự do (free will). Ngài đã thực hiện nhiều việc vĩ đại cho chúng ta; Ngài sai các ngôn sứ đến với chúng ta. Trên hết mọi sự, Ngài đã sai Con Một đến với chúng ta, là người như chúng ta cũng không ngừng là Thiên Chúa, sống một cuộc sống hoàn hảo và chết một cái chết hoàn hảo để cứu chúng ta khỏi tội lỗi của chính mình. Ngài chiến thắng sự chết, phục sinh và lên trời. Ngài sẽ trở lại trong tương lai để thiết lập một công cuộc sáng tạo mới với vẻ đẹp, sự tốt lành và niềm vui không thể tưởng được. Đây không chỉ là một chuỗi những sự thật vĩ đại: nó là một chuỗi những hành động vĩ đại, những sự kiện vĩ đại; đó là tin mừng. Trên thực tế, là tin mừng vĩ đại nhất từ trước đến nay, những việc làm vĩ đại nhất từng được thực hiện, câu chuyện vĩ đại nhất từng được kể.

Vậy chúng ta phản ứng thế nào trước những việc Chúa đã làm?

Câu trả lời không nói với chúng ta sự gì về việc Chúa làm, nhưng tất cả mọi sự về bản thân ta. Nếu chúng ta phản ứng về chiến tranh hoặc một đại dịch bằng niềm vui, hoặc nếu chúng ta phản ứng với chiến tranh kết thúc hoặc đại dịch đã chấm dứt với nỗi buồn, thì chúng ta đang là kẻ điên rồ về mặt đạo đức. Nhưng dù chúng ta có thay đổi thế nào, sự thật vẫn không hề thay đổi; khi chúng ta trở nên điên loạn về mặt đạo đức, chiến tranh và bệnh tật không trở nên ít xấu xa hơn, hòa bình và sự chữa lành không trở nên kém tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta phản ứng với tin xấu theo cùng cách phản ứng như khi chúng ta phản ứng với tin tốt thì chúng ta thực sự đã chết về mặt tâm linh. Nếu chúng ta phản ứng với những tin mừng nhỏ bé của mình với niềm đam mê mạnh mẽ hơn là phản ứng với tin mừng long trời lở đất của Phúc Âm (*người dịch: điều đó thực sự đã xảy ra nha bạn: động đất và người chết ra khỏi mồ khi Chúa chết trên cây thánh giá), nếu chúng ta quan tâm đến việc đội thể thao yêu thích của chúng ta giành chức vô địch hơn là quan tâm đến việc Chúa cứu chúng ta khỏi địa ngục và ban cho chúng ta một vé lên thiên đường, điều đó chứng tỏ điều gì? Nó chứng tỏ rằng chúng ta tội lỗi và ích kỷ nhưng lại cực kỳ ngu ngốc, nông cạn một cách ngoạn mục, ngớ ngẩn một cách siêu nhiên.

Một vị thánh vĩ đại như vua Đa-vít, tác giả của Thánh vịnh không phải là người ngu ngốc, nông cạn hay ngớ ngẩn. Vậy ông phản ứng thế nào trước tin vui hết sức kinh ngạc là Thiên Chúa, Đấng toàn năng, rất mực khôn ngoan, Đấng chí thánh của toàn vũ trụ yêu thương ông, quan tâm đến ông và thực hiện hàng loạt hành động đáng chú ý nhất cho anh ta?

Vua Đavít hát. Và ông cũng kêu gọi chúng ta hãy ca hát.

Lời Chúa không mời chúng ta biểu diễn mà chỉ mời chúng ta ca hát. Lời ấy không bảo chúng ta “Hãy hát thật hoàn hảo,” hay thậm chí là “Hát đúng phím,” mà chỉ đơn giản là “Hát!” Lời Chúa mời gọi chúng ta “Hãy vui vẻ tung hô Chúa , hỡi toàn thể địa cầu” (Thánh vịnh 100:1). Nếu bạn có miệng, bạn có thể làm được điều đó. Chúa đã cho bạn một cái miệng không chỉ để ăn, không chỉ để nói mà còn để ca hát.

Nếu bạn cảm thấy xấu hổ khi nghe giọng nói của chính mình, đó không phải là lý do, bởi vì hơn một nửa số người đến nhà thờ cũng cảm thấy giống như bạn. Chúa có thể lắng nghe các thiên thần của Ngài bất cứ lúc nào Ngài muốn và họ có thể hát hay hơn bất kỳ ai trong chúng ta, vì vậy Ngài không cần sự hoàn hảo về âm nhạc của chúng ta; nhưng có một điều Ngài vô cùng mong muốn, và là điều Ngài không thể tự mình trao tặng hay làm tất cả: Ngài muốn chúng ta tự do trao ban cho Ngài tình yêu của trái tim chúng ta. Ca hát là thể hiện tình yêu đó. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B)

Share:

Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Để sinh nhiều hoa trái

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Gioan 15:1-8)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.

“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là : Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.”

 

Bằng cách sử dụng ẩn dụ về cây nho và người trồng nho, Chúa Giêsu đưa ra một số điểm nổi bật về đời sống môn đệ:

“Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người [Chúa Cha] chặt đi.”

Ở đây, “hoa trái” ám chỉ hoa trái thiêng liêng, đó là sự tăng trưởng về sự thánh khiết, nhân đức và việc lành. Chúng ta không thể lớn lên trong sự thánh thiện mà không phát sinh ra những việc lành, bởi vì sự thánh thiện không bén rễ trong chúng ta nếu không thay đổi hành vi của mình. Chúa Giêsu đang nói rằng những ai ở trong Đức Kitô mà không chịu lớn lên trong sự thánh thiện, nhân đức và việc lành sẽ bị loại khỏi Ngài. Đây là một ý tưởng đáng sợ, nhưng cũng giống như lời Chúa Giêsu đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác! '" (Mat 7: 21–23). Vì vậy, nguy cơ rơi vào tình trạng hâm hẩm và vô sinh về mặt thiêng liêng là có thật, và rất nguy hiểm: chúng ta phải đề phòng cho ơn cứu rỗi của mình.

“Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn”.

Cắt tỉa là một quá trình cắt đứt đi và đối với cây nó chỉ là một sự gây đau đớn. Chúa Giêsu đang nói rằng những ai là môn đệ sẽ trải qua một loại tiến trình kỷ luật từ Chúa Cha để họ lớn lên trong sự thánh thiện. Quá trình kỷ luật này có thể gây đau đớn. Cành bị cắt đi, cành mà cây phải tốn công sức để lớn lên.

Đôi khi những người phục vụ Giáo Hội tích cực nhìn thấy điều này xảy ra. Các mục vụ, dự án hoặc nỗ lực mục vụ vốn được nuôi dưỡng với nhiều nỗ lực đột nhiên bị cắt đứt vì nhiều lý do, và chúng ta có thể đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, tại sao điều này lại xảy ra?” Điều này có thể dẫn đến sự chán nản, nhưng chúng ta phải xem nó như một quá trình cắt tỉa và tìm cách sinh hoa trái ở những lĩnh vực khác.

“Ai ở trong Thầy và Thầy trong người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì ngoài Thầy anh em chẳng làm gì được”.

Điều này đúng làm sao! Chỉ những gì Đức Kitô làm trong chúng ta mới tồn tại mãi mãi; những điều được thực hiện bởi ý chí và ham muốn của con người sẽ biến đi. Ở đây Thánh Gioan nói rõ điều Thánh Phaolô diễn tả là “không phải là tôi sống nữa, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Galát 2:20). Vì lý do này, thật vô nghĩa nếu chúng ta tự tách mình ra khỏi các nguồn hiệp thông như cầu nguyện, các bí tích, tôn thờ, v.v. và hy vọng cuộc sống của chúng ta vẫn còn có ý nghĩa vĩnh cửu.

Một trong những đoạn mạnh mẽ nhất trong Tông huấn về sự thánh thiện của Đức Thánh Cha Phanxicô, Gaudete et Exsultate (Hãy vui mừng và vui mừng), nói về nhu cầu “ở lại trong Chúa Giêsu”:

"Vì thế, tôi xin hỏi các bạn: Có những giây phút nào bạn thinh lặng đặt mình trước sự hiện diện của Chúa, những lúc bạn thư thái ở với Người, và để Người nhìn ngắm bạn hay không? Bạn có để ngọn lửa của Người cháy lên trong lòng mình không? Nếu không để Người sưởi ấm bạn bằng tình yêu và sự dịu dàng của Người, bạn sẽ không có lửa, và như thế làm sao bạn có thể đốt nóng trái tim người khác bằng chứng tá và lời nói của bạn? Và nếu trước dung nhan của Đức Kitô bạn vẫn cảm thấy không thể được chữa lành và biến đổi, thì hãy bước vào Trái Tim của Chúa, bước vào những vết thương của Người, vì đó là chỗ của Lòng Chúa Xót Thương" (Số 151).

Trở lại với những lời của Tin Mừng hôm nay:

“Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Gioan 15:7).

Đó là vì nếu chúng ta ở lại trong Chúa Giêsu và lời của Ngài ở lại trong chúng ta, chúng ta sẽ ước muốn điều Ngài muốn, và ý muốn của chúng ta sẽ hợp nhất với ý muốn của Ngài, đến nỗi “bất cứ điều gì chúng ta muốn” sẽ chỉ là ý muốn của Ngài, và ý muốn của Ngài sẽ luôn luôn được thực hiện. Rồi chúng ta sẽ có khả năng để phó thác hoàn toàn cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

Vậy làm sao chúng ta biết mình đã được cứu rỗi? Chúng ta ít nhất cần có sự tin tưởng rằng chúng ta ở trong Chúa Kitô và Người ở trong chúng ta khi chúng ta thấy những dấu hiệu hữu hình của Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống chúng ta. Những dấu hiệu được đề cập trong các bài đọc: “mạnh dạn” vì Chúa Kitô, yêu thương cách chân thật và bằng việc làm cho anh chị em chúng ta trong Đức Kitô, và sinh ra “trái tốt” (thánh thiện, nhân đức, việc lành) để vinh danh Chúa Cha. Những dấu hiệu này cho chúng ta sự đảm bảo về sự cứu rỗi của mình. -- Dr. John Bergsma

Share:

Nữ Vương thiên đàng

Trong lịch sử hoàng gia của Đavít, thái hậu chứ không phải là vợ của vua, là người được ngồi bên hữu vua. “Bà Bát Se-va vào yết kiến vua Sa-lô-môn để thưa chuyện với vua giúp A-đô-ni-gia-hu. Vua đứng lên, ra đón và sấp mình chào bà ; đoạn vua ngồi trên ngai, đồng thời cũng truyền đặt một ngai cho bà thái hậu, bà ngồi bên hữu vua. (I Vua 2:19). Thái hậu, mẹ của vua, là người chứng tỏ vị vua ấy thực sự là hợp pháp, thực sự là dòng dõi vua Đavít.

Đức Maria, là Nữ Vương thiên đàng, vì Mẹ là mẹ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu kính trọng Mẹ như vua Salômôn kính trọng mẹ mình. Quyền cầu khẩn của Bát Se-va đến với Salômôn sẽ được vua lắng nghe (dù quyền quyết định vẫn ở với Salômôn). Lời cầu khẩn của Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu cho chúng ta rất có thế đối với Chúa Giêsu. Chính nhờ Mẹ, mà Chúa Giêsu được coi là thuộc dòng dõi vua Đavít.

Đoạn trích dưới đây nói về việc Đức Maria tuy là nữ tỳ hèn mọn, Thiên Chúa đã làm những điều cao cả nơi Mẹ.

“Khi Đức Maria tuyên dương Chúa “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường (Luca 1:52), trong bối cảnh ấy, Mẹ đang nói đến chính bản thân Mẹ, vì Mẹ đã nói Chúa nhìn đến “phận hèn mọn” của “nữ tỳ” của Chúa (Luca 1:48). Đức Maria là hiện thân của những kẻ nghèo khổ và thấp hèn trong Israel. Hãy lưu ý là khi Đức Maria nói Chúa truất “ngôi” kẻ thống trị, đây là ngôn ngữ hoàng gia. Vua và thái hậu ngồi trên ngôi và khi bị “truất” ngôi, phải có kẻ chiếm chỗ của họ. Cuối cùng khi Đức Maria dùng lối nói “hết mọi đời” sẽ khen tôi “diễm phúc” (Luca 1:48), nghe giống như những thứ được nói về hoàng gia trong Kinh thánh Do thái. Chẳng hạn như Thánh vịnh 45 tuyên bố danh thơm của vua sẽ được “ca ngợi bất tận muôn đời” (Thánh vịnh 45:17).

Nói tóm lại, Kinh Magnificat của Đức Maria ngụ ý rằng, dù trong mắt trần gian, Mẹ chỉ là một “nữ tỳ” hèn mọn, nhưng cả Mẹ và con của Mẹ được tôn vinh để ngự trên “ngai” của dòng dõi vua Đavít và mẹ của ông.” -- Jesus and the Jewish Roots of Mary: Unveiling the Mother of the Messiah by Dr. Brant Pitre

KINH LẠY NỮ VƯƠNG

Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ! Chúng con, con cháu E-và ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương.

Hỡi ôi! Bà là Chúa bầu chúng con, xin ghé mắt thương xem chúng con. Đến sau khỏi đày, xin cho chúng con được thấy Đức Chúa Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh. Amen.

Share:

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

Không có gì là tình cờ trong kế hoạch của Chúa

“Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”

Trong Mùa Phục Sinh, cụm từ “tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” làm chúng ta ý thức được rằng không một sự việc nào xảy đến với Chúa Giêsu là do tình cờ. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố Ngài chỉ làm những gì Ngài đã thấy Cha Ngài làm, những gì đã được ghi chép trong Kinh Thánh về Ngài.

Khi các tông đồ của Chúa không nhìn thấy rằng việc Chúa Giêsu chịu chết khổ hình trên cây thập tự là một phần của kế hoạch cứu độ, họ bị hoang mang, thất vọng, bỏ Thầy và trở về với lối sống cũ như hai môn đệ trên đường Emmau. Trái tim họ có lại được nhiệt huyết và mục đích khi Chúa Giêsu giải nghĩa Kinh Thánh cho họ và cho họ thấy mọi sự đều là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh viết từ xưa.

Trong cuộc sống chúng ta cũng vậy. Không có gì xảy ra do tình cờ. Khi chúng ta nhìn cuộc đời của mình qua con mắt đức tin, mọi sự có ý nghĩa. Không ai thích phải gặp những khó khăn trong cuộc sống nhưng với con mắt đức tin, chúng ta biết ơn Chúa luôn sẵn đó để giúp chúng ta.

“Đừng nói, “điều này xảy ra một cách tình cờ, trong khi điều này tự nó đến." Trong tất cả những gì hiện hữu, không có gì rối loạn, không có gì vô định, không có gì không có mục đích, không có gì là tình cờ ... Có bao nhiêu sợi tóc trên đầu bạn? Chúa không quên ngay cả một sợi. Bạn không thấy sao: không có gì, dù là một sự việc nhỏ nhất, thoát khỏi cái nhìn của Chúa?” – Thánh Basil

Lạy Chúa, xin cho con biết rằng mọi sự xảy đến cho con Chúa đều biết trước từ thuở đời đời, và đem lại lợi ích cho con. Biết như thế là đủ cho con. Xin ban thêm đức tin cho con.

Share:

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2024

Sức mạnh của ý nghĩ

Nếu những ý nghĩ của chúng ta là những ý nghĩ tốt bụng, ôn hòa và bình thản, chỉ hướng về điều tốt, thì chúng ta cũng ảnh hưởng đến bản thân và lan tỏa hòa bình ra xung quanh chúng ta—trong gia đình của chúng ta, trong cả đất nước, ở khắp mọi nơi. Điều này đúng không chỉ ở đây trên trái đất, mà còn trong vũ trụ. Khi chúng ta làm việc theo thánh ý Chúa, chúng ta tạo ra sự hài hòa. Sự hòa hợp thần linh, hòa bình và yên tĩnh lan tỏa khắp mọi nơi. Tuy nhiên, khi chúng ta nuôi dưỡng những ý nghĩ tiêu cực, đó là một sự dữ rất lớn. Khi có điều ác trong chúng ta, chúng ta lan tỏa điều đó giữa các thành viên trong gia đình và bất cứ nơi nào chúng ta đến. Vì vậy, bạn thấy đấy, chúng ta có thể rất tốt hoặc rất xấu xa. Nếu là như vậy, thì việc chọn những ý nghĩ tốt lành là điều đương nhiên tốt hơn! Những suy nghĩ tiêu cực phá hủy sự tĩnh lặng bên trong, và rồi chúng ta không có sự bình an. – Trích từ Our Thoughts Determine Our Lives: The Life and Teachings of Elder Thaddeus of Vitovnica

Share:

Bạn có để ý bạn đang suy nghĩ gì không?

Tất cả mọi sự, cả tốt và xấu, đều xuất phát từ những suy nghĩ của chúng ta. Những ý tưởng của chúng ta rồi trở thành hiện thực. Thậm chí ngày nay chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi tạo vật, mọi thứ tồn tại trên trái đất và trong vũ trụ, không là gì khác ngoài mà là vì Thiên Chúa đã nghĩ đến. Mọi sự vật được dựng nên vì Thiên Chúa nghĩ đến chúng. Con người chúng ta được tạo dựng theo giống hình ảnh của Thiên Chúa. Nhân loại đã được ban cho một món quà tuyệt vời, nhưng chúng ta hầu như không hiểu về nó. Năng lực và sự sống của Chúa ở trong chúng ta, nhưng chúng ta không nhận ra điều đó. Chúng ta cũng không hiểu rằng chúng ta có ảnh hưởng rất lớn đến người khác với những ý nghĩ của mình. Chúng ta có thể là người rất tốt hoặc rất xấu xa, tùy vào những ý nghĩ và ham muốn mà chúng ta nuôi dưỡng. – Trích từ Our Thoughts Determine Our Lives: The Life and Teachings of Elder Thaddeus of Vitovnica

Share:

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Điều làm Chúa hài lòng

Chúa hài lòng về những việc lành chúng ta làm. Công việc bác ái và mọi thứ khác mà chúng ta làm cho sự cứu rỗi của bản thân và lợi ích của những người khác và cho Giáo hội, tất cả những điều này đều làm hài lòng Chúa. Tuy nhiên, điều làm Ngài hài lòng nhất là tình yêu đơn sơ, tình yêu của trẻ thơ, luôn bám chặt vào trái tim Chúa. Đây là điều làm hài lòng Ngài nhất và là điều Ngài muốn nơi chúng ta. Đây là điều mà mọi người đều có thể dâng cho Ngài, dù giàu hay nghèo, già hay trẻ.

Trích từ Our Thoughts Determine Our Lives: The Life and Teachings of Elder Thaddeus of Vitovnica

Share:

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2024

Hai chiều kích của đức tin

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ (3:13–15, 17–19)

Hôm ấy, ông Phê-rô lên tiếng nói với dân chúng rằng : “Thưa đồng bào Ít-ra-en, Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng.

“Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là : Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.”

------

Bài đọc thứ nhất hôm nay trích từ bài giảng đầu tiên của vị giáo hoàng đầu tiên, Thánh Phêrô. Bài đọc chứa đựng một khuôn mẫu mà chúng ta thấy được lặp đi lặp lại trong các bài giảng, lời khích lệ, tín điều và thông điệp của giáo hoàng mãi mãi về sau. Nó có hai phần: sự thật khách quan và phản ứng cá nhân, chủ quan của chúng ta.

Phần thứ nhất, phần khách quan, bao gồm ba sự kiện thiết yếu: sự thật về Thiên Chúa, sự thật về Chúa Kitô, và sự thật về chính chúng ta…

Đức tin có hai chiều kích này, và cả hai đều tuyệt đối cần thiết: chủ quan và khách quan, cá nhân và không có tính cá nhân.

Cá nhân chúng ta tin Đức Kitô là người thật; chúng ta yêu Ngài và tin tưởng vào Ngài. Nhưng chúng ta cũng tin vào những sự thật khách quan về Ngài: rằng Ngài là Thiên Chúa cách trọn vẹn, và Ngài cũng hoàn toàn là người, rằng Ngài đã sống, chết và phục sinh để cứu chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi cái chết và địa ngục.

Cả phần chủ quan và khách quan đều cần thiết. Nếu chúng ta chỉ tin những sự thật khách quan về Ngài mà không đích thân tin vào Ngài, tin tưởng Ngài, đặt hy vọng nơi Ngài và yêu mến Ngài, thì chúng ta chẳng hơn gì ma quỷ, kẻ cũng đủ thông minh để biết những sự thật này về Ngài nhưng không tin tưởng Ngài, không đặt niềm hy vọng hoặc yêu mến Chúa.

Chiều kích khách quan của đức tin mà không có chiều kích chủ quan cá nhân thì không đủ. Nhưng chiều kích chủ quan mà không có chiều kích khách quan thì cũng thế.

Nếu chúng ta yêu mến Ngài cách cá vị, tin cậy Ngài nhưng lại phủ nhận rằng Ngài là Thiên Chúa, thì Ngài không còn là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta nữa, bởi vì không một con người nào, dù thánh thiện và khôn ngoan đến đâu, có thể cứu chúng ta khỏi tội lỗi và mở của thiên đàng cho chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm điều đó. Và nếu chúng ta yêu mến Ngài nhưng phủ nhận rằng Ngài là con người, thì một lần nữa Ngài không thể là Đấng Cứu Rỗi cho bản tính nhân loại chúng ta. Nếu Ngài không vừa là Thiên Chúa vừa là người, thì Ngài không thể thu hẹp khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người.

Và nếu chúng ta phủ nhận sự thật khách quan rằng chúng ta là những kẻ tội lỗi, rằng chúng ta cần một trái tim mới, một cuộc phẫu thuật ghép tim, thì chúng ta sẽ không có được trái tim mới đó, bởi vì Thiên Chúa đòi hỏi sự đồng ý cho cuộc phẫu thuật trái tim thánh thiêng của Người, bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu luôn kêu gọi sự tự do, sự lựa chọn tự do, không áp đặt quyền lực hay ép buộc. Vì vậy, cả sự thật khách quan lẫn phản ứng chủ quan của chúng ta về Chúa đều cần thiết cho sự cứu rỗi của chúng ta. -- Dr. Peter Kreeft, Food For The Soul -- Reflections for Mass Readings, Cycle A

Share:

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Chịu đựng sầu khổ

Đấng cứu rỗi linh hồn chúng ta đã không ban cho chúng ta ước muốn mãnh liệt để phục vụ Ngài mà không cùng một lúc trao ban cho chúng ta phương thế để thực thi thánh ý Ngài. Trái tim của Chúa Giêsu đo lường và điều chỉnh mọi thứ xảy ra trên thế giới để nó trở nên thuận lợi cho những ai khao khát phục vụ Ngài và không sợ hãi điều gì. Thời khắc đó chắc chắn sẽ đến, giờ mà bạn hằng mong chờ, vào ngày mà sự quan phòng của Đấng Tối Cao đã định đoạt trong sự bí mật của lòng thương xót của Ngài, rồi vô số những an ủi bí ẩn sẽ đến với bạn. Linh hồn bạn sẽ rộng mở đón nhận sự tốt lành của Chúa. Sự tốt lành đó sẽ biến tảng đá của bạn thành nước, con rắn của bạn thành cây gậy, những gai nhọn trong tim bạn thành những bông hồng, hương thơm của chúng sẽ làm tươi mát tâm hồn bạn bằng sự ngọt ngào. Vì quả thật lỗi lầm của chúng ta, khi còn ở trong tâm hồn, là những gai góc, nhưng khi chúng được phơi bày qua việc xét mình, chúng sẽ biến thành những bông hoa thơm ngát. Những ác ý của thâm tâm ta muốn giữ kín chúng trong tâm hồn mình, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ trục xuất chúng vì sự tốt lành của Ngài. – Thánh Phanxicô de Sales

Share:

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2024

Ba nhân chứng: Nước, Máu và Thần Khí

Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu ; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật. 7 Có ba chứng nhân: 8 Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.-- 1 Gioan 5:6-8

Việc John đề cập đến “ba nhân chứng” (nước, máu và Thánh Thần) xen vào phần này như một tia sét bất thình lình đến. Tại sao Gioan dường như bước ra khỏi các chủ đề chính của mình để đề cập đến ba nhân chứng? Bối cảnh rộng lớn hơn của các câu 1–12 giúp chúng ta tìm cách giải thích: Trong phần này, Gioan quan tâm đến đức tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa. Ba nhân chứng có mục đích củng cố và xác nhận niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu.

Thánh Gioan mở đầu bằng lời tuyên bố về Chúa Giêsu: Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu. Rồi ngay lập tức Ngài  nói thêm, không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu.11 Thánh Gioan có ý gì khi nói “nước và máu,” và tại sao ngài lại nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đã đến không chỉ bằng nước mà còn bằng máu? Bản thân thánh Gioan không đưa ra lời giải thích nào trong bản văn. Ngài nghĩ rằng những độc giả ban đầu của ngài sẽ hiểu “nhờ nước và máu” nghĩa là gì. Phần chúng ta, chúng ta phải nhìn lại Phúc âm của thánh Gioan để tìm ý nghĩa của ngài.

Nước và máu được nối kết với nhau chỉ một lần trong Tin Mừng, khi ngọn giáo của tên lính đâm vào cạnh sườn Chúa Kitô: “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Gioan 19:34–35). Ở đây “máu và nước” theo một nghĩa nào đó ám chỉ cái chết của Đức Kitô và hoa quả của cái chết đó, nhưng chúng ta vẫn còn câu hỏi: “Chính xác thì nước và máu có ý nghĩa gì?”

Trước hết, máu và nước chảy ra xác nhận cái chết thực sự về thể xác của Chúa Giêsu. Thân xác Ngài bị giáo đâm xuyên qua, máu và nước chảy ra. Nhưng rõ ràng, tác giả Phúc âm nhìn thấy nhiều hơn là chỉ là sự biểu hiện cái chết về thể xác của Chúa Giêsu. Máu và nước biểu thị một điều gì đó quan trọng về cái chết của Chúa Giêsu và ý nghĩa của nó đối với chúng ta.

Điều thú vị là thứ tự của hai từ này bị đảo ngược trong thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong Phúc Âm, tác giả Phúc Âm nói rằng ngài thấy “máu và nước” chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô, và đây có lẽ là thứ tự mà ngài thấy chúng xuất hiện. Thư của Gioan nói về "nước và máu." Tại sao lại có sự thay đổi thứ tự này? Có thể vì Gioan đang thu hút sự chú ý đến thứ tự rửa tội và cái chết của chính Chúa Kitô.12 Chúa Giêsu đã đến bằng nước qua phép rửa của Người, là Con Thiên Chúa nhập thể, theo kế hoạch của Chúa Cha (xem Gioan 1:32–34), Ngài đến bằng máu qua việc bị đóng đinh, dâng chính mình làm của lễ hy sinh lên Thiên Chúa Cha vì tội lỗi chúng ta (xin xem 1 Gioan 1:7). Hai sự kiện này lần lượt đánh dấu sự khai mạc và kết thúc sứ vụ trần thế của Chúa Giêsu. Chúa Giê-su không chỉ được Thiên Chúa Cha  xức dầu để phục vụ qua nước của phép rửa; Ngài cũng đổ máu và chết vì tội lỗi chúng ta để chúng ta được chia sẻ sự sống Thiên Chúa của Người.13

Nhưng “nước và máu” cũng chỉ ra những tác động của công việc của Chúa Kitô trong Giáo hội. Nước đổ ra từ cạnh sườn Ngài tượng trưng cho nước rửa tội và ân sủng của Thánh Thần,14 và máu đổ ra tượng trưng cho ân sủng là Mình và Máu trong Bí tích Thánh Thể.15 Nói cách khác, “nước và máu” đồng thời chỉ về công trình cứu độ của Chúa Kitô và việc chúng ta tiếp nhận công trình đó qua các bí tích rửa tội và Thánh Thể.

Sau đó, Gioan nói thêm, “Chúa Thánh Thần là Đấng làm chứng, và Chúa Thánh Thần là sự thật.” Trong Phúc âm Gioan, Chúa Thánh Thần làm chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa khi Ngài chịu phép rửa, bằng cách ngự xuống trên Đức Giêsu và ở lại với Ngài (Gioan 1:32 –33) Thánh Thần cũng là Đấng làm chứng cho Chúa Giêsu với các môn đệ: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Gioan 15:26). Ngài là “Thần khí của sự thật” sẽ hướng dẫn các môn đồ đến sự thật toàn vẹn (Gioan 16:13). Trong bối cảnh này, lời chứng của Chúa Thánh Thần “bao gồm hành động qua đó sự thật của phép rửa và cái chết cuả Chúa Giêsu được đưa vào cuộc sống trong Giáo hội qua các bí tích Rửa tội và Thánh Thể.”16 Chúa Thánh Thần “làm chứng” cho chúng ta về Chúa Kitô bằng cách biểu lộ quyền năng cứu chuộc của công trình Ngài trong cuộc sống của chúng ta.

[5:7–8] Có ba chứng nhân : Thần Khí, nước và máu.

Gioan tóm tắt phần này bằng cách chỉ ra lời chứng thống nhất của ba nhân chứng: “Có ba chứng nhân : Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.” Dưới luật Môsê, cần có hai hoặc ba nhân chứng để xác lập sự thật của một vấn đề (Đnl 19:15; xem Gioan 8:17). Đối với Gioan, đức tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu dựa trên ba nhân chứng cùng làm chứng về một điều: Thần Khí, nước và máu. Chúa Giêsu chịu phép rửa bằng nước có nghĩa là Người đã đến trong xác thịt vì chúng ta, Người đã hiến máu mình trên thập giá để chúng ta được tha tội và có được sự sống mới trong Người, và Người đã sai Thánh Thần đến để làm chứng về Người và để làm chứng trong chúng ta về căn tính thực sự của Ngài là Con Thiên Chúa.17 Chia sẻ ân sủng Chúa Thánh Thần, được tái sinh nhờ nước rửa tội và tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta được trao ban cho ba lời chứng của chính Thiên Chúa về Chúa Giêsu rằng Người là Con Thiên Chúa, được xức dầu bằng Thánh Thần, Đấng đã đến trong xác thịt và chết để cứu rỗi chúng ta.

Suy ngẫm và áp dụng (1 Gioan 5:6–8)

 Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng những gì Thánh Gioan nói về ba nhân chứng vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta? Trong cuốn sách Chúa Giêsu thành Nazareth, ĐTC Bênêđíctô XVI xác định việc tham dự đầy đủ các bí tích là một ứng dụng quan trọng của bản văn này. ĐTC nhận xét rằng “trong việc đổ máu và nước đi đôi với nhau này, các Giáo phụ đã nhìn thấy hình ảnh của hai bí tích cơ bản – Thánh Thể và Rửa tội – phát xuất từ cạnh sườn bị đâm của Chúa”. Tại sao, ĐTC Bênêđíctô hỏi, Gioan lại nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu đến không chỉ bằng nước mà còn bằng máu? “Chúng ta có thể nhận ra rằng thánh Gioan đang ám chỉ xu hướng đặt hết mọi nhấn mạnh vào phép rửa của Chúa Giêsu và  gạt Thập Giá sang một bên." Bằng cách này, Đức Bênêđictô muốn nói về "một nỗ lực nhằm tạo ra một Kitô giáo gồm những suy nghĩ và ý tưởng, tách biệt khỏi thực tế xác thịt" và khỏi thực tế của các bí tích.18 Như Chúa Giêsu đã hiến dâng Mình và Máu Người trên thập giá, chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào Mình và Máu Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể với niềm tin tràn đầy.

Thánh Gioan cũng lưu ý chúng ta đến chứng tá của Thánh Thần: “Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật” (c. 6). Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết Chúa Giêsu và có thể tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa (1 Cr 12 :3) Nhờ sự chứng tá của Chúa Thánh Thần, chúng ta biết rằng chúng ta là con cái yêu dấu của Thiên Chúa (Rm 8:14-17). Thân xác chúng ta đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần (1 Cor 6:19), và Ngài hoạt động trong chúng ta để làm cho chúng ta ngày càng giống chính Chúa Giêsu (2 Cr 3,18). Dĩ nhiên, không có sự đối lập nào giữa chứng tá của Chúa Thánh Thần và chứng tá của “nước và máu” qua đời sống bí tích. Những chứng ta này là “một” và “đồng ý với nhau”. Cuộc sống của chúng ta trong Thánh Thần phải bao gồm một đời sống bí tích trọn vẹn, và đời sống bí tích của chúng ta phải hoàn toàn sống động trong Thánh Thần.

Notes

13. The second-century heretical teacher †Cerinthus was reputed to teach that the Spirit descended upon Christ at his baptism but then fled from him before his passion and death; he denied that God’s anointed Son actually shed his blood for our sins (see Irenaeus, Against Heresies 1.26.1–2). By insisting that Jesus came “through water and blood,” John is refuting anyone who teaches that Jesus did not really shed his blood for the forgiveness of sins.
14. “Water” is linked to baptism and the gift of the Spirit in John 1:26, 31, 33; 3:5, 23; 4:7–15; 7:38.
15. “Blood” is linked to Christ’s body and blood in the Eucharist in John 6:53–56.
16. Martin, “1 John,” 1832.
17. Some commentators link the gift of the Spirit to the sacrament of confirmation (chrismation in the Eastern Church) and see in the three witnesses a reference to the three sacraments of initiation: baptism, confirmation, and the Eucharist.
18. Joseph Ratzinger (Pope Benedict XVI), Jesus of Nazareth, part 2, Holy Week: From the Entrance into Jerusalem to the Resurrection (San Francisco: Ignatius Press, 2011), 225–26.

Share:

Thứ Tư, 27 tháng 3, 2024

Chúa Giêsu lo sợ đổ mồ hôi máu theo mô tả của Anne Catherine Emmerich

CHƯƠNG 01: CHÚA GIÊSU TRÊN NÚI CÂY DẦU

Sau khi thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu rời Nhà Tiệc Ly với Mười Một Tông Đồ. Người bắt đầu buồn bã và nỗi buồn mỗi lúc càng gia tăng. Người dẫn các Tông Đồ qua một con đường ít người sử dụng, vào thung lũng Giosaphát, tiến về phía núi Cây Dầu. Lúc các ngài ra khỏi Nhà Tiệc Ly, tôi đã thấy mặt trăng nhô lên khỏi đỉnh núi, nhưng vẫn chưa hoàn toàn đầy đặn.

Khi Chúa vượt qua thung lũng với các môn đệ, Người bảo các ông rằng vào ngày tận thế Người sẽ trở lại phán xét thế gian, nhưng không còn nghèo khó và bất lực như hôm nay. Khi đó người ta sẽ rất sợ hãi và sẽ kêu lên:

- Núi đồi kia ơi, hãy phủ lấp chúng tôi đi!

Các môn đệ không hiểu Người nói gì. Họ cứ nghĩ là sự mệt mỏi, kiệt sức đã làm cho Người rối trí, như họ đã thấy nhiều lần trong suốt buổi chiều hôm nay. Có khi họ tiếp tục tiến bước, có khi họ dừng chân để thưa chuyện cùng Người. Chúa Giêsu còn nói với họ:

- Đêm nay tất cả các anh sẽ vấp ngã vì Thầy, các anh sẽ vấp ngã vì Thầy, vì có lời chép rằng: Ta sẽ đánh chủ chăn, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước các anh.

Các Tông Đồ vẫn còn đầy hăng hái và thành tâm vì được đón nhận Bí Tích Cực Thánh, và cuộc đàm luận đầy thân tình và long trọng sau đó của Chúa Giêsu. Họ sát cánh chung quanh Người, bầy tỏ lòng yêu mến đối với Người bằng nhiều cách và cam kết rằng họ sẽ không bao giờ bỏ Người.

Vì Chúa Giêsu cứ tiếp tục nói theo chiều hướng ấy nên ông Phêrô thưa cùng Chúa:

- Dù tất cả mọi người đều vấp ngã vì Thầy, con sẽ không bao giờ vấp ngã vì Thầy!

Chúa trả lời ông:

- Thật, Thầy bảo cho con biết, ngay đêm nay, trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần.

- Dù phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy.

Và các người khác cũng nói như vậy. Các ngài vừa đi vừa nghỉ, và sự lo buồn của Chúa Giêsu ngày càng tăng. Các Tông Đồ tìm cách thuyết phục Người bằng những lý lẽ loài người, họ trấn an Người rằng sự lo buồn của Người không có nền tảng thực tế. Nhưng thấy nỗ lực của mình vô ích và chẳng có hiệu quả, các ông đâm ra mệt mỏi và bắt đầu hồ nghi và rơi vào cơn cám dỗ.

Các ngài đi qua con suối Cedron, nhưng không đi bằng ngả qua cầu mà sau này Chúa Giêsu bị trói và điệu đi qua đó; các ngài đi lối tắt. Vườn Giệtsimani ở núi Cây Dầu, nếu đi thẳng từ Nhà Tiệc Ly thì mất nửa giờ, vì từ Nhà Tiệc Ly đến thung lũng Giosaphát mất mười lăm phút, và từ thung lũng này đến vườn Giệtsimani cũng mất cùng thời gian ấy. Chỗ này, trong những ngày cuối cùng, Chúa Giêsu vẫn thường thức đêm với các môn đệ để dạy dỗ họ, có một khu vườn đẹp với một hàng rào bao quanh. Khu vườn gồm nhiều bụi cây lớn và cây ăn trái. Bên ngoài vườn là một vài căn nhà bỏ hoang, sẵn sàng đón tiếp ai muốn ở đó. Một vài người, cũng như các Tông Đồ, có chìa khóa vào khu vườn này, vừa dùng làm chỗ giải trí vừa làm nơi cầu nguyện. Vườn Cây Dầu được tách biệt với vườn Giệtsimani bằng một con đường và chỉ có một bức tường đất bao quanh. Người ta thấy ở đây có nhiều hang động, nhiều gò đất cao và nhiều khu đất trồng cây dầu ôliu. Tại một góc vườn có nhiều ghế ngồi và rất dễ tìm được một nơi thích hợp để cầu nguyện và suy gẫm. Chúa đã đến cầu nguyện ở chỗ thanh vắng nhất.

Vào khoảng 9 giờ tối thì Chúa Giêsu cùng các môn đệ đến vườn Giệtsimani. Bóng đêm bao phủ mặt đất, nhưng vừng trăng sáng tỏ trên trời. Chúa Giêsu thật buồn sầu. Người cho các Tông Đồ biết nguy hiểm sắp tới và các ông cảm thấy bồn chồn. Chúa nói với tám người trong số các ông ở lại vườn Giệtsimani, là nơi có nhà hóng mát vách ván và lợp lá. Chúa nói:

- Các anh hãy ở lại đây, để Thầy đi cầu nguyện tại chỗ riêng.

Người đem theo ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, băng qua con đường mòn và đi khoảng một vài phút cho đến khi Người đến vườn Cây Dầu xa tận chân núi. Người thấy buồn rầu một cách kỳ lạ vì cảm thấy sự thống khổ và cơn cám dỗ đang đến. Gioan hỏi làm sao Người là Đấng vẫn từng luôn an ủi họ, mà giờ đây lại có thể nản chí đến như vậy. Chúa Giêsu trả lời:

- Linh hồn Thầy buồn sầu đến chết được.

Người rảo mắt nhìn quanh và thấy từ mọi phía thống khổ và cám dỗ đang kéo đến với Người như những đám mây đen đầy hình ảnh ghê sợ. Chính lúc đó Người nói với ba Tông Đồ:

- Các anh hãy ở lại đây và canh thức với Thầy. Cầu nguyện đi để khỏi sa chước cám dỗ!

Và họ ở lại chỗ đó. Chúa Giêsu tiến lên một vài bước. Nhưng những hình ảnh ghê sợ vây chặt cứng quanh Người đến độ Người hoảng hốt quay sang bên trái và tiến nhanh vào một hang đá nhỏ phía dưới ghềnh đá. Các Tông Đồ vẫn ở trong một chỗ trũng bên tay phải phía trên. Cái hang mà Chúa Giêsu ẩn náu sâu khoảng hai mét, có các loại cây leo từ ghềnh đá rủ xuống che lấp lối vào rất kỹ đến nỗi người ở bên ngoài không thể nào thấy được người ở bên trong.

CHƯƠNG 02: THỊ KIẾN VỀ TỘI ÁC CỦA CHÚNG TA

Vào lúc Chúa Giêsu rời bỏ các Tông Đồ, tôi thấy chung quanh Người một vòng vây đầy những bóng ma khủng khiếp, mỗi lúc càng xiết chặt. Nỗi buồn và sự kinh hoàng của Người cứ gia tăng mãi. Lòng đầy chán nản, Người lùi sâu vào trong hang để cầu nguyện, giống như một người tìm nơi ẩn náu để tránh cơn phong ba bão táp đang bám sát mình. Nhưng những bóng ma gớm ghiếc ấy vẫn theo Người vào hang, và mỗi lúc chúng càng trở nên rõ nét hơn. Hỡi ôi! Trong cái động chật hẹp này dường như đang diễn ra những cảnh tượng ghê gớm và kinh hoàng của tất cả tội lỗi mà loài người đã phạm, từ sự sa ngã của tổ tông cho tới ngày tận thế, và cảnh tượng các hình phạt phải chịu để đền các tội ấy. Chính mảnh đất cằn cỗi này, dưới chân núi Cây Dầu là nơi sau khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông Adong và bà Evà đã đến trú ngụ và than khóc tại đây.

Tôi cảm thấy rõ ràng rằng khi dâng mình cho công lý của Thiên Chúa, như hiến lễ đền bù tội lỗi trần gian, Chúa Giêsu một cách nào đó, đã cất dấu thần tính của Người trong lòng Ba Ngôi Cực Thánh, và chỉ được nâng đỡ bằng tình yêu của trái tim nhân tính của Người để đền bù tội lỗi trần gian mà thôi. Người đã để cho nhân tính rất thánh thiện, rất chân thực, rất nhạy cảm và trinh trong của Người gánh chịu hết mọi đau khổ và kinh hoàng. Vì muốn việc đền tội bao gồm từ những ham muốn xấu xa, là căn nguyên của tội ác, cho tới tất cả tội ác mà những ham muốn này gây ra, Chúa Giêsu rất nhân từ, vì yêu thương chúng ta, đã hạ mình lãnh nhận tất cả hình phạt và mọi hành vi thống hối cần thiết đến tận đáy lòng Người để đền bù trọn vẹn cho tội lỗi và để tái sinh nhân loại. Người muốn rằng cuộc khổ nạn của Người phải vô biên để chuộc lại vô số lỗi lầm của chúng ta, và vô số đau khổ, như những nhánh cây đền tội phải lan toả vào tất cả các cơ năng của linh hồn và mọi chi thể của thân xác Người.

Trong trạng thái bản tính nhân loại của Người, Đức Giêsu phủ phục xuống đất, tâm tư nặng chĩu kinh hoàng, lạc vào một nơi buồn sầu vô biên, và Người cầu nguyện với Thiên Chúa. Khi đó tất cả các tội lỗi trần gian đều hiện ra cùng Người dưới nhiều hình thức khôn kể xiết, với tất cả xấu xa của chúng, Người đã nhận chúng trên thân thể Người, và trong lời cầu nguyện, Người đã hiến mình cho công lý của Chúa Cha để đền bù các lỗi lầm ấy bằng cuộc khổ nạn của Người. Satan dãy dụa khủng khiếp, dáng vẻ vừa khinh mạn vừa cuồng bạo giữa tất cả những điều ghê tởm khủng khiếp ấy. Cơn cuồng giận của nó càng lúc càng gia tăng đối với Chúa Giêsu. Nó phô diễn ra trước linh hồn Người các hình ảnh ghê gớm hơn, và nó kêu lên với nhân tính của Người:

- Vậy ra ngươi lại còn đòi lãnh trên mình ngươi cả thứ tội này nữa hả! Làm sao ngươi đền bù nổi bấy nhiêu tội ác?

Tuy nhiên, một con đường sáng hiện ra trên trời về phía Đông và hạ xuống trên Chúa Giêsu: tôi đã thấy dọc theo con đường này nhiều phẩm trật thiên thần bay xuống cùng Người để nâng đỡ và giúp Người thêm vững mạnh. Trong hang vẫn đầy những hình ảnh ghê sợ tội lỗi của chúng ta, và đầy dẫy thần dữ cám dỗ Chúa và chế nhạo Người. Chúa Giêsu đã lãnh trên thân xác Người tất cả các tội ác ấy, nhưng trái tim Người, trái tim duy nhất yêu mến Thiên Chúa và loài người bằng tình yêu tinh tuyền và hoàn hảo, đã cảm thấy trong sa mạc muộn phiền này cái gánh nặng ghê gớm của vô số tội lỗi. Kinh hoàng đè nặng lên thân Người, và chúng gây đau đớn cho Ngườøi. Hỡi ôi! Các tội ác này, tôi đã thấy quá nhiều đến nỗi dù một năm trời cũng không kể hết được.

Sau khi đại dương tội lỗi và các xúc phạm ấy diễn hành trước linh hồn Chúa Cứu Thế, và chính Người đã dâng mình làm của lễ đền tội để chịu tất cả hình phạt và ưu phiền vì chúng, Satan còn gợi thêm ra cho Người, như xưa trong hoang địa, nhiều cám dỗ vô số kể. Nó còn dám tạo ra cả một loạt các lời tố cáo Chúa Giêsu, là Chiên Con không tì ố. Nó nói với Người:

- Thế nào, ngươi muốn lãnh lấy tất cả những cái đó trên mình ngươi ư, trong khi chính ngươi không trong sạch!

Thế rồi, với cái hỗn xược của hỏa ngục, nó bày ra trước mắt Người một bản cáo trạng, và gán cho Người một loạt những lời trách cứ tưởng tượng. Nó trách Người về tất cả mọi thiếu sót của các môn đệ Người, về những gương xấu mà họ đã gây nên, về sự xáo trộn và vô trật tự mà Người đã đưa vào thế gian khi hủy bỏ các tập tục cũ. Satan nói như người Biệt Phái tinh tế nhất và xảo quyệt nhất có thể làm: nó tố cáo Chúa Giêsu là đã gây ra vụ thảm sát các hài nhi, cũng như những khó nhọc và đau khổ của cha mẹ Người tại Ai Cập; về chuyện đã không cứu Gioan Tẩy Giả khỏi chết, đã làm phân tán nhiều gia đình, đã bảo trợ nhiều người tai tiếng, đã không chữa lành nhiều bệnh nhân, đã làm thiệt hại cho dân cư thành Gergesa bằng cách ra lệnh cho những người bị qủy ám lật đổ các bồn nho của họ và để cho bọn qủy xô nhào xuống biển cả bầy heo của họ. Nó còn tố cáo Người đã không ngăn cản Mađalêna tái phạm, đã bỏ gia đình mình, đã xài hoang phí của cải của người khác.

Nói tóm lại, Satan bày vẽ ra trước linh hồn hấp hối của Chúa Giêsu, để làm Người nản lòng, tất cả những gì mà tên cám dỗ có thể trách cứ một người vào lúc hấp hối. Nó không biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và nó chỉ cám dỗ Người như cám dỗ một người công chính nhất mà thôi. Chúa Cứu Thế của chúng ta đã để cho nhân tính thánh thiện của Người bị áp chế quá mạnh, đến nỗi Người muốn chịu cơn cám dỗ mà những người công chính vào giờ chết thường phải chịu về trách nhiệm các hành động của mình. Để uống cạn tất cả chén đắng của đợt hấp hối đầu tiên này, Người đã để cho Satan bầy vẽ ra trước mắt Người trách nhiệm về các hành động của Người cũng như những món nợ Người mắc với ơn thánh Chúa mà Người vẫn chưa thanh toán. Tên cám dỗ trách Người là muốn xóa bỏ các tội của người khác, trong khi chính Người lại không có công nghiệp và vẫn còn mắc nợ Thiên Chúa.

Con Thiên Chúa đã cho phép ma qủy cám dỗ nhân tính của Người, như nó có thể cám dỗ một người nào đó muốn gán cho các hành động của mình một giá trị riêng, ở bên ngoài cái giá trị mà họ có thể có được nhờ sự liên kết với công nghiệp của Chúa Cứu Thế. Vậy Satan đã cho Người thấy các công việc của Người cũng như bao nhiêu món nợ với Thiên Chúa, và nó bày vẽ cho Người rằng những việc ấy chẳng có công trạng gì, và chúng chẳng cân xứng chút nào với ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Người. Nó còn nói với Người:

- Ngươi thấy rõ rằng ngươi vẫn còn mắc nợ với Thiên Chúa về tất cả những chuyện đó!

Sau cùng, nó trách Người về chuyện đã nhận tiền từ Lagiarô và tiêu xài hết số tiền bán bất động sản của Mađalêna ở Magdalum. Nó nói với Người:

- Sao ngươi dám liều lĩnh tiêu xài của cải người khác, và lấy của gia đình người ta?

Tôi đã thấy hình ảnh về tất cả các tội trọng mà Chúa đã dâng mình làm của lễ đền tội cho chúng, và tôi đã cảm được gánh nặng về tất cả các lời tố cáo mà tên cám dỗ đổ trên Người. Giữa các tội lỗi của toàn thể thế giới mà Chúa Giêsu tự nguyện lãnh nhận, tôi đã thấy cả tội của tôi nữa. Và từ giữa vòng đai của những cám dỗ bao quanh Người, đã thoát ra và đổ dồn về phía tôi như một giòng sông lớn, trong đó, tôi kinh hoàng nhìn thấy muôn vàn tội lỗi của tôi. Trong giờ phút kinh hoàng đó, tôi luôn chăm chú ngước mắt nhìn lên Đức Lang Quân của tôi. Tôi rên xiết than thở và cầu nguyện với Người, và cùng với Người tôi quay về phía các thiên thần an ủi. Hỡi ôi! Chúa vặn mình như một con sâu dưới gánh nặng đau thương và khủng khiếp của Người.

Khi nghe tất cả các lời tố cáo của Satan về Con Chiên không tì ố ấy, tôi đã thấy bừng bừng nổi giận. Nhưng lúc nó nói về giá bất động sản ở Magdalum và tố cáo Người đã tiêu hoang phí, tôi không cầm được cơn giận, và tôi bảo nó:

- Sao ngươi dám kết tội Đức Giêsu với việc mua bán bất động sản của Mađalêna? Chính tôi thấy Đức Chúa dùng số tiền ấy, mà Lagiarô đã biếu, để làm việc bác ái, để giải thoát 27 tù nhân tội nghiệp, những kẻ bị cầm tù vì thiếu nợ ở Tirza.

Vào lúc đầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện một cách rất bình thản, nhưng không bao lâu, linh hồn Người hoảng hốt trước cảnh tượng vô số các tội ác của loài người và những vô ơn của họ đối với Thiên Chúa. Người bị xâm chiếm bởi sự kinh hoàng chí tử và đau đớn quá mạnh đến nỗi Người run lẩy bẩy kêu lên:

- Abba, lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con! Lạy Cha, mọi sự đều có thể đối với Cha, xin cất chén này xa con.

Rồi Người hồi tâm và lại thưa:

- Nhưng xin theo ý Cha, chứ đừng theo ý con.

Ý của Người và của Cha Người vẫn là một, nhưng vì đã phó mình cho yếu đuối của bản tính loài người, nên Người run sợ khi nhìn thấy cái chết.

Tôi thấy trong hang động đầy những bóng ma khủng khiếp. Tất cả các tội lỗi, các điều gian ác, các nết xấu, các điều vô ơn bạc nghĩa, các hình phạt đều đè nặng lên Người cùng một lúc. Đồng thời, các lời gây kinh hoàng của thần chết và sự sợ hãi mà Người thấy thấm thía khi nhìn đến tất cả các đau khổ Người phải chịu, đã dồn ép tấn công Người dưới hình thức các bóng ma gớm ghiếc. Người chắp tay, run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra thấm ướt toàn thân Người. Sau cùng Người ngã gục sát mặt đất. Người lại trỗi dậy, đầu gối Người lảo đảo, môi Người tái mét, tóc Người dựng đứng trên đầu. Người đã hoàn toàn biến sắc, và hầu như người ta không còn nhận ra Người nữa.

Vào lúc 10 giờ rưỡi, sau khi cầu nguyện xong, Người chập choạng trỗi dậy, nhưng té ngã từng bước, ướt đẫm một thứ mồ hôi lạnh. Người lết tới chỗ ba Tông Đồ đang trú ẩn. Người thấy họ đã thiếp ngủ vì mệt, vì buồn sầu và vì sự kinh hoàng mà họ đã cảm thấy. Chúa Giêsu đến với các môn đệ như một người chìm ngập trong sầu muộn và kinh hoàng tìm đến bên cạnh những người bạn thân, hay như một mục tử tốt lành, dù là chính mình đang khiếp sợ, vẫn không quên đàn chiên mình chăn đang bị nguy hiểm. Người biết chính họ cũng đang kinh hoàng và đang bị cám dỗ. Các hình thù khủng khiếp cứ theo đuổi Người trong suốt quãng đường đi. Khi thấy các Tông Đồ say ngủ, Người đan tay vào nhau và vì quá mệt mỏi Người ngã xuống bên cạnh họ. Người buồn sầu hỏi:

- Simon ơi, ngươi ngủ ư?

Khi đó các ông đều tỉnh dậy. Chúa Giêsu nói với các ông trong nỗi cô đơn tột cùng:

- Thế là các anh không thể thức được với Thầy một giờ sao!

Khi họ thấy Người xanh xao biến sắc, lảo đảo, ướt đẫm mồ hôi, run lẩy bẩy, khi họ nghe Người nói giọng nghẹn ngào, họ không biết phải nghĩ sao, và nếu không có vầng hào quang rất quen thuộc vẫn bao quanh đầu Người, chắc họ đã chẳng nhận ra được Người. Khi đó Gioan hỏi Người:

- Thưa Thầy sao vậy? Con có nên gọi các môn đệ kia hay không? Chúng ta có phải đi trốn không?

Chúa Giêsu trả lời:

- Nếu Thầy có sống, có giảng dậy và chữa bệnh thêm 33 năm nữa, điều đó vẫn không đủ để làm những gì mà Thầy phải thực hiện từ lúc này cho đến ngày mai. Con đừng gọi tám người kia làm gì. Thầy đã bỏ họ lại đó, vì họ sẽ không thể thấy Thầy trong cảnh khốn cùng này mà không bị vấp phạm: họ sẽ sa chước cám dỗ, họ sẽ quên đi nhiều chuyện, và họ sẽ hoài nghi cả Thầy nữa. Về phần các anh đã một lần thấy Con Người biến hình vinh hiển, thì các anh cũng có thể thấy Người trong sự tăm tối và cô đơn này, nhưng các anh hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi sa chước cám dỗ. Tinh thần thì mau lẹ nhưng xác thịt lại yếu đuối.

Như thế là Người muốn khích lệ các ông hãy kiên tâm bền chí, loan báo cho các ông cuộc giao tranh giữa bản tính nhân loại của Người với cái chết, và cho các ông biết nguyên nhân làm cho Người suy nhược. Người nói với các ông một cách buồn bã, và ở bên các ông thêm một giờ nữa, rồi Người trở lại hang ấy, trong khi nỗi kinh hoàng vẫn luôn gia tăng. Ba Tông Đồ dang tay về phía Người và khóc, rồi họ ôm nhau và hỏi:

- Như vậy là thế nào? Chuyện gì xảy ra cho Thầy vậy? Thầy hoàn toàn rã rời khiếp đảm!

Thế rồi họ bắt đầu cầu nguyện, họ trùm đầu mà lòng thật đau đớn. Đã một tiếng rưỡi đồng hồ trôi qua kể từ khi Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu. Người nói đúng như Kinh Thánh viết: "Như vậy là các con đã không thức nổi một giờ với Thầy!" nhưng người ta không thể giải thích những lời này bằng cách đo thời gian của chúng ta. Ba Tông Đồ ở với Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước hết, rồi các ông thiếp ngủ vì các ông đã sa chước cám dỗ bởi thiếu lòng trông cậy. Tám ông khác, những người ở lại cổng, họ không ngủ. Nỗi buồn sầu mà Chúa Giêsu đã bày tỏ trong cuộc nói chuyện lần cuối cùng đã làm các ông bồn chồn lo lắng. Các ông đi lang thang trên núi Cây Dầu, tìm kiếm một nơi để có thể ẩn mình.

Tại Giêrusalem chẳng có gì làm náo động sự im lặng của đêm thanh. Những người Do Thái đều có mặt trong nhà, bận rộn với việc chuẩn bị mừng lễ. Các lều tạm của những khách lạ đến để mừng Lễ Vượt Qua không thấy xuất hiện ở chung quanh núi Cây Dầu. Tôi đã thấy nhiều người bạn và nhiều môn đệ của Chúa Giêsu đi lang thang đây đó và chuyện vãn với nhau. Họ có vẻ lo lắng và trong tình trạng chờ đợi nặng nề. Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, chị Mađalêna, Chị Máttha, bà Maria Clêopha, bà Maria Salômê đã rời Nhà Tiệc Ly và đã tới nhà bà Maria mẹ của Máccô. Nhưng hoảng sợ vì tiếng đồn, các bà trở lại gần thành phố để thăm dò tin tức của Chúa Giêsu. Lagiarô, Nicôđêmô, Giuse Aramathi và vài người bà con từ Hêron đến đã gặp các bà, họ tìm cách trấn an các bà. Sau khi tự mình hoặc nhờ các Tông Đồ mà biết được lời tiên đoán buồn thảm của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly, các bà đã dò hỏi những người biệt phái quen biết, nhưng các bà không hay biết gì về việc người ta sắp ra tay chống lại Chúa Giêsu. Các bà cho rằng sự nguy hiểm không thể nào quá lớn và chẳng lẽ người ta lại bắt Chúa Giêsu vào gần ngày đại lễ như vậy. Các bà vẫn chưa biết gì về chuyện phản bội của Giuđa. Đức Maria đã nói với các bà về sự bấn loạn của kẻ khốn khổ này trong những ngày cuối cùng, và về việc hắn rời bỏ Nhà Tiệc Ly. Người vẫn thường nói với hắn rằng hắn là đứa con hư hỏng.

- Ôi chao! - Người nói – nhất định là nó đã đi thi hành trọn vẹn tội phản bội của nó rồi.

Sau đó các bà này trở về nhà bà Maria, mẹ của Máccô.

Trích từ Thị kiến Cuộc thương khó của Chúa Giêsu của Chân phước Anne Catherine Emmerich

Đây chỉ là phần đầu, phần ngắn, của những gì Chúa Giêsu trải qua trong Vườn Cây dầu. Còn tiếp trong chương 3. Bạn có thể tải về đọc tiếp

Share:

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024

Thánh Giuse ngủ

“Bạn có thức khuya hay dậy sớm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Còn kẻ được Chúa thương dẫu có ngủ, Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng”.
-- Thánh vịnh 127,2

Thiên Chúa yêu thích giấc ngủ vì chính Ngài tạo nên nó.
Cha Trên Trời của bạn đã sắp xếp cho bạn để một phần ba cuộc đời được dành cho ngủ nghỉ. Chính Ngài cũng đã ngơi nghỉ khi tạo dựng xong thiên đàng và địa cầu. (Xin đọc St 2,2-3).

Thiên Chúa là Cha. Ngài an lòng khi con cái mình an giấc. Thiên Chúa cũng tiếp xúc với con cái mình khi chúng đang ngủ. Đây là một sự thật có trong Kinh Thánh. Trong cuộc đời và sứ vụ của Thánh Giuse, Thiên Chúa đã chọn để nói với thánh nhân khi Ngài đang ngủ. Trong bốn lần khác, Thiên Chúa qua thiên thần cũng trao cho Thánh Giuse những sứ điệp vô cùng quan trọng chính trong giấc mơ của thánh nhân. (Đọc Mt 1,20; 2,13; 19,22).

Giấc ngủ của Thánh Giuse vô cùng quan trọng và quyền năng đến độ Satan cũng khiếp sợ. Kitô giáo luôn dạy rằng Satan, một thụ tạo phản loạn, đã chọn không phục tùng Chúa, hắn đã cao ngạo tuyên xưng, “Non serviam” (“Tôi không phục tùng ai cả, Giêrêmia 2,20). Ngược lại, Đức Trinh Nữ Maria đã hạ mình khiêm xưng “Fiat mihi secundum verbum tuum” (“Xin làm cho tôi như lời thánh thiên thần truyền” (Lc 1, 38]). Thánh Cả Giuse đã trả lời với hành động vâng phục hơn là lời nói: “Fecit sicut praecepit ei angelus Domini” (“Ngài làm như lời sứ thần Chúa truyền” (Mt 1,24]). Giấc ngủ của Thánh Giuse là một cú hít làm thay đổi ván cờ (game-changer)!

Dẫn theo Tân Ước, giấc ngủ của Thánh Giuse là một lời cầu nguyện. Nay trên trời, Thánh Giuse không ngủ nữa, tất nhiên là vậy, nhưng Ngài đang “an nghỉ trong Chúa” đến thiên thu. Há chẳng phải giấc ngủ ở đời sau gọi là “nghỉ yên muôn đời (eternal rest) đó sao?

Dạo gần đây, một lòng sùng kính phổ biến đã phát triển trong Giáo Hội gọi là “Thánh Giuse Ngủ”. Lòng sùng kính này bao gồm việc có một tượng Thánh Giuse đang nằm ngủ, cầu xin Thánh Giuse bầu cử cho một ý nguyện nào đó, viết ý nguyện đó vào một mẩu giấy rồi đặt mẫu giấy bên dưới tượng Thánh Giuse Ngủ. Nhờ làm như vậy, người ấy xin Thánh Giuse cầu bầu cho ý xin của mình với Thiên Chúa. Lòng sùng kính với Thánh Giuse Ngủ là một phương cách tuyệt diệu để bạn có thể hằng liên kết với Cha Thánh và xin Ngài cầu nguyện (nằm ngủ) trên chính ý nguyện của bạn.
Một thi sĩ người Pháp tên là Charles Péguy đã từng sáng tác một thị phẩm tuyệt vời đề cao vị thế quan trọng của giấc ngủ, bài thơ mang tên Chiếc cổng dẫn vào Mầu nhiêm Hi Vọng (The Portal of the Mystery of Hope)

Bài thơ này được viết với góc độ là Thiên Chúa và để qua đó nhắc nhớ người hiện đại về niềm hân hoan của Chúa khi trông thấy con cái Ngài yên giấc. Đây là một đoạn trích nhỏ:

“Chỉ cần ngủ. Cớ sao nhân trần không tận dụng điều ấy?
Chúa nói, Ta đã bạn bí mật này cho hết mọi người. Ta chẳng bán buôn gì điều ấy.
Kẻ ngủ ngon giấc sẽ sống tốt. Kẻ ngủ luôn cầu nguyện.
Kẻ lao công cũng cầu nguyện luôn. Nhưng mọi sự đều có kỳ hạn của nó. Cả ngủ nghỉ lần lao công.
Ngủ và làm như đôi huynh đệ. Và chúng rất hòa thuận với nhau.
Và ngủ đưa tới làm và làm dẫn tới ngủ.
Kẻ làm nhiều sẽ ngủ được, kẻ ngủ ngon sẽ làm tốt.

***

Và có kẻ nói với bạn rằng có những người không bao giờ ngủ.
Chúa nói, Ta không ưa những kẻ không ngủ.
Ngủ là bạn của loài người
Ngủ là bằng hữu của Thiên Chúa.
Ngủ có lẽ là công trình diễm lệ nhất của bạn.
Và Ta đây cũng ngơi nghỉ vào ngày thứ bảy.
Ai có trái tim tinh tuyền, ngủ.Và kẻ ngủ cũng có trái tim trắng trong.
Đó là bí mật vĩ đại để bạn nên như trẻ thơ không bao giờ mệt mỏi.

***

Đúng, họ nói Ta có những người làm rất tốt nhưng ngủ lại ít.
Ai không ngủ. Họ là kẻ thiếu niềm tin nơi Ta.

Ta đang nói về những ai làm mà không ngủ.
Ta lấy làm tiếc cho các con. Ta đang nói với những ai làm, và những ai làm điều này vì vâng nghe điều răn bạn, hỡi các con tội nghiệp.
Và những ai, mặt khác, không có dũng cảm, không đủ tin tưởng để ngủ.
Ta lấy làm tiếc cho các con. Ta sẽ lấy đó làm điều chống lại các con. Một chút. Họ không tin tưởng Ta.
Như con trẻ ngã mình vô tội vạ trong vòng tay mẹ của nó, những kẻ kia không ngã mình an nhiên trong vòng tay Quan Phòng của Ta,
Chúng có can đảm để làm đấy,
Chúng lại không đủ dũng cảm để làm điều nào khác.
Chúng là kẻ có nhận đức cần lao.
Chúng không thể có thêm nhân đức nào khác.
Nhân đức của thư giãn. Của nghỉ yên. Của ngủ nghỉ.
Ôi những con người không hạnh phúc, chúng chẳng biết điều gì là tốt.
-- Charles Peguy

Giấc ngủ của Thánh Giuse có thể dạy cho người hiện đại những bài học quan trọng về cuộc sống. Một trong những bài học quan trọng ấy rằng nghỉ ngơi là điều bình thường. Là một kẻ cuồng công việc không bao giờ là điều tốt. Thánh Giuse không phải là người tham công tiếc việc. Ngài ưa thích nghỉ ngơi. Ngủ nghỉ tưới mát linh hồn Ngài. Thiên Chúa tiếp xúc với Thánh Giuse khi Ngài đã ngủ, và Ngài vẫn nhờ đó mà trở nên người chồng, người cha thánh thiện hơn.

Ta không lãng phí thời gian khi ngủ nghỉ. Giấc ngủ là điều làm vui lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ chuyện trò với bạn và tưới mát linh hồn bạn khi bạn yên giấc.

“Lạy Thánh Cả Giuse, Cha là người nam được Thiên Chúa vô cùng yêu quý. Sứ Thần Chúa hiện ra với Cha trong giấc mơ, đang khi Cha yên giấc, để cảnh báo, để dẫn đưa ngõ hầu bảo vệ cho Thánh Gia Thất. Cha là Đấng vừa thinh lặng, vừa mạnh mẽ, là Đấng bảo vệ trung thành và can đảm. Lạy Thánh Giuse, giờ đây khi Cha đang yên nghỉ trong Chúa, đang lúc Cha trọn niềm tín thác nơi Thiên Chúa uy quyền và trọn tốt trọn lành, xin đoái thương đến con. Xin đem những nhu cầu của con cất giấu nơi trái tim Cha, xin Cha mơ về điều đó và đem diện trình cho Con của Cha luôn. Ôi Thánh Cả Giuse tốt lành, xin giúp con biết lắng nghe tiếng Chúa để trỗi dậy và hành động với tình yêu. Con hân hoan ca ngợi và cảm tạ Chúa. Lạy Cha Thánh Giuse, con yêu mến Cha. Amen.

Trích từ Tận Hiến Cho Thánh Cả Giuse

Share:

Thứ Tư, 13 tháng 3, 2024

Vì chết cho chúng ta, Ngài đáng được tôn thờ

“Đức Giêsu đáp: ‘Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.’ Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào” (Gioan 12:31-33).

Chúa Giêsu nói về Ngài sẽ được “tôn vinh” qua cây thập tự. Điều này thật nghịch lý, nhưng việc làm đem lại vinh quang tột đỉnh của Thiên Chúa là Thập giá, nơi Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình đối với các tạo vật của mình bằng cách sẵn sàng chịu chết. Bất cứ vị thần nào cũng có thể chế ngự được các sinh vật, nhưng một vị thần yêu thương chúng đến mức sẵn lòng đặt mình dưới sự bị ngược đãi của sinh vật thụ tạo mới là một vị thần thực sự vĩ đại, một vị thần đáng được tôn thờ.

Chúa Giêsu cũng nói về Thập Giá như một cuộc phán xét khi kẻ thống trị thế gian này sẽ bị trục xuất. Điều này có nghĩa là quyền lực của Satan bị đập tan cách dứt khoát ở cây Thập Giá. Đúng là Satan vẫn gây ra những khó khăn to lớn cho chúng ta, nhưng hắn chỉ có thể làm như vậy khi có sự đồng ý của chúng ta. Mỗi khi chúng ta phạm tội, chúng ta đồng ý cho nó hoạt động. Nếu chúng ta không đồng ý, chúng ta có quyền lực đối với nó nhờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội có quyền lực trên nó và có thể xua đuổi nó qua các bí tích và việc trừ quỷ.

 “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Chúa Giêsu nóng lòng hướng về Bữa Tiệc Ly và Thánh Giá. Trong Bữa Tiệc Ly, Người sẽ giơ tay lên và hiến dâng bản thân mình dưới hình bánh cho các Tông Đồ, thiết lập Giao Ước Mới qua bí tích. Nơi cây Thập Giá, thân xác Người sẽ được treo lên, khi Người khẳng định sự tự hiến của mình trong lầu trên, bằng cách trao ban chính mình cho đến chết. Nơi cây Thập Giá, Gioan đã làm chứng về máu và nước chảy từ cạnh sườn Chúa Giêsu (xem Gioan 19:34), đồng thời là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần tuôn đổ ra từ thân thể Ngài – Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đổ đầy tình yêu trong chúng ta, nhưng cũng là dấu chỉ của các bí tích (máu Thánh Thể và nước rửa tội), là một dòng sông xuyên qua không gian và thời gian mang đến cho chúng ta ân sủng của Chúa Thánh Thần.

Tin Mừng thánh Gioan là một Tin Mừng nêu bật nghịch lý: Sự sỉ nhục lớn lao nhất của Chúa Giêsu chính là lúc Ngài được tôn vinh; Satan có chiến thắng nhưng thực sự là nó bị phán xét và bị đuổi trừ; việc nhân loại từ chối Chúa Giêsu trên thập tự giá sẽ dẫn đến việc Ngài lôi kéo tất cả mọi người đến với mình.

Vào những tuần cuối cùng của Mùa Chay này, Kinh Thánh mời gọi chúng ta suy ngẫm sâu sắc hơn về thực tại đón nhận cái chết của chính mình - dưới hình thức những “cái chết” nho nhỏ của cái tôi qua những hành động từ bỏ bản thân hàng ngày mà chúng ta thực hiện trong Mùa Chay -- là con đường dẫn đến Giao Ước Mới và sự sống mới. -- Dr Peter Kreeft

Share:

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024

Vậy lằn phân chia là ở đâu? Ai được cứu và ai không?

Kinh Thánh là cuốn sách phổ biến nhất, nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất trên thế giới. Tân Ước là phần được yêu thích nhất trong Kinh Thánh. Phúc âm là những cuốn sách được yêu thích nhất trong Tân Ước. Tin Mừng Thánh Gioan là Tin Mừng được yêu thích nhất. Và chương ba, câu 16 là câu được yêu thích nhất. Bạn thường thấy nó được viết nguệch ngoạc trên những cây cầu trên đường xá và trên những tấm bìa cứng được treo trong các trận bóng. Câu ấy là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống đời đời”. Đó là bản chất của Tin Mừng, bản chất của Kitô giáo.

Điều đầu tiên bạn cần chú ý là đây là tin tức,nlà một sự kiện lịch sử, không phải là một nguyên lý trừu tượng vượt thời gian. Nó thực sự đã xảy ra. Đó là điều kỳ diệu, tuyệt vời, choáng váng, khó tin nhất từng xảy ra: Thiên Chúa đã sai người Con Một vô cùng yêu dấu của Ngài đến thế giới chúng ta, để hiến dâng mạng sống, Mình và Máu của Người trên thập tự giá, để cứu chúng ta khỏi tội lỗi và cho chúng ta được chia sẻ vào sự sống vĩnh cửu của Ngài.

Điều đó thực sự đáng kinh ngạc. Hãy tưởng tượng bạn nuôi kiến làm thú cưng trong một trang trại kiến. Chúng có quyền tự do lựa chọn giữa thực phẩm bạn cho chúng ăn, thứ mà sẽ mang lại cho chúng sự sống và hạnh phúc mãi mãi, hoặc một loại thực phẩm khác, thứ thực sự rất độc hại đối với chúng. Nhưng chúng đã không tin tưởng bạn và chọn ăn thứ thuốc độc. Phản ứng của bạn trước cuộc phản nghịch này không phải là để chúng chết mặc chúng, đó là điều chúng đáng phải chịu, mà là cứu chúng nó, bằng cách tự biến mình trở thành một con kiến và đi vào trang trại kiến để có thể ban cho chúng cơ thể và máu của chính bạn như một liều thuốc giải độc duy nhất, và là thức ăn duy nhất có thể cứu chúng. Bạn đã tặng món quà chúng không chút xứng đáng lãnh nhận này cho bất kỳ chú kiến nào tin tưởng bạn và đón nhận lấy nó. Bạn biết lũ kiến sẽ giết bạn nếu bạn bước vào thế giới của chúng, nhưng bạn vẫn làm tất cả những điều đó, chỉ vì bạn quá yêu quý những con kiến nhỏ bé không xứng đáng và phản nghịch đó. Bạn không nhận được gì từ điều đó. Bạn không hề cần chúng nó chút nào. Nhưng chúng lại cần bạn. Bạn đã làm điều đó vì tình yêu vị tha thuần khiết.

Thật là một câu chuyện nực cười! Thật khó tin phải không? Đó là mầu nhiệm lớn lao của tôn giáo chúng ta: tại sao Thiên Chúa lại yêu thương chúng ta đến thế? Và câu trả lời duy nhất là: bởi vì Thiên Chúa là như vậy. Thiên Chúa là tình yêu thuần khiết, và tình yêu cho đi tất cả. Khi Ngài đến, Ngài đã trao cho chúng ta mọi thứ, tất cả của Ngài, trọn vẹn mười lít máu của thân thể Ngài, trên thập tự giá. Máu thần thánh có sức mạnh vô hạn đến nỗi chỉ một giọt máu đó cũng có thể cứu được cả thế giới, một giọt máu mà Ngài đã đổ ra khi lãnh nhận phép cắt bì của Do thái giáo. Tại sao Ngài lại cho chúng ta mười lít thay vì một giọt? Bởi vì Ngài có mười lít để cho! Đó chính là điều tình yêu làm: tình yêu cho đi tất cả.

Và chúng ta phải làm gì để có được nó? Chúng ta có phải đủ điều kiện nào? Làm sao ai có đủ điều kiện để xứng đáng? Chúng ta có cần phải đủ tốt để xứng đáng với điều đó không? Không thể nào. Có phải món quà này chỉ dành cho các vị thánh? Không, nó dành cho những người tội lỗi, và các vị thánh là những người đầu tiên thừa nhận mình là tội nhân. Chỉ có tội nhân mới nghĩ mình là thánh.

Vậy lằn phân chia là ở đâu? Ai được cứu và ai không? Ai có được sự sống đời đời và ai không? Không có điểm phân chia. Nó dành cho tất cả mọi người. Nó miễn phí. Không ai có thể mua được nó, ngay cả với đống đống những việc tốt lành nhất. Đó là một món quà, và bạn không thể mua được một món quà, bởi vì một món quà được trao đi vì yêu, và bạn không thể mua được tình yêu.

Vậy làm thế nào bạn có được sự sống đời đời, sự sống của Thiên Chúa, hay đời sống thiên đàng? Có phải bạn lên thiên đàng nếu bạn đủ tốt và xuống địa ngục nếu bạn đủ tệ không? Không. Bạn sẽ có được sự sống đời đời nếu bạn muốn, hãy muốn nó, đón nhận, tin tưởng vào sự sống ấy. Bạn lãnh nhận được nó nếu bạn tin vào nó (xem Gioan 1:12). Bởi vì “nó” đây chính là “Ngài”; đó là chính Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Bạn chỉ cần làm một điều. Điều đó có hai phần, một phần tiêu cực và phần kia thì tiêu cực. Phần tiêu cực là bạn phải đủ thành thật để thú nhận tội lỗi của mình và ăn năn sám hối. Phần tích cực là tin tưởng, nói lời xin vâng, tin tưởng vào món quà này và người ban tặng này, bởi vì món quà thần thiêng này chính là Ngài. Bạn không tin vào những ý tưởng, bạn tin vào một người. Đức tin không chỉ là một ý kiến, một quan điểm, bên trong bạn, trong tâm trí bạn: đức tin là một mối quan hệ, là chuyện giữa bạn và Chúa; nó giống như hôn nhân.

Chúa đưa ra lời cầu hôn, một cuộc hôn nhân thiêng liêng vĩnh cửu với bạn, và việc bạn nói đồng ý hay không với Ngài là tùy thuộc vào bạn. Nếu bạn nói có, Ngài sẽ truyền cho bạn sự sống thiêng liêng của Ngài, đó là sự sống của tình yêu tự hiến, và rồi những công việc tình yêu bắt đầu tuôn ra từ bạn, như những đứa con được sinh ra bởi người phụ nữ đã có gia đình.

Chuyển ngữ từ Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B) by Peter Kreeft

Share:

Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2024

Hãy để Bác sĩ vào chữa lành bệnh tim cho ta

"Anh em đã chết vì phạm tội, nhưng được cứu độ nhờ ân sủng."

Trích từ Peter Kreeft cho bài đọc 2 (Êphêsô 2:4-10) của Chúa Nhật thứ V Mùa Chay, Năm B

… Đức tin không chỉ là một tập hợp những tín lý để tin. Thánh Giacôbê nói: “Bạn tin rằng Thiên Chúa là duy nhất. Bạn làm tốt. Ngay cả ma quỷ cũng tin điều đó và run sợ” (Gia-cô-bê 2:19). Tín điều của chúng ta chỉ là một hành động của tâm trí, nhưng đức tin thì còn hơn thế nữa; nó cũng là một hành động của ý chí và của trái tim, bao gồm niềm trông cậy và tình yêu và những công việc thực hiện vì yêu thương của chúng ta. Vì vậy, khi Thánh Phaolô nói rằng chính đức tin cứu chúng ta, ngài muốn nói “đức tin” không chỉ là một, mà có cả ba chiều kích, đức tin, đức cậy và đức ái – gốc rễ, cành và hoa trái. Và khi Thánh Giacôbê nói rằng chỉ đức tin thôi không cứu được chúng ta, “đức tin” ngài muốn nói đến chỉ là chiều kích trí tuệ của nó, những tín điều.

Vì hầu hết chúng ta có thể biết khá rõ quan điểm của Thánh Giacôbê, nhưng có lẽ không rõ lắm về quan điểm của Thánh Phaolô, nên chúng ta cần đi sâu hơn vào quan điểm của Thánh Phaolô. Tại sao điều quan trọng là phải nhận ra rằng chúng ta được cứu bởi đức tin chứ không chỉ bởi những việc lành?

Bởi vì đối tượng của đức tin là Thiên Chúa và ân sủng của Ngài, trong khi đối tượng của việc lành là con người. Những người khác không thể cứu chúng ta cũng như chúng ta không thể tự cứu mình. Nếu chúng ta tin rằng mình được cứu nhờ những việc làm tốt của mình, chúng ta sẽ nghĩ mình xứng đáng được hưởng thiên đàng, được trả lương, được đối xử cách công bằng. Đó là điều mà những người Pharisêu tin, họ tin rằng những việc làm tốt của họ khiến họ xứng đáng được lên thiên đàng. Nhưng Chúa Giêsu đã làm họ choáng váng khi nói với họ rằng họ đang trên đường xuống địa ngục! Tại sao? Bởi vì họ thiếu nhân đức đầu tiên là khiêm tốn, khiêm tốn để xưng thú tội lỗi và sám hối. Chúa Giêsu bảo họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mác-cô 2:17). Chúa Giêsu đang nói: Nếu bạn thừa nhận rằng bạn bị bệnh và đến với tôi như bác sĩ của tâm hồn mình, nếu bạn gõ cửa phòng tôi, tôi sẽ mở cho; nhưng tôi sẽ không ép buộc bạn. Bạn cần phẫu thuật tim, và bạn sẽ chết nếu không có nó, nhưng bạn phải thừa nhận điều đó và cầu xin tôi sự chữa lành mà chỉ tôi mới có thể mang lại cho bạn. Ai xin thì sẽ nhận được, nhưng chỉ những ai xin thôi thì mới được.”

Có một bức tranh nổi tiếng, trong đó Chúa Giêsu đang gõ cửa, cánh cửa trái tim và cuộc đời chúng ta. Ngoài cửa không có núm vặn. Núm ở bên trong. Chúa Giêsu không phớt lờ ý chí tự do của chúng ta và đạp sập cánh cửa. Cánh cửa phải được mở ra từ bên trong, bởi chúng ta.

Phần của chúng ta là hãy để bác sĩ vào. Phần của Ngài là cho chúng ta một ca phẫu thuật chữa lành, một trái tim mới. Tác giả Thánh Vịnh cầu nguyện: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trăng” (Tv 51:12). Chỉ có Chúa mới có thể tạo ra điều gì đó hoàn toàn mới. Và chúng ta lại cần một trái tim mới. Một trái tim sa phạm tội lỗi, dại dột và ích kỷ của chúng ta sẽ không thể chịu đựng được thiên đàng của Chúa, sự hiện diện trọn vẹn của Ngài. Và rõ ràng là chúng ta không thể tự mình thực hiện phẫu thuật tim. Chỉ có Chúa mới có thể làm được công việc đó. Nhưng Ngài sẽ không làm điều đó nếu không có sự đồng ý của chúng ta.

Chúng ta được cứu bởi đức tin bởi vì đức tin là sự đồng ý của chúng ta đối với công việc của Chúa Giêsu nơi ta, là sự lựa chọn tự do để lãnh nhận món quà của Ngài, ân sủng của Ngài, sự hiến dâng chính mạng sống mà Ngài đã ban cho chúng ta trên thập giá, và thông truyền cho chúng ta trong các bí tích.

Share:

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2024

Đức công minh của Chúa chính là lòng thương xót của Ngài

Hôm nọ thấy hình cartoon ở trên; nó làm mình tiếp tục suy nghĩ về giới luật và giao ước.

Tại sao Chúa thiết lập giao ước với loài người? Mục đích của giao ước là gì? Chỉ là vài điểm đơn giản thôi nhé.

Khi phạm tội đầu tiên trong Vườn Địa đàng, Ađam và Evà đã tự tách mình ra khỏi Gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng từ đó trở đi, Chúa không ngừng hoạt động để đưa con người trở về với Gia đình của Ngài. Lần lại lần Chúa thiết lập giao ước: Với Nô-e, với Áp-ra-ham, với Gia-cóp, với dân Do thái sau khi rời bỏ Ai-cập.

Chúa qua giao ước dạy cho loài người cách sống trong Gia đình của Chúa. Và khi thiết lập giao ước, các con vật dược làm lễ toàn thiêu, sẽ được chia làm làm đôi để nói bên nào vi phạm luật giao ước thì sẽ chết như vậy. Loài người đã luôn lỗi luật của giao ước khi họ đi thờ phượng các thần khác. Chúng ta có làm vậy không? Chúa Nhật là ngày dành cho Gia đình Chúa Ba Ngôi. Khi ta không đi lễ, ta lỗi phạm luật giao ước. Và Mười Điều Răn là lối sống của các thành viên trong Gia đình Thiên Chúa.

Nhưng người kết án chúng ta trước hết không phải là Thiên Chúa mà như Kinh thánh có nói: “Vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Và Chúa là Đấng rất công minh chính trực, Ngài sẽ công minh thưởng phạt theo lỗi lầm ta phạm, không sót một điều. Dựa theo giao ước, chúng ta phải chết, bị loại ra khỏi thiên đàng.

Và đây là điều làm các thiên thần sa ngã (Luxiphe và bè lũ của nó): Con Thiên Chúa làm người, hứng chịu trọn vẹn đức công chính của Thiên Chúa trên cây thập tự và dâng hiến cho Thiên Chúa của lễ mà chúng ta đáng lẽ phải dâng hiến với tất cả lòng yêu mến của Chúa Con cho Chúa Cha.

Đức công minh của Chúa chính là lòng thương xót của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô. Đức công minh và lòng thương xót vượt quá trí tưởng tượng của con người khi ta tìm để hiểu sâu hơn ơn tha tội và sự quảng đại vô tận của Chúa khi cho ta có khả năng trở thành con cái trong Nhà của Ngài.

Share:

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2024

Sự thánh thiện là công việc của Chúa Thánh Thần

Bí mật của sự thánh thiện có thể được mô tả là việc khám phá ra rằng chúng ta có thể đạt được mọi sự từ Thiên Chúa, với điều kiện là chúng ta biết “làm thế nào để nắm được Ngài”. Đó là bí mật về con đường nhỏ bé của Thánh Thérèse Lisieux: Thiên Chúa có trái tim của một người cha, và chúng ta chắc chắn có thể đạt được những gì chúng ta cần nơi Ngài, nếu chúng ta biết cách chiếm lấy trái tim của Ngài. Đây là một đoạn trong lá thư của Thánh Thérèse Lisieux có thể giúp chúng ta hiểu điều này có nghĩa gì:

Chị muốn cố gắng làm cho các em hiểu bằng một so sánh rất đơn giản, rằng Chúa Giêsu yêu thương các linh hồn biết bao, ngay cả những linh hồn không hoàn hảo, những kẻ phó thác bản thân mình cho Ngài. Hãy tưởng tượng một người cha có hai đứa con nghịch ngợm và không vâng lời; khi người cha xuất hiện để trừng phạt họ, ông nhìn thấy một đứa run rẩy và sợ hãi bỏ chạy trốn khỏi ông, trong thâm tâm nó, nó biết rằng mình đáng bị trừng phạt; người em của nó, thay vì vậy, nó lao vào vòng tay của cha mình, nói với cha mình rằng nó xin lỗi vì đã làm phật lòng ông, nó yêu cha mình và để chứng minh điều đó, nó sẽ là người con tốt lành từ đây trở đi. Nếu người con đó xin cha nó trừng phạt mình bằng một nụ hôn, tôi người cha với trái tim hạnh phúc đó sẽ không thể cưỡng lại được lòng hiếu thảo của con, vì ông biết tấm lòng chân thành và tình yêu thương của nó. Tuy nhiên, ông cũng biết rằng con trai mình sẽ lại mắc lỗi tương tự, nhưng ông luôn sẵn sàng tha thứ nếu đứa con ấy luôn cầu khẩn đến trái tim ông.4

Tôi nghĩ ý tưởng là chúng ta có thể đón nhận được mọi sự từ Chúa của thánh nữ Thérèse, ngài đã học được nó qua các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá, người gần như là người thầy duy nhất của chị. Đây là những gì ngài nói trong Ca Khúc Linh Thiêng / Spiritual Canticle:

Sức mạnh và sự bền bỉ của tình yêu thật lớn lao, vì nó thắng được Chúa và ràng buộc Ngài. Hạnh phúc thay linh hồn biết yêu thương, vì linh hồn đó nắm giữ Thiên Chúa và đạt được từ Ngài mọi điều mình mong muốn. Vì bản chất của Thiên Chúa là như vậy, nếu chúng ta yêu mến Ngài một cách đúng đắn, chúng ta sẽ khiến Ngài làm điều chúng ta muốn.5

Cách diễn đạt táo bạo này về sức mạnh mà tình yêu và sự tin cậy của chúng ta có thể tác động lên trái tim Thiên Chúa chứa đựng một sự thật đẹp đẽ và rất sâu sắc. Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả điều đó ở chỗ khác bằng những từ ngữ khác: “Điều làm Trái tim Chúa xúc động và làm chúng ta giữ được trái tim, chính là niềm hy vọng vững chắc”.6 Và một lần nữa:

Thiên Chúa rất quý trọng niềm hy vọng của những linh hồn không ngừng hướng về Ngài và chỉ trông cậy vào Ngài, đến nỗi người ta có thể thực sự nói rằng họ đạt được tất cả những gì họ hy vọng.7

Việc nên thánh không phải là một chương trình cho cuộc sống, mà là một điều gì đó ta đón nhận từ Thiên Chúa. Thậm chí còn có những cách không thể sai lầm để đạt đến sự thánh thiện, và điều quan trọng là chúng ta phải biết chúng là gì. Tất cả chúng ta đều có khả năng trở nên thánh, đơn giản chỉ vì Thiên Chúa để cho mình được chinh phục bởi niềm tin tưởng mà chúng ta đặt vào Ngài. Mục đích của các phần sau đây là đưa chúng ta đi đúng hướng.

Chuyển ngữ từ In the School of the Holy Spirit by Fr. Jacques Philippe

4. St. Thérèse of Lisieux, Letter 258. (Letter to her missionary "brothers").
5. St. John of the Cross, Spiritual Canticle B, strophe 32, 1.
6. St. John of the Cross, Maxim 112.
7. St. John of the Cross, Maxim 119.

Share:

Thứ Hai, 4 tháng 3, 2024

Bí Tích: Chúa Giêsu vẫn đang chữa lành tâm trí, thể xác và linh hồn trong Giáo hội

Con người không phát minh ra các bí tích; Thiên Chúa đã thiết lập các bí tích ấy. Giáo hội không phát minh ra các bí tích; Chúa Kitô đã làm vậy. Giáo Hội đã đón nhận các bí tích từ các Tông đồ chính Chúa Kitô tuyển chọn, và các Tông đồ đã đón nhận những bí tích này từ Chúa Kitô.

Khi thiết lập các bí tích, Chúa Kitô sử dụng những phương tiện tự nhiên, từ vật thể hữu hình như nước, rượu và bánh để thực hiện công việc siêu nhiên, thiêng liêng, vô hình của Người: nước trong Bí tích Rửa tội, Dầu Thánh trong Bí tích Thêm sức, bánh và rượu trong bí tích Thánh Thể, lời tha tội trong bí tích Hòa giải và lời tuyên thệ trong bí tích Hôn phối, việc đặt tay trong bí tích Truyền chức thánh, và Dầu Bệnh nhân trong Bí tích Xức dầu bệnh nhân.

Sự sống của Thiên Chúa, sự sống vô hình, thiêng liêng, vĩnh cửu, siêu nhiên của Ngài là lương thực cho linh hồn chúng ta; và các chất thể hữu hình của bí tích thì như những dịch vụ giao đồ ăn. Nhưng Thiên Chúa chỉ giải cứu ta khi ta cầu xin Ngài. Các bí tích không hoạt động như máy bán hàng tự động. Chúng ta phải tin vào các bí tích và nóng lòng khao khát, xin được lãnh nhận bí tích. Dẫu vậy, đức tin của chúng ta không khiến cho các bí tích có tác dụng; chỉ Thiên Chúa mới làm được điều ấy. Đức tin của chúng ta mở cửa tâm hồn để cho thức ăn đi vào. Chính Thiên Chúa là thức ăn cho tâm hồn chúng ta.

...

Nếu chúng ta là người Công giáo, chúng ta không cần phải băn khoăn, lo lắng về việc liệu tội lỗi của chúng ta có thực sự được tha thứ hay không, bởi vì các linh mục trong Giáo hội Công giáo thực sự có thẩm quyền để ban ơn tha tội của Chúa Kitô trong bí tích Hòa giải. Uy quyền đến từ Đức Kitô – đó là lý do tại sao uy quyền đó thì tuyệt đối và được bảo đảm. Đó là quyền tha thứ của chính Chúa Kitô mà chúng ta lãnh nhận trong bí tích Hòa giải, cũng như khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, chúng ta lãnh nhận chính Thân Thể của Chúa Kitô. Nó không chỉ là một biểu tượng, một lời nói suông, hay một sự đảm bảo; nó là thực tại.

Tha thứ không chỉ là một thái độ chủ quan mà còn là một thực tế khách quan, giống như việc tha một món nợ. Đức Kitô đã trả món nợ trên thập tự giá, và điều đó có nghĩa là chúng ta không trả món nợ đó. Chúng ta được miễn. Ngài đã tháo những nút thắt trói buộc tâm hồn chúng ta, những nút thắt của sợi dây thật như những sợi dây đang trói buộc bạn vào ghế. Ngài thực sự giải phóng bạn.

Bạn bước vào tòa giải tội linh hồn đầy dấu dơ bẩn, bước ra sạch sẽ. Nó giống như một cơn mưa rào. Bí tích ấy thực sự hiệu quả bởi vì chính Chúa thực hiện công việc của mình, công việc chỉ Ngài làm được. Đó là mục đích Ngài đến thế gian: để cất đi tội lỗi của bạn; Ngài là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1:29). Trong đoạn Phúc âm của thánh Gioan 20:19–23, Chúa Giêsu trao quyền tha tội cho các Tông đồ và những người kế vị các ngài, các linh mục và giám mục đã được lãnh chức thánh, trong một chuỗi truyền xuống liên tục kéo dài cho đến tận thế (gọi là tông truyền).

Chúa Kitô đã để lại cho Giáo hội bảy bí tích để trao ban ân sủng của Ngài cho chúng ta trong những khía cạnh khác nhau của cuộc sống, cho những căn phòng khác nhau trong ngôi nhà của chúng ta.

- Bí tích Rửa tội/Thanh tẩy thì giống như một chiếc giường, một phòng sinh nở.
- Bí tích Thêm sức thì như một phòng tập thể dục.
- Bí tích Hòa giải như một phòng tắm, một phòng vệ sinh.
- Bí tích Thánh Thể giống như một phòng ăn, một bữa tiệc.
- Bí tích Hôn nhân và Truyền chức thánh thì như phòng đón nhận (khách).
- Và Thánh Thể như của ăn đàng, hay “Những nghi thức cuối cùng”, thì lần nữa lại như chiếc giường, chiếc giường chết của chúng ta, để tiếp thêm sức mạnh cho cuộc hành trình cuối cùng.

Như Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Kitô Giêsu.” (Phi-líp 4:19).

Chuyển ngữ từ Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B) by Peter Kreeft

Share:

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

So sánh Tôn giáo: Kitô giáo và Phật giáo

Nhà thần học Công giáo vĩ đại người Đức, Romano Guardini, đã nói, trong bài suy niệm sâu sắc và chính thống sâu sắc về cuộc đời của Chúa Kitô, The Lord / Đức Chúa rằng, không có người nào trong lịch sử nhân loại từng tiến gần hơn với việc sánh ngang với tuyên bố vĩ đại của Chúa Kitô là Ngài việc biến đổi bản chất con người tận gốc rễ hơn Đức Phật (mặc dù theo một cách hoàn toàn khác). Huston Smith trong cuốn The Religions of Man / Các tôn giáo của loài người nói rằng trong lịch sử chỉ có hai người khiến mọi người kinh ngạc đến mức họ không hỏi “Ông là ai?” nhưng “Ông là gì? Người hay Thượng Đế?” Hai người đó là Đức Giêsu và Đức Phật.

Câu trả lời rõ ràng của Đức Phật cho câu hỏi này là: “Tôi là người, không phải Thiên Chúa”; Câu trả lời rõ ràng của Chúa Kitô là: “Tôi vừa là Con Người vừa là Con Thiên Chúa”. Đức Phật dạy: “Đừng nhìn vào ta, hãy nhìn vào dharma [học thuyết] của ta”; Đức Kitô nói: “Hãy đến với Ta.” Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp sáng ngọn đèn”; Chúa Kitô nói: “Ta là ánh sáng thế gian”. Tuy nhiên, trái ngược với ý định ban đầu của cả hai người, một số Phật tử sau này (giáo phái Tịnh độ) đã thần thánh hóa Đức Phật, và một số Kitô hữu sau này (người theo chủ nghĩa Arian và những người theo chủ nghĩa Hiện đại/ Modernists) đã tìm cách cởi bỏ niềm tin Đức Kitô là Thiên Chúa.

Trên thực tế, lời tuyên bố của Đức Phật và Chúa Kitô khác nhau đến mức chúng ta có thể tự hỏi liệu Phật giáo có nên được gọi là một tôn giáo hay không. Phật giáo không nói về Thượng Đế hay Brahman như Ấn Độ giáo, tôn giáo mà từ đó Phật giáo được phát xuất. Phật giáo cũng không nói về atman hay linh hồn. Trên thực tế, Phật giáo dạy học thuyết về an-atta, vô ngã, vô hồn - học thuyết cho rằng chúng ta được tạo thành từ ngũ uẩn (skandhas) của ý thức Vô ngã được đan kết với nhau bởi tính tất yếu nhân quả mà không có bất kỳ cơ sở thực chất, bản ngã hay linh hồn nào.

Phật giáo không phủ nhận Thiên Chúa. Phật giáo thinh lặng về Thiên Chúa. Phật giáo thuộc về thuyết bất khả tri, không phải vô thần. Nhưng Phật giáo không thinh lặng về linh hồn. Phật giáo phủ nhận tâm hồn có tầm quan trọng thực tiễn: Phật giáo dạy chúng ta đừng bị “dính mắc”, không để tâm hồn mình đi theo ham muốn, đừng có đam mê yêu thương. Thay vì agape (tình yêu tích cực) có tính cá thể, riêng biệt, có ý chí tự do, Phật giáo dạy về cảm giác từ bi phổ quát, phi cá nhân (karuna). Lòng trắc ẩn là điều chúng ta thường nghe nhiều hơn là agape ở phương Tây hiện đại.

Karunaagape hướng dẫn người môn đệ thực hiện những hành động vô cùng vị tha tương tự nhưng với tinh thần hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này được minh họa bằng câu chuyện về một vị thánh bởi Phật giáo, chẳng hạn như Thánh Martin thành Tours, đã đưa áo choàng của mình cho một người ăn xin, thực chất là một tên cướp. Nhưng lời giải thích của nhà Phật giáo không phải là “bởi vì tôi yêu bạn” hay “bởi vì Đức Kitô yêu bạn” mà đúng hơn là “đây là điều người đã có sự giác ngộ sẽ làm, vì nếu bạn đang lạnh cóng và bạn có hai chiếc găng tay ở một tay và tay kia không đeo găng tay, thì việc đưa một chiếc găng tay cho tay kia chẳng phải là điều sáng suốt sao?”

Quan điểm của lòng bác ái đối với một Phật tử không phải là lợi ích của người nhận mà là sự giải thoát khỏi gánh nặng của bản thân của người cho. Mục đích tương tự cũng có thể đạt được mà không cần có người nhận. Chẳng hạn, hãy xem xét câu chuyện Phật giáo sau đây: Một người đàn ông chạy trốn khỏi con hổ ăn thịt người rồi chạy đến rìa một vách đá. Cách duy nhất là lối xuống. Anh ta tìm thấy một cây nho và trèo xuống; nhưng ở đó, dưới chân vách đá, có một con hổ ăn thịt người thứ hai. Sau đó, anh ta nhìn thấy hai con chuột, một đen và một trắng (yin and yang, âm và dương), đang nhai đứt cây nho phía trên anh. Ngay trước khi nó bị cắn đứt, anh nhìn thấy một quả dâu dại trên mặt vách đá. Anh ta hái và ăn nó. Nó rất là ngon! Người “chưa giác ngộ” sẽ thắc mắc mục đích là gì, hoặc tại sao anh ta không đánh lạc hướng con hổ bằng quả dâu tây. Nhưng những người “đã giác ngộ” sẽ giải thích câu chuyện ngụ ngôn như sau: Đối với con hổ, người đàn ông có mùi vị giống hệt như quả dâu tây đối với người đàn ông. Nói cách khác, người, hổ và dâu đều là một. “Ảo tưởng” về cá nhân được nhìn thấu. Không có linh hồn. Vì vậy không có sợ hãi - không sợ chết bởi vì không có ai ở đó để chết cả.

Theo Phật giáo, tính ích kỷ (ao ước ích kỷ) gây ra ảo tưởng về bản ngã. Theo phương Tây, trong xã hội thế tục cũng như tôn giáo, cái tôi là nguyên nhân và tính ích kỷ là kết quả. Agape là một hiệu ứng khác xuất phát từ cùng một nguyên nhân: lòng vị tha từ cái tôi thay vì lòng tự cao từ cái tôi. Đối với người Phật tử, agape là điều không làm thể được; không có cái tôi nào mà không có tính ích kỷ, không có bản ngã nào mà không có tính ích kỷ, bởi vì bản ngã không phải là một nguyên nhân thật để có thể nghĩ đến việc thay đổi hiệu ứng của nó. Đúng hơn, bản ngã là ảo tưởng do lòng ích kỷ gây ra.

Làm thế nào thuyết hư vô rõ ràng này, triết lý về hư vô này, có thể mang lại sự giải phóng đối với những người theo đạo Phật? Câu trả lời nằm ở chính Đức Phật: nhân cách và những biến cố trong cuộc đời của Đức Phật, đặc biệt là “sự giác ngộ vĩ đại” của Đức Phật. Như Chúa Giêsu, Đức Phật đã dạy một bài học rất sốc. Và, giống như Chúa Giêsu, Đức Phật được tin tưởng chỉ vì nhân cách của mình. “Thánh thiện từ từng đầu ngón tay” là cách Đức Phật được mô tả. Nếu bạn hoặc tôi nói những điều Đức Phật hay Chúa Giê-su đã nói, chúng ta sẽ bị cười nhạo. Có điều gì đó sâu sắc và cảm động ở đó khiến điều khó tin trở nên đáng tin cậy.

Các sự kiện trong cuộc đời của Đức Phật rất bi kịch và cung cấp manh mối cho điều này. Tuy nhiên, không phải cuộc đời hay nhân cách của Đức Phật là trọng tâm của Phật giáo; có thể có Phật giáo mà không có Đức Phật. (Tất nhiên, không thể có một Kitô giáo nếu không có Đức Kitô, ngoại trừ một người theo chủ nghĩa Hiện đại, người mà đối với họ Kitô giáo về cơ bản là Bài giảng trên núi.) Đức Phật là một danh hiệu, không phải một cái tên - cũng như danh hiệu Đức Kitô (Đấng Mêsia). Đó là tuyên bố thiết yếu của Đức Phật; vì nó có nghĩa là người đã giác ngộ hay người đã thức tỉnh. Đức Phật khẳng định tất cả chúng ta đều đang ngủ say về mặt tâm linh cho đến khi trải nghiệm sự giác ngộ hoặc thức tỉnh. Đây là câu chuyện về việc Đức Phật đã thành Phật, về việc một người thức tỉnh như thế nào.

Sinh ra là Siddhartha Gautama, con trai của một vị vua hy vọng người thừa kế của mình sẽ trở thành vị vua thành công nhất trong lịch sử Ấn Độ. Thái tử được bảo vệ trong một cung điện của những thú vui trần thế để khiến vương quyền trở nên hấp dẫn không thể cưỡng lại được. Nhưng sự tò mò đã khiến thái tử lẻn vào thế giới cấm kỵ bên ngoài, nơi thái tử nhìn thấy “tứ cảnh khốn khổ”. Ba người đầu tiên là một người bệnh, một ông già và một người chết. Thái tử Tất Đạt Đa vô cùng bối rối trước những bí ẩn mới được phát hiện về bệnh tật, tuổi già và cái chết, nhưng không có giải quyết. Rồi đến cảnh tượng thứ tư: một người khổ hạnh ăn xin đã từ bỏ thế gian để tìm kiếm sự giác ngộ. Thái tử Tất Đạt Đa cũng quyết định làm như vậy.

Sau nhiều năm suy ngẫm về bí ẩn sâu sắc nhất của cuộc đời: Tại sao con người lại bất hạnh? Sau nhiều năm tra tấn thể xác để giải thoát tâm hồn, tất cả đều vô ích, Thái tử Tất Đạt Đa quyết định đi “trung đạo” giữa sự buông thả trước đó và sự tự hành hạ bản thân sau này. Sau khi ăn một bữa ăn tươm tất lần đầu tiên sau nhiều năm, ngài ngồi kiết già dưới gốc cây bồ đề thiêng liêng ở Benares và quyết tâm không đứng dậy cho đến khi được giác ngộ. Khi đứng dậy ông tuyên bố mình là Đức Phật. Thái tử Tất Đạt Đa đã vượt qua được bí ẩn lớn lao của cuộc sống.

Sự đột phá phải được trải nghiệm chứ không chỉ bằng lời nói. Phật giáo về cơ bản không phải là một học thuyết mà là một kinh nghiệm. Tuy nhiên, Đức Phật cũng diễn đạt bằng lời một tín điều (Giáo Pháp): “tứ diệu đế” tóm tắt mọi điều Ngài dạy. Bất cứ khi nào Đức Phật bị đệ tử ép phải vượt ra ngoài Tứ Diệu Đế, Ngài đều từ chối. Mọi thứ khác đều là “những câu hỏi không có xu hướng khai trí”.

Chân lý cao quý đầu tiên là tất cả cuộc sống đều là dukkha, khổ đế. Từ này có nghĩa là rời xa hoặc tách rời - một cái gì đó tương tự như tội lỗi nhưng không có chiều kích cá nhân, quan hệ: không phải một mối quan hệ tan vỡ mà là một ý thức tan vỡ. Sự tan vỡ nội tâm là “tin xấu” của Phật giáo, nó đi trước phúc âm hay “tin mừng” của Phật giáo.

Sự thật cao cả thứ hai là nguyên nhân của đau khổ là tanha, tham muốn, tham đắm, ao ước ích kỷ. Chúng ta đau khổ vì khoảng cách giữa điều chúng ta muốn và điều chúng ta có. Khoảng cách này được tạo ra bởi sự không hài lòng của chúng ta, việc chúng ta muốn có được những gì chúng ta không có hoặc muốn giữ những gì chúng ta có (ví dụ: cuộc sống, khiến chúng ta sợ chết). Như vậy dục vọng là kẻ thủ ác đối với Đức Phật, là nguyên nhân của mọi đau khổ.

Chân lý thứ hai này giải thích niềm tin vô ngã, vô hồn. Ham muốn tạo ra ảo tưởng về người khao khát xa lạ với đối tượng mong muốn, ảo tưởng về sự hai mặt. Sự giác ngộ là sự dập tắt ảo tưởng này. “Tôi muốn cái đó” tạo ra ảo tưởng về một cái “tôi” khác biệt với cái “cái đó”; và sự phân biệt này là nguyên nhân của đau khổ. Do đó, ham muốn là nhiên liệu của ngọn lửa đau khổ.

Sự thật cao cả thứ ba tất nhiên đi sau đó. Loại bỏ nguyên nhân là loại bỏ kết quả; do đó đau khổ có thể được dập tắt (niết bàn) bằng cách dập tắt nguyên nhân, là dục vọng. Loại bỏ nhiên liệu và bạn dập tắt được lửa.

Sự thật cao cả thứ tư cho bạn biết cách dập tắt ham muốn: bằng “Bát thánh đạo – con đường tám ngành cao quý” để giảm thiểu bản ngã trong mỗi lĩnh vực trong số tám lĩnh vực được xác định của cuộc sống, hướng nội và hướng ngoại (ví dụ: “chánh tư duy”, “chánh nghiệp”).

Nội dung của Tứ diệu đế đặc biệt là của Phật giáo, nhưng hình thức của nó lại mang tính phổ quát. Mọi tôn giáo, mọi triết lý thực tế, mọi liệu pháp, tinh thần hay thể chất, đều có bốn chân lý cao quý: triệu chứng, chẩn đoán, tiên lượng và đơn thuốc. Chúng lần lượt là hiệu quả xấu, nguyên nhân xấu, hiệu quả tốt và nguyên nhân tốt. Ví dụ, bốn chân lý cao quý của chủ nghĩa Platon là thói xấu, sự ngu dốt, đức hạnh và kiến thức. Bốn chân lý cao quý của chủ nghĩa Marx là xung đột giai cấp, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản và cách mạng. Bốn chân lý cao quý của Kitô giáo là cái chết, tội lỗi, Chúa Kitô và sự cứu rỗi. Thư gửi Rô-ma 6:23 tóm tắt cả bốn điều này: “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết ; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.”.

Bước quan trọng nhất trong bốn bước là bước thứ hai. Bệnh nhân biết các triệu chứng của chính mình, nhưng chỉ có bác sĩ được huấn luyện mới có thể chẩn đoán được nguyên nhân tiềm ẩn của căn bệnh. Sau khi được chẩn đoán, hầu hết các bệnh đều có tiên lượng và đơn thuốc tiêu chuẩn có thể tra cứu trong sách giáo khoa y khoa. Về vấn đề quan trọng này, việc chẩn đoán vấn đề con người, Kitô giáo và Phật giáo xa nhau một trời một vực, vì Đức Phật thấy ước muốn của chúng ta quá mạnh mẽ, còn Chúa Kitô lại thấy chúng quá yếu đuối. Chúa Kitô muốn chúng ta yêu nhiều hơn chứ không ít hơn: yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trái tim. Đức Phật “giải quyết” vấn đề đau khổ bằng phương pháp an tử tinh thần: chữa khỏi căn bệnh ích kỷ và nỗi đau mà nó mang lại bằng cách giết chết bệnh nhân, bản ngã, cái tôi, linh hồn hoặc bản thể-tôi là hình ảnh của Thiên Chúa (I-image of God (I Am)) của con người.

Tuy nhiên, có lẽ mọi việc không hoàn toàn mâu thuẫn như vậy, vì dục vọng mà Đức Phật nói đến chỉ là dục vọng ích kỷ. Đức Phật không phân biệt tình yêu vị tha (agape) với tình yêu ích kỷ (eras); đơn giản là Đức Phật không biết gì về agape cả. Đức Phật biết sâu sắc và lên án ham muốn sở hữu thứ gì đó kém hơn chúng ta, như tiền bạc, tình dục hay quyền lực; nhưng Đức Phật không biết đến ước muốn được chiếm hữu bởi một thứ gì đó cao cả hơn chính chúng ta. Đức Phật biết về sự tham lam nhưng không biết đến Thiên Chúa. Và chắc chắn người phương Tây chúng ta, những người có đời sống và hệ thống kinh tế thường dựa trên lòng tham, cần phải nghe Đức Phật khi Ngài nói về những điều Ngài biết mà chúng ta đã quên. Nhưng những người theo đạo Phật còn cần được nghe điều họ chưa biết nhiều hơn nữa: tin mừng về Thiên Chúa và tình yêu của Người.

Chuyển ngữ từ Fundamentals of the Faith: Essays in Christian Apologetics

Share:

Blog Archive

Blog Archive