Thứ Bảy, 25 tháng 12, 2021

Mẫu gương của gia đình Na-da-rét

Trích huấn từ của Đức giáo hoàng Phaolô VI (5-1-1964).

Na-da-rét là trường học để ta khởi sự tìm hiểu cuộc đời của Đức Giê-su; đó là trường học của Tin Mừng.

Tại đây, trước tiên chúng ta học quan sát, học lắng nghe, chiêm niệm và thấu hiểu ý nghĩa vừa rất sâu xa, vừa rất huyền diệu của việc Con Thiên Chúa xuất hiện cách đơn sơ, khiêm tốn và dễ thương. Có lẽ chúng ta còn phải học để âm thầm noi theo.

Tại đây, chúng ta học được phương pháp giúp ta hiểu Đức Ki-tô là ai. Tại đây, chúng ta nhận ra cần phải quan sát khung cảnh nơi Người cư ngụ giữa chúng ta : địa điểm, thời gian, phong tục, ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo, và tất cả những gì Đức Giê-su đã sử dụng để mặc khải chính mình cho thế gian. Tại đây, mọi sự đều lên tiếng, mọi sự đều có ý nghĩa.

Tại đây, trong trường học này, chúng ta hiểu được cần phải có một kỷ luật thiêng liêng, nếu chúng ta muốn tuân theo giáo huấn của Tin Mừng và trở nên môn đệ Đức Ki-tô.

Ôi, tôi thật lòng mong muốn trở lại làm trẻ thơ và đến học nơi ngôi trường Na-da-rét khiêm nhu nhưng cao cả này ! Tôi khao khát biết bao được ở gần bên Đức Ma-ri-a để bắt đầu học lại phải sống như thế nào và tìm hiểu các chân lý của Thiên Chúa khôn ngoan siêu việt biết bao !

Nhưng, tôi chỉ là người khách qua đường. Tôi phải để lại đây ước muốn tiếp tục được học hỏi để hiểu thấu Tin Mừng cho dù việc học hỏi đó không bao giờ được ngưng nghỉ. Tuy nhiên, tôi sẽ không rời khỏi đây mà không lượm vội lấy, như thể trộm vụng, một vài bài học vắn tắt từ Na-da-rét.

Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước chi nơi mỗi chúng ta lại nảy sinh lòng quý trọng sự thinh lặng. Đây là điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần, đang khi chúng ta bị quấy nhiễu vì bao tiếng la hét, ồn ào và náo động của cuộc sống hiện đại, luôn ầm ĩ và quá căng thẳng. Ôi, ước chi sự thinh lặng của Na-da-rét dạy chúng ta biết suy đi gẫm lại, biết trở về với nội tâm, sẵn sàng đón nhận những hướng dẫn âm thầm của Thiên Chúa và lắng nghe những vị thầy chân chính dạy bảo. Ước chi sự thinh lặng đó dạy chúng ta biết sự cần thiết và giá trị của việc chuẩn bị, nghiên cứu, suy niệm, của nếp sống cá nhân và nội tâm, của lời cầu nguyện mà chỉ một mình Thiên Chúa nghe thấy trong nơi bí ẩn.

Thứ đến là bài học về đời sống gia đình. Ước chi Na-da-rét dạy cho chúng ta biết ý nghĩa của gia đình, của sự hiệp thông trong tình yêu, của vẻ đẹp khắc khổ nhưng sáng ngời, cũng như tính cách linh thánh và bất khả xâm phạm của gia đình. Ước chi Na-da-rét chỉ cho chúng ta biết rằng việc huấn luyện tại gia đình êm dịu biết dường nào, và không gì có thể thay thế được. Ước chi Na-da-rét dạy cho chúng ta biết vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội.

Sau nữa là bài học về lao động. Ôi căn nhà Na-da-rét, ngôi nhà của người con bác thợ mộc. Hơn bất cứ nơi nào khác, tại đây chúng tôi muốn hiểu và ca tụng lề luật tuy khắt khe nhưng mang tính cứu chuộc đòi buộc con người phải lao động. Tại đây, tôi mong ước mọi người ý thức lại về sự cao cả của lao động. Tại đây, dưới mái nhà này, tôi muốn nhắc nhở rằng lao động tự nó không phải là cùng đích. Đàng khác, sự tự do và tính cao cả của lao động không hệ tại ở các giá trị kinh tế mà thôi, nhưng còn ở những giá trị hướng lao động đến cứu cánh đích thực của nó.

Sau cùng, tại đây, tôi muốn gửi lời chào đến mọi người lao động trên toàn thế giới, đồng thời muốn chỉ cho họ thấy gương mẫu vĩ đại, người anh em mang bản tính Thiên Chúa, vị ngôn sứ bênh vực những quyền lợi chính đáng của họ, đó là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Share:

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2021

Bốn bước của Lectio Divina và Thánh Lễ

Với tất cả những hiểu biết này, giờ đây chúng ta có thể chuyển từ Kinh thánh sang lectio divina theo truyền thống Kitô giáo.15 Mặc dù có nhiều phương pháp suy niệm Kinh thánh, ở đây chúng ta sẽ tập trung vào diễn giải “bốn bước” nổi tiếng của lectio divina trong chuyên luận ngắn gọn nhưng rất hay được gọi là The Ladder of Paradise / Cây thang của Thiên đàng.16

Lectio Divina và Thang của Giacóp

Vào cuối thế kỷ 12, một tu sĩ Carthusian/ Dòng Thánh Bruno, tên là Guigo II đã viết điều được nhiều người coi là lời giải thích kinh điển thời Trung cổ về việc suy niệm Kinh thánh.17 Ông sử dụng chiếc thang của Giacóp làm hình ảnh cho bốn bước cơ bản của lectio divina:

 Một ngày nọ, khi tôi đang bận làm việc với đôi tay, tôi bắt đầu nghĩ về thực hành thiêng liêng của mình, và ngay lập tức tất cả bốn giai đoạn trong việc linh thao  nảy ra trong đầu tôi: đọc, suy niệm, câu nguyện và chiêm niệm. Những bước này làm nên một cái thang cho các đan sĩ, cái thang mà sẽ đưa họ từ trái đất lên đến thiên đàng. Cái thang này có ít bậc, nhưng mỗi bước thì rất dài và tuyệt vời, vì phần dưới của nó nằm trên trái đất, nhưng phần trên của nó xuyên qua những đám mây và chạm đến những bí mật trên trời.18

Trong Cây thang của Thiên đàng, bốn bậc thang của lectio divina có khả năng đưa linh hồn lên thiên đàng như thang của Gia-cóp xưa. Bạn có thể hình dung nó như sau:

Từ góc nhìn này, Kinh thánh không chỉ là một cuốn sách thánh cổ hay một hướng dẫn đáng tin cậy về cách sống tốt. Bất cứ khi nào những người theo Chúa Giêsu thực hành lectio divina, thiên đàng được mở ra cho họ và họ nghe tiếng của Thiên Chúa của vũ trụ. Bằng cách này, Kinh thánh tự nó trở thành một nấc thang thực sự dẫn đến thiên đàng.

Việc giải thích về bốn bước

Nhưng mỗi bước trong bốn bước này bao gồm những điều gì? Rất may, Guigo đã định nghĩa chúng (tôi đã liệt kê chúng cho rõ ràng hơn):

(1) Đọc là học hỏi Kinh thánh một cách cẩn thận, tập trung mọi năng lực của mình vào đó. (2) Suy niệm là chăm chỉ áp dụng tâm trí để tìm kiếm với sự trợ giúp của lý trí những sự thật tiềm ẩn trong đó. (3) Cầu nguyện là việc con tim hết lòng hướng về Thiên Chúa  để xua đuổi điều ác và tìm kiếm điều tốt. (4) Chiêm niệm là khi tâm trí cách nào đó được nâng lên đến với Chúa và được giữ ở trạng thái vượt trên chính nó, để nó nếm trải niềm vui của sự ngọt ngào vĩnh cửu.19

Chúng ta hãy dành một chút thời gian để giải thích từng bước:

Bước 1: Đọc: Bước đầu tiên và thiết yếu nhất của lectio divina là “đọc” (lectio theo tiếng La-tinh). Điều này có nghĩa là mở Kinh Thánh ra và đọc các từ trong Kinh Thánh một cách chậm rãi và cẩn thận — không đọc lướt hoặc vội vàng.

Bước 2: Suy niệm: Mặc dù nói chung lectio divina là một hình thức suy niệm, nhưng bước thứ hai - “suy niệm” (tiếng Latinh meditatio) – ám chỉ cụ thể việc suy ngẫm những gì đã đọc. Nó liên quan đến việc sử dụng trí óc để tìm ra sự thật ẩn chứa trong Kinh thánh.

Bước 3: Cầu nguyện: Khi nói đến bước thứ ba - “cầu nguyện” (tiếng La tinh oratio) – lần nữa, nói về một điều gì đó rất cụ thể. Sau khi đọc lời Kinh Thánh và suy nghĩ về chúng, bước tiếp theo là nói chuyện với Chúa từ trái tim của mình về chúng. Theo cách này, cầu nguyện biến việc suy ngẫm về Kinh thánh thành cuộc đối thoại giữa linh hồn và Thiên Chúa. Như một nhà văn Kitô giáo thời cổ có nói: “Chúng ta nói chuyện với Chúa khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta lắng nghe Ngài khi chúng ta đọc lời của Chúa.” 20

Bước 4: Chiêm niệm: Bước thứ tư là “chiêm niệm” (tiếng La tinh contemplatio). Chúng ta đã đọc rằng việc chiêm niệm có thể được định nghĩa là một thể loại cầu nguyện đặc biệt, trong đó “đôi mắt” của trái tim gắn chặt vào Chúa trong một “cái nhìn” yêu thương (xem chương 3). Điều chính yếu mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là trong ba bước đầu của lectio divina, chúng ta làm việc — bằng việc đọc Kinh thánh, suy nghĩ về nó và nói chuyện với Chúa về điều đó. Tuy nhiên, ở bước thứ tư, chính Chúa hành động: bằng cách “nâng” linh hồn lên với chính mình và cho phép nó nếm trải “vị ngọt ngào” của sự hiện diện của Ngài. Nói cách khác, trong bước thứ tư này, chúng ta không phải làm bất cứ điều gì ngoại trừ đứng yên và “nhìn” vào Chúa, lặng lẽ nghỉ ngơi trong sự hiện diện của Ngài. Đôi khi, trong lectio divina, qua ân sủng của Ngài, Chúa có thể “nâng” linh hồn đang còn ở trên trần gian này “lên khỏi chính nó” để nó được hưởng sự ngọt ngào của sự hiện diện của Ngài trên trời.21

Tóm lại, lectio divina bao gồm bốn bước đơn giản: đọc Kinh thánh, suy nghĩ về những gì chúng ta đã đọc, trò chuyện với Chúa về điều đó và yên lặng nghỉ yên trước sự hiện diện của Ngài.

Bốn bước đi cùng với nhau

Qua những gì chúng ta đã tìm hiểu, bây giờ chúng ta đã rõ tại sao Guigo lại tuyên bố rằng “việc linh thao” của người Kitô hữu nên “xoay quanh” bốn bước của lectio divina.22 Cả bốn bước đều phối hợp với nhau để những lời cầu nguyện của chúng ta không trở nên vô hiệu, tẻ nhạt, hoặc thậm chí nguy hiểm về mặt thiêng liêng. Như vị đan sĩ ấy nói,

Đọc mà không suy niệm là vô ích, suy niệm mà không đọc thì dễ bị lầm lạc, cầu nguyện mà không suy niệm thì tẻ nhạt, và suy niệm mà không cầu nguyện thì không có hiệu quả, cầu nguyện khi sốt sắng thì sẽ có sự chiêm niệm, nhưng để đạt được nó mà không cầu nguyện sẽ là điều hiếm hoi, thậm chí là kỳ diệu.23

Nói cách khác, nếu chúng ta chỉ đọc Kinh Thánh mà không bao giờ nghĩ về chúng, thì những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ luôn trở nên khô khan và không có sự sống. Mặt khác, nếu chúng ta dành toàn bộ thời gian để suy nghĩ về những câu hỏi sâu sắc nhưng không bao giờ tìm đến Kinh thánh cho câu trả lời, chúng ta chắc chắn sẽ mắc đủ loại sai lạc. Nếu tất cả những gì chúng ta làm là nói chuyện với Chúa mà không bao giờ dành thời gian để suy nghĩ về những gì Ngài đã nói qua Lời Chúa, thì những lời cầu nguyện của chúng ta có thể sẽ trở thành những cuộc đơn thoại không nóng không lạnh hơn là một cuộc trò chuyện từ trái tim. Cuối cùng, nếu chúng ta dành hết thời gian để suy ngẫm Kinh thánh mà không bao giờ cầu xin Chúa ban cho chúng ta những món quà thiêng liêng mà chúng ta khám phá được trong các trang sách, thì việc suy ngẫm của chúng ta sẽ không bao giờ mang lại hoa quả thiêng liêng.

Nói tóm lại, nếu đời sống cầu nguyện của chúng ta có vẻ cằn cỗi, không nóng không lạnh, hoặc không sinh hoa kết quả, thì chúng ta cần thực hành lectio divina. Nếu suy ngẫm Kinh thánh thực sự là một “nấc thang” dẫn đến thiên đàng và là cuộc gặp gỡ cá nhân với Ngôi Lời làm người, thì đó phải là một phần hàng ngày trong đời sống thiêng liêng của mỗi Kitô hữu.

 Lectio Divina và Phụng vụ

Cuối cùng, tôi muốn kết thúc chương này bằng việc nêu ra sự song song giữa bốn bước lectio divina và phụng vụ.

Từ thời cổ xưa, việc thờ phượng của người Kitô hữu bao gồm bốn phần cơ bản: (1) đọc Kinh thánh, (2) giải thích Kinh thánh trong bài giảng, (3) lời cầu nguyện Thánh Thể, và (4) rước lễ, hiệp thông với Chúa. Hãy xem xét chẳng hạn một trong những mô tả cổ xưa nhất về việc thờ phượng của Kitô giáo sơ khai mà chúng ta có (để rõ ràng hơn, tôi đã liệt kê các bước):

Vào ngày Mặt Trời, như người ta thường gọi, những người tín hữu trong thành phố hay ở nông thôn đều họp lại một nơi.

(1) Tùy thời gian cho phép, người ta đọc bút tích của các tông đồ và sách các ngôn sứ.

(2) Sau khi đọc xong, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người sống theo các giáo huấn và gương lành tốt đẹp này.

(3) Sau đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyên lên Thiên Chúa cho chính chúng tôi... và cho mọi người khác trên thế giới, để xứng đáng trở thành những người công chính và trung thành tuân giữ lề luật ngay trong cuộc sống hầu đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.

Sau lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc bình an cho nhau.

(4) Tiếp đến, một tín hữu mang bánh và một chén rượu có pha nước đến cho người chủ sự.

Vị chủ sự cầm lấy bánh rượu, nhân danh Chúa Con và Thánh Thần, dâng lời tán tụng và tôn vinh Chúa Cha là Chúa tể càn khôn. Ông đọc một lời tạ ơn dài về việc Thiên Chúa cho chúng ta xứng đáng lãnh nhận các hồng ân.

Khi vị chủ sự kết thúc các lời nguyện và kinh tạ ơn, mọi người hiện diện đều đồng thanh đáp: A-men.

Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân thưa A-men, các vị mà chúng tôi gọi là phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước đã "trở thành Thánh Thể" cho mọi người hiện diện hưởng dùng và đem về cho những người vắng mặt.
Thánh Giút-ti-nô, tử đạo (thế kỷ thứ II) 24

Với cấu trúc bốn phần cơ bản này, hãy xem xét những điểm tương đồng sau đây giữa phụng vụ Kitô giáo và lectio divina:

Thật là những tương đồng đáng chú ý! Tuy nhiên, nếu chúng ta dừng lại để suy nghĩ về điều đó, chúng sẽ không gây nên ngạc nhiên. Vì nếu Chúa Giê-su là “bậc thang” đích thực dẫn đến thiên đàng (xin xem Gioan 1:51) và nếu “thức ăn” và “thức uống” mà Ngài ban cho chúng ta thực sự là “bánh hằng sống từ trời xuống” (Gioan 6: 51, 55), thì có nghĩa là hành động tối cao của lectio divina là hành động diễn ra trong phụng vụ. Nhìn dưới ánh sáng này, việc thực hành cầu nguyện suy gẫm Kinh Thánh sẽ dẫn chúng ta một cách tự nhiên đến sự khao khát sâu sắc hơn đối với việc nuôi dưỡng thiêng liêng Chúa Kitô ban tặng trong Bí tích Thánh Thể.

Tóm lại, ngay cả khi chúng ta chưa bao giờ thực hành lectio divina một cách riêng tư, nếu chúng ta đã chăm chú và cầu nguyện tham gia phụng vụ Thánh Thể, thì chúng ta đã bắt đầu leo ​​lên Bậc thang Địa đàng. Thật vậy, nếu cả Chúa Giêsu và Sách Thánh đều thực sự là Lời của Chúa, thì mỗi khi chúng ta đọc và suy gẫm Kinh Thánh, chúng ta đang gặp chính con người của Chúa Giêsu Kitô — cầu thang sống động dẫn đến thiên đàng.

Chuyển ngữ từ Introduction to the Spiritual Life: Walking the Path of Prayer with Jesus by Dr. Brant Pitre

Chú thích

15. See Mariano Magrassi, Praying the Bible: An Introduction to Lectio Divina, trans. Edward Hagman, O.F.M. Cap. (Collegeville, Minn.: Liturgical Press, 1998).
16. The various manuscripts of Guigo’s treatise have multiple titles, such as the “Ladder of Paradise” (Latin Scala Paradisi) and “Ladder of Monks” (Latin Scala Claustralium). Here I will use the former in order to emphasize that the four steps of lectio divina are not just for cloistered monks but can be used by all Christians. For example, see Benedict XVI, Post-Synodal Apostolic Exhortation Verbum Domini (The Word of the Lord), nos. 86–87, who refers to these four as “the basic steps” of lectio divina.
17. Robertson, Lectio Divina, 224, describes Guigo’s Ladder as “a didactic summary of the whole lectio divina tradition.”
18. Guigo II, The Ladder of Paradise, 2.
19. Guigo II, The Ladder of Paradise, 2.
20. Ambrose of Milan, De Officiis, 1.20.88. In Ambrose, De Officiis, ed. Ivor J. Davidson, vol. 1, Introduction, Text and Translation (Oxford: Oxford University Press, 2001), 169.
21. Guigo II, The Ladder of Paradise, 2.
22. Guigo II, The Ladder of Paradise, 14.
23. Guigo II, The Ladder of Paradise, 14.
24. Justin Martyr, 1 Apology, 1.65–67. Cited in CCC no. 1345.
25. See Benedict XVI, Verbum Domini, no. 86: “The privileged place for the prayerful reading of sacred Scripture is the liturgy, and particularly the Eucharist…In some sense the prayerful reading of the Bible, personal and communal, must always be related to the Eucharistic celebration. Just as the adoration of the Eucharist prepares for, accompanies and follows the liturgy of the Eucharist, so too prayerful reading, personal and communal, prepares for, accompanies and deepens what the Church celebrates when she proclaims the word in a liturgical setting. By so closely relating lectio and liturgy, we can better grasp the criteria which should guide this practice in the area of pastoral care and in the spiritual life of the People of God.”

Share:

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2021

Thánh hóa đời sống hằng ngày -- Tín thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa

Trong kế hoạch của Thiên Chúa, không có gì là ngẫu nhiên. Không bao giờ có sự va chạm của các lực lượng mù quáng, làm tổn thương chúng ta cách ngẫu nhiên. Thay vào đó, có sự gặp gỡ giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của con người, nếu có sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa của chúng ta thì đó là lợi ích lớn nhất, là ý nghĩa của sự kiện, mặc dù chúng ta không hiểu được nó. Mọi người đều như một đứa trẻ nằm trong vòng tay yêu thương của người mẹ hiền, một người mẹ đôi khi đưa thuốc đắng cho con. Thiên Chúa đã gửi đến những sự kiện lớn nhỏ trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Đứa trẻ khóc, người ích kỷ thì chống đối, nhưng người công chính thì hài lòng, bởi vì biết rằng Thiên Chúa biết rõ điều gì là tốt đẹp nhất cho tôi. Như vậy, nỗi cay đắng và sự ngọt ngào, niềm vui và nỗi buồn của mỗi giây phút là chất liệu thô của sự thánh thiện. “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8,28).

Mọi sự việc bây giờ trở nên một huyền nhiệm, bởi vì nó chuyên chở ý muốn của Thiên Chúa. Không có gì là vô nghĩa hay buồn tẻ, mọi sự đều có thể được thánh hóa, như chiên và dê, cá và hạt lúa, cây nho và lỗ kim đều trở nên những dụ ngôn về nước Thiên Chúa. Những điều mà kẻ khôn ngoan theo kiểu thế gian chà đạp dưới chân đã trở nên quý giá như viên ngọc đối với những người công chính, vì họ thấy “sự tốt lành trong mọi sự.” Ngay cả những cay đắng của gánh nặng cuộc đời cũng biến thành niềm vui của họ, vì có những kho báu thiêng liêng nằm dưới vẻ ngoài xấu xí, thô thiển.

Ngay cả có những kẻ lừa đảo, vu khống chúng ta thì việc đó cũng có thể trở nên cơ hội để chúng ta càng kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa. Mọi nghịch cảnh đều có thể được chuyển thành điều tốt lành cho những ai đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Nếu xem những thử thách như xuất phát từ bàn tay Thiên Chúa, người ta sẽ không bao giờ ngạc nhiên tự hỏi tại sao mình rơi vào hoàn cảnh như vậy. Mỗi thử thách là một cơ hội để lớn lên trong tình yêu và đức tin vào Thiên Chúa. Nếu phó thác bản thân cho tình yêu Thiên Chúa, như đứa trẻ trong tay mẹ hiền, thì chúng ta sẽ thấy mọi sự việc đều xảy ra đều nhằm điều tốt đẹp nhất cho mình dù chúng ta không hiểu được.

Mỗi người tự quyết định mình đang ra sức làm việc vì điều mình đang ước muốn phần thưởng nào. Nếu chúng ta không nhắm đến sự sống vĩnh cửu, việc kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ hướng đến lời ca ngợi của những người khác. Chúa Giêsu biết điều này nên Ngài nói: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng” (Mt 6,1). Và Ngài còn nói thêm: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6,32- 35).

Chúa Giêsu đã liệt kê những việc lành nhỏ bé như việc cho người là một chén nước và bảo đảm rằng chúng ta sẽ có một phần thưởng nếu chúng ta làm việc đó vì Thiên Chúa, vì yêu mến Chúa.

Giống như những điều kiện để một kẻ chạy đua trên thao trường đoạt giải thưởng, một tâm hồn muốn chạy nhanh đến ơn cứu độ đời đời cũng phải có một số điều kiện. Trước hết, phải được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, phải sống trong tình trạng có ơn thánh sủng để làm những việc siêu nhiên. Nhành nho phải gắn liền với cây nho mới sinh trái được. Tất cả mọi việc lành của một người phải ở trong tình trạng có ơn thánh sủng mới đáng được ơn cứu độ nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là nguyên nhân chính của mọi công nghiệp. “Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (1 Cr 15, 10).

Kế đến, linh hồn phải tự do. Không có công nghiệp nếu người ta bị cưỡng bách để thi hành. Khi chúng ta đáp lại tác động của Thiên Chúa, sự góp phần của chúng ta là chân thực. Thiên Chúa và con người cùng cộng tác với nhau. Sau cùng, bất cứ điều gì chúng ta làm phải là một việc lành luân lý. Không có những hành vi trung tính khi người ta ở trong tình trạng có ơn sủng, mỗi hành vi hoặc là đáng thưởng hoặc không đáng thưởng.

Những hành động chúng ta làm là tốt về mặt luân lý thì mỗi nhiệm vụ hay bổn phận giống như một tấm séc để trống. Giá trị của nó sở hữu tùy thuộc vào tên người ký trên đó; công việc được thực hiện vì lợi ích của tôi hay vì Thiên Chúa. Chính động lực của công việc là điều làm cho người ta nên thánh hay không; sự thánh hóa không phụ thuộc vào nơi chốn, công việc hay hoàn cảnh. Một số người tưởng tượng rằng nếu họ ở chỗ khác, hay có nghề nghiệp khác, hay có nhiều tiền hơn, họ có thể làm cho việc của Chúa tốt đẹp hơn. Sự thật là: bất kể họ làm nghề gì, thì điều quan trọng là họ có làm theo ý Thiên Chúa hay không, có làm vì lòng mến Chúa hay không.

Chúng ta không cần tạo ra thập giá cho riêng mình, nhưng hãy đón nhận mọi điều Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta và làm cho chúng trở nên ích lợi nhất về mặt thiêng liêng cho chúng ta. Người thư ký soạn thảo văn bản, người nông dân cày trên mảnh ruộng, bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhân, sinh viên miệt mài học tập, bệnh nhân chịu cảnh đau đớn trong thân xác, người mẹ chăm sóc cho con nhỏ, mỗi công việc bổn phận như thế có thể trở nên cao quí và đem lại ích lợi tâm linh nếu chúng được thực hiện nhân danh Thiên Chúa, vì lòng yêu mến Chúa.

Trích từ Cuộc đời đáng sống của ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thứ Ba, 14 tháng 12, 2021

Thánh hóa đời sống hằng ngày -- Vâng phục thánh ý Chúa

Những ai chấp nhận thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự sẽ không nản lòng trước những biến cố xảy ra cho mình và xem chúng như những sứ giả của Thiên Chúa mà họ yêu mến. Cách thức chúng ta chấp nhận một sự bất hạnh, rủi ro, thậm chí cả một sự nhục nhã sẽ rất khác nếu chúng ta biết ai là người gửi nó đến cho mình. Một cô bé sẽ tức giận nếu một người chạm vào chiếc áo đẹp của cô và làm bẩn nó, nhưng nếu cô nhận ra người ấy lại là diễn viên nổi tiếng, là thần tượng điện ảnh của mình thì cô sẽ vui sướng và tự hào thuật lại việc đó với các bạn bè của mình. Một cách tương tự nếu chúng ta nhận ra rằng chính Thiên Chúa đứng sau cơn bệnh, những sự kiện gây sốc và những thất vọng trong cuộc đời của mình, chúng ta sẽ đón nhận chúng với một cách thức khác hẳn.

Con Thiên Chúa được bọc trong cái tã ở Bêlem, Chúa Kitô ở trong tấm bánh nhỏ nơi Nhà Tạm, và chính Thiên Chúa cũng ẩn mình phía sau mọi sự việc xảy ra trong cuộc đời của tôi. Chúng ta sống cuộc đời của mình trong sự phụ thuộc vào những thiện ích chung như không khí trong lành để thở, nước mát để uống. Thiên Chúa cũng mong ước nhận được từ chúng ta hàng ngàn hành vi nhỏ bé, những chi tiết tầm thường làm nên cuộc sống hàng ngày của chúng ta, miễn là chúng ta nhận thấy, ngay cả trong những sự kiện làm chúng ta đau buồn, “cánh tay Thiên Chúa đang vươn ra để yêu thương và chăm sóc chúng ta” và chúng ta dâng hiến chúng cho Chúa. Đây là bí quyết của việc thánh hóa; một phương pháp dễ dàng cho mọi người, cho những ai tự hỏi: “Tôi có thể làm gì cho Chúa?” Vì nhiều người mong muốn làm những điều vĩ đại lớn lao cho Thiên Chúa. Họ phàn nàn rằng họ không có cơ hội để thực hiện những hành động anh hùng, những việc tông đồ. Họ sẵn sàng chịu tử đạo; nhưng khi xe buýt đầy ắp người và họ phải đứng, khi công việc bị trì hoãn, họ trở nên bực bội, cáu kỉnh cả ngày. Họ đã bỏ lỡ cơ hội để chứng tỏ tình yêu của họ đối với Thiên Chúa trong những điều nhỏ bé. Chúa Giêsu nói: “Ai trung tín trong những điều nhỏ thì cũng trung tín trong những điều lớn” (Lc 16,10).

Chúa nói với linh hồn trong tiếng thì thầm, nhưng linh hồn lại chờ đợi tiếng kèn đồng, nó hụt mất mệnh lệnh của Chúa. Chúng ta muốn tự làm cây thập giá riêng cho mình, nhưng ít người đón nhận các thập giá Chúa gửi đến. Những thập giá này nằm trong việc thực hiện một cách hoàn hảo những công việc bổn phận nhỏ bé hàng ngày của chúng ta. Những công việc lớn lao mà chúng ta tưởng tượng muốn làm cho Thiên Chúa thì cuối cùng chỉ nuôi dưỡng tính kiêu ngạo và ích kỷ của chúng ta mà thôi. Mặt khác, chúng ta cần chấp nhận những thập giá trong bậc sống của mình, bởi vì chúng đến từ Thiên Chúa là Đấng yêu thương chúng ta vô cùng, Ngài muốn biến đổi chúng ta. Chúng ta sẽ được thánh hóa nhờ việc kiên nhẫn chịu đựng những lời càm ràm của người thân, tiếng ồn của đám trẻ con, một cơn bệnh xảy đến bất ngờ, những thất bại trong cuộc sống. Những điều này có thể trở nên cơ hội để lập công, để cầu nguyện nhiều hơn, để chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng đã và đang kiên nhẫn chịu đựng những thất bại, những khuyết điểm và tội lỗi của chúng ta.

Chúng ta khó mà chịu đựng được những khuyết điểm của người khác nếu chúng ta không nhận ra Thiên Chúa đã và đang chịu đựng những khuyết điểm của chúng ta. Người ta kể rằng: “Có một người Ả Rập đến thăm ông Abraham và người này càm ràm đủ thứ: từ thức ăn, chỗ ở, cái giường và rượu mà Abraham đã quảng đại cho anh ta. Cuối cùng, Abraham nổi giận và đuổi anh ta ra khỏi nhà. Thiên Chúa hiện ra với Abraham và nói: “Abraham, Ta đã chịu đựng người này trong suốt 40 năm, vậy tại sao người không thể chịu đựng nó chỉ trong một ngày?”

Để đón nhận bổn phận trong giây phút hiện tại vì Thiên Chúa thì chúng ta phải nghĩ đến sự vĩnh cửu. Việc đón nhận và thi hành cách hoàn hảo bổn phận “ở đây và bây giờ” để tôn vinh Thiên Chúa là một hành vi của ý chí và tình yêu đối với Thiên Chúa. Chúng ta không cần một sự hiểu biết rõ ràng về kế hoạch của Thiên Chúa để đón nhận nó. Khi thánh Phaolô được hoán cải, ngài hỏi: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Chúng ta có thể được sưởi ấm bằng ngọn lửa mà không cần biết các thành tố hóa học của ngọn lửa và chúng ta có thể được chữa lành nhờ uống thuốc mà không cần biết các thành phần bên trong viên thuốc. Một tâm hồn đang bị đau khổ biết vâng theo ý Chúa sẽ có một hiểu biết sâu xa về Ngài hơn cả một giáo sư thần học chỉ nghiên cứu lý thuyết mà không đem ra thực hành. Hai tên trộm bị treo trên thập giá cũng có một khủng hoảng về sợ hãi và đau khổ như nhau, một kẻ thì càm ràm và mất đi cơ hội vào Nước Trời; còn người kia đã dùng khoảnh khắc đau khổ để nên thánh. Một số tâm hồn có được sự bình an và thánh thiện từ cùng những thử thách giống nhau, những thử thách đã làm những người khác lo lắng, nổi loạn và bị suy sụp.

Thiên Chúa không thể ép buộc ý chí chúng ta, hay cưỡng bách chúng ta sử dụng những thử thách để thu về lợi ích, cả ma quỷ cũng không thể ép buộc chúng ta được. Chúng ta có ý chí tự do để quyết định đón nhận và dâng những đau khổ của mình cho Thiên Chúa Và nếu chúng ta dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa thì Ngài sẽ làm những điều lớn lao trong chúng ta. Như một cái đục trong tay nghệ sĩ tài ba Michelangelo có thể tạo ra một bức tượng tuyệt đẹp thì ý chí của chúng ta nếu thuận theo ý Chúa cũng tạo ra những điều tốt đẹp như vậy. Ý chí của chúng ta nếu cứ để buông xuôi theo tự nhiên sẽ trở nên bận rộn với đủ thứ chuyện, nhưng cuối cùng chăng làm nên điều gì cả. Còn nếu ý chí của chúng ta thuận theo ý Chúa thì sẽ trở nên hiệu quả vượt quá mọi ước mơ của chúng ta.

Câu nói được áp dụng sẽ thánh hóa mọi giây phút của chúng ta là: xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Đó là tiếng “Xin vâng” của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, đưa đến ơn cứu độ của chúng ta. Đó cũng là tiếng “Xin vâng” của Đức Maria trong ngày Truyền Tin mở đường cho việc Con Thiên Chúa nhập thể. Lời “xin vâng” đó cắt bỏ mọi dính bén của chúng ta vào những điều tầm thường quen thuộc của mình. Nó mở ra cánh buồm để đưa chúng ta đến nơi Chúa muốn. Để “ý Cha được thực hiện” thì phải chấm dứt mọi càm ràm, than trách; để mọi điều xảy đến trong mọi giây phút cuộc đời của chúng ta mang dấu ấn của thánh ý Thiên Chúa.

Có nhiều lợi ích to lớn trong việc thuận theo ý Chúa. Trước hết, chúng ta thoát khỏi quyền lực của những “tai nạn” trong cuộc sống áp đặt trên chúng ta. Những tai nạn trong cuộc sống là những điều cắt ngang cuộc sống, phá hỏng các kế họach, dự định của chúng ta, những rủi ro, bất hạnh như một cơn bệnh buộc chúng ta trì hoãn chuyến đi. Nó là một sự kiện có tính “thuốc đắng” để dành cho những người hay căng thẳng và lo âu. Một số người hay than trách rằng mình “không có một chút rảnh rỗi nào” và thế giới này là kẻ thù của họ, họ là những kẻ không may mắn. Còn những ai phó thác cho ý Thiên Chúa sẽ không càm ràm như thế. Bất cứ điều gì xảy ra họ đều đón nhận chúng. Những kẻ không có mục đích tập trung mọi sự hướng về Thiên Chúa, luôn qui hướng mọi sự về cái tôi của mình sẽ cố gắng áp đặt ý riêng của mình trên vũ trụ này và luôn thất bại.

Sự khác biệt giữa những người luôn than van rằng mình không bao giờ có lúc thảnh thơi và những người dùng mọi giây phút để cảm tạ Thiên Chúa là người sau sống trong một bầu khí của lòng mến yêu thánh ý Thiên Chúa hơn ý riêng của mình. Điều đó giống như một kẻ lang thang ngoài đường phố đau khổ hơn một đứa trẻ sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Vì thế, người ta cần học biết để đặt niềm tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa, lúc ấy mọi sự xảy ra đều không gây nên phiền muộn cho họ. Thiên Chúa tỏ mình ra khác nhau đối với mọi thụ tạo. Ngài chỉ cho chúng ta thấy cách thức chuyển mọi sự thành niềm vui. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa không công bằng, nhưng nó có nghĩa là Thiên Chúa tỏ mình ra cho một số tâm hồn nào đó với một vài điều kiện. Ánh sáng mặt trời không thiên vị ai, nhưng nó không thể chiếu sáng trên một tấm gương dơ bẩn và một tấm gương trong sạch như nhau.(Phần 1)

Trích từ Cuộc đời đáng sống của ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thánh hóa đời sống hằng ngày -- phần 1

I. Những người sống trong thất vọng

Hàng triệu người nam và nữ ngày nay đang ở trong tình trạng “sống trong thất vọng âm thầm.” Họ đang hoang mang, lo lắng, căng thẳng, sợ hãi và nản lòng. Và việc sống trong thất vọng là hậu quả từ sự thất bại đã xảy ra hay có thể xảy ra trong tương lai. Một số người có thể trở nên thất vọng vì so sánh những vấn đề mà họ phải đối diện với khả năng nhỏ bé của họ để giải quyết những vấn đề đó. Trong những trường hợp này, họ quá thất đảm, quá sợ thất bại đến nỗi không còn dám tìm kiếm giải pháp cho vấn đề của mình. Cũng có thể họ trở nên thất vọng vì không có ai đó để yêu, không có ai đó sẽ yêu họ để đáp lại tình yêu của họ.

Loại thất vọng thứ nhất đặt tâm hồn vào trong tình trạng giống như một người không có tiền để thanh toán một đống hóa đơn dày cộm. Người ấy kinh hãi trước tương lai của mình. Loại thất vọng thứ hai liên quan đến cảm giác rằng cuộc sống đang trôi qua quá nhanh và người ta cảm thấy cơ hội cho sự thành đạt của mình càng ngày càng ít đi. Các loại hình thức khổ sở này đều nối kết với một cảm thức cá nhân không hạnh phúc về sự qua đi quá nhanh của thời gian. Tâm hồn thất vọng là tâm hồn có khuynh hướng khiếp sợ khi thấy mọi sự dường như quá trễ đối với mình.

Mọi lo âu của chúng ta đều liên quan đến thời gian. Con người là thụ tạo duy nhất ý thức về thời gian. Chỉ có con người mới có thể đưa quá khứ vào trong trí không để nó đè nặng trên giây phút hiện tại với di sản mà nó đã chồng chất. Và chỉ con người mới có thể đưa tương lai vào trong hiện tại, để tưởng tượng điều sẽ xảy ra như thể đang xảy ra bây giờ. Không một con vật nào có thể nói: “Tôi đau khổ vì nỗi đau này đã 6 năm rồi và nó sẽ còn mãi cho đến khi tôi chết.” Nhưng bởi vì một con người có thể nối kết quá khứ vào hiện tại nhà trí nhớ và nối kết tương lại vào hiện tại nhà trí tưởng tượng, nên nó cần thiết để con người sao lãng khỏi nỗi đau khổ của mình, làm cắt đứt sự liên tục của nỗi khốn khổ. Mọi sự bất hạnh (khi không có nguyên nhân trực tiếp gây ra đau buồn) đều xảy đến từ việc tập trung thái quá vào quá khứ hay bận tâm quá đến tương lại. Vấn đề của tâm thần học cần giải quyết nằm ở chỗ phân tích nỗi thất vọng, bi quan, sầu muộn và sự phức tạp, là những điều nối kết với nỗi sợ hãi và lo âu do tưởng tượng về điều sẽ xảy ra. Thêm vào đó là trường hợp lo âu, bất an, bận tâm đến quá khứ và tương lai vì vấn đề luân lý. Một lương tâm nặng nề lo âu vì tội lỗi trong quá khứ và lo sợ sự phán xét của Thiên Chúa.

2 Hai phương thuốc chữa trị

Nhưng Thiên Chúa do lòng thương xót của Ngài đã ban cho chúng ta hai phương thuốc cho trường hợp bất hạnh trên. Một là bí tích giao hòa xóa bỏ quá khứ bằng việc tha thứ tội lỗi của chúng ta và thắp sáng tương lai bằng niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa qua sự thống hối và thay đổi đời sống. Không điều gì có hiệu quả chữa lành ký ức và trí tưởng tượng của con người bằng việc xưng tội. Nó thanh tẩy chúng ta khỏi tội và nếu chúng ta nghe theo lời Chúa Giêsu, chúng ta sẽ loại bỏ khỏi tâm trí những tội của mình mà chúng ta đã xưng thú. Việc xưng tội chữa lành trí tưởng tượng, xóa bỏ sự lo âu về tương lai. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta kêu lên: “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng đã ban sức mạnh cho tôi” (P14,13).

Phương thuốc thứ hai cho căn bệnh của chúng ta là việc thánh hóa giây phút hiện tại. Chúa Giêsu nói: “Đừng lo lắng cho ngày mai. Ngày mai có ngày mai lo, ngày nào có cái khổ cho ngày đó” (Mt 6,34). Điều này có nghĩa rằng mỗi ngày có thử thách cho ngày đó. Chúng ta đừng mang lấy nỗi sầu muộn của ngày mai, bởi vì ngày nào có đủ thập giá cho ngày đó rồi. Chúng ta hãy phó thác quá khứ cho lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào tương lai, bất cứ thử thách nào xảy đến đều phát xuất từ sự quan phòng của Thiên Chúa. Mỗi giây phút của cuộc sống có bổn phận của nó, bất kể vẻ bề ngoài của nó ra sao. Giây phút hiện tại là giờ cứu độ. Mỗi lời càm ràm là một thất bại. Mỗi hành vi nhẫn nhục chịu đựng là một chiến thắng.

Giây phút hiện tại bao gồm những điều chúng ta không kiểm soát được, nhưng nó mang theo những khó khăn chúng ta không thể tránh nét những điều như sự làm ăn thất bại, một cơn cảm cúm, mưa gió vào ngày dã ngoại, một vị khách khó chịu, một con ruồi trong ly sữa, một cái mụn nhọt trên mũi vào ngày họp mặt bạn hữu. Chúng ta không luôn luôn biết lý do tại sao những điều như bệnh tật và nghịch cảnh lại xảy ra cho chúng ta, vì tâm trí chúng ta quá nhỏ bé để nắm bắt kế hoạch của Thiên Chúa.

Khi ông Gióp đau khổ, ông đặt câu hỏi với Thiên Chúa: Tại sao ông được sinh ra? Tại sao ông phải chịu đau khổ? Thiên Chúa hiện ra với ông, nhưng thay vì trả lời các câu hỏi của ông, Ngài bắt đầu yêu cầu ông Gióp trả lời những câu hỏi về vũ trụ. Khi Đấng Tạo Hóa đặt câu hỏi, ông Gióp nhận ra rằng những câu hỏi của Thiên Chúa khôn ngoan hơn những câu trả lời của con người. Bởi vì đường lối của Thiên Chúa không phải đường lối của chúng ta, bởi vì ơn cứu độ của một con người thì quan trọng hơn mọi giá trị vật chất, bởi vì sự khôn ngoan của Thiên Chúa có thể rút điều tốt lành từ sự dữ, tâm trí con người cần chấp nhận hiện tại, dù chúng ta không thể hiểu nổi. Chúng ta không rời bỏ rạp hát vì vị anh hùng bị bắn hạ ngay trong cảnh thứ nhất. Chúng ta tin tưởng người viết kịch bản đã có một kế họach trong đầu. Vì thế, linh hồn chúng ta nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Những gì xảy ra cho chúng ta không luôn luôn làm tổn thương cho tâm trí chúng ta; nhưng chúng luôn ở trong khả năng chấp nhận đức tin của chúng ta và sự vâng phục của ý chí chúng ta.

Khi chúng ta thật sự yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta sẽ không bao giờ hỏi tại sao? Đây chỉ là câu hỏi do sự ngờ vực, lừa dối và của quỷ dữ nêu lên. Hạnh phúc trong vườn địa đàng dựa trên tình yêu tín thác, nhưng Satan gợi lên câu hỏi: “Tại sao Thiên Chúa ra lệnh như vậy?” Đối với người đang yêu đích thực, mỗi ước muốn của người mình yêu là một mệnh lệnh, người đang yêu thực sự còn muốn những đòi hỏi của người mình yêu thật nhiều, để mình có cơ hội phục vụ. Những người đang thực sự yêu mến Thiên Chúa không phản đối, bất cứ điều gì Thiên Chúa yêu cầu họ, không nghi ngờ lòng nhân hậu của Chúa khi Ngài gửi đến cho họ những giờ phút khó khăn. Một bệnh nhân uống thuốc mà không đòi hỏi thầy thuốc làm giảm vị đắng đót của thuốc, bởi vì người bệnh tin tưởng sự hiểu biết của bác sĩ. Vì thế linh hồn có đức tin mạnh mẽ sẽ chấp nhận mọi biến cố trong cuộc đời như là những quà tặng của Thiên Chúa dành cho mình, trong niềm tin rằng Thiên Chúa biết điều gì tốt nhất cho tôi.

Mọi giây phút đưa đến cho chúng ta những kho báu nhiều hơn khả năng chúng ta có thể thu góp được. Giá trị lớn nhất của giây phát hiện tại là nó mang đến một sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi cho tôi. Các sách báo, bài giảng đạo đức được gửi đến cho mọi người. Nhưng chúng lại chứa đựng các áp dụng cụ thể khác nhau cho mỗi cá nhân. Chính là vì tôi mà Chúa gửi đến cuốn sách hay bài giảng này.

Những ai biết thánh hóa giây phút hiện tại và dâng nó cho Chúa bằng việc kết hiệp với ý muốn của Thiên Chúa, sẽ không bao giờ nản lòng thối chí, hay càm ràm, than trách. Họ vượt qua mọi chướng ngại bằng việc làm cho chúng trở thành cơ hội cho việc cầu nguyện, hy sinh để lập công. Chúng là cơ may để chúng ta lớn lên trong tình yêu. Khi một người không biết Thiên Chúa, không tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài, không tín thác vào tình yêu của Ngài, thiếu đức tin, cậy, mến thì lúc gặp khó khăn họ sẽ giận dữ, hối tiếc về quá khứ hay sợ hãi tương lai và chịu đau khổ rất nhiều. (Phần 2)

Trích từ Cuộc đời đáng sống của ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2021

Lòng thương xót của Chúa qua lịch sử cứu độ

Bài đọc 2 của Kinh Sách cho thứ Năm, Tuần II Mùa Vọng

Trích bài giảng của thánh Phê-rô Kim Ngôn, giám mục.

Khi thấy thế gian chìm ngập trong sợ hãi, Thiên Chúa không ngừng hành động. Người lấy tình thương mà kêu gọi, lấy ân sủng mà thúc giục, lấy đức ái mà giữ gìn, và lấy sự dịu dàng mà ấp ủ.

Đó là lý do khiến Người phải dùng đến hình phạt Hồng Thuỷ mà tẩy rửa mặt đất đã hoá ra khô cằn vì bao điều xấu xa. Người kêu gọi ông Nô-ê làm tổ phụ một thế giới mới, dùng lời lẽ ân cần để khích lệ ông, lấy tình thân để gây cho ông niềm tin tưởng, lấy tình phụ tử mà giáo dục ông về những biến cố hiện tại và ban ân sủng để thúc đẩy ông chấp nhận những thử thách sắp xảy đến. Người đã không truyền lệnh nhưng đã đem vận mệnh của toàn thế giới vào một con tàu và như thế đã cho ông được tham dự vào công việc của Người, để tình thương thân hữu xoá bỏ nỗi lo sợ của phận tôi đòi, để những gì được cứu vớt nhờ công lao chung, sẽ được bảo tồn nhờ một tình yêu chung.

Đó cũng là lý do khiến Người kêu gọi ông Áp-ra-ham từ giữa dân ngoại, thêm cho tên ông một vần, đặt ông làm tổ phụ những người tin. Người đồng hành với ông, bảo vệ ông giữa đám dân xa lạ, tăng thêm của cải cho ông. Người giúp ông thắng trận vẻ vang, hứa cho ông muôn phúc lành, cứu ông khỏi sỉ nhục, cho ông được vinh dự tiếp đón Người, khiến ông phải kinh ngạc vì được một người con nối dõi trong khi ông chẳng còn hy vọng. Khi được bấy nhiêu ân huệ, được tình yêu dịu hiền của Thiên Chúa vỗ về như vậy, ông học được điều này là yêu mến Thiên Chúa, chứ không phải sợ hãi, thờ phượng Người vì yêu mến, chứ không phải vì khiếp sợ.

Đó cũng là lý do khiến Người dùng các chiêm bao để khích lệ ông Gia-cóp, đang lúc ông trốn chạy. Người thách ông vật lộn, đang khi ông trên đường về quê ; Người ôm chặt lấy ông, quật ông ngã xuống. Nhờ vậy, ông yêu mến người cha đã vật lộn với mình, mà không hề sợ hãi.

Đó cũng là lý do khiến Người dùng tiếng mẹ đẻ của ông Mô-sê kêu gọi ông, trò chuyện thân mật với ông như cha con, mời ông trở nên anh hùng giải phóng dân tộc mình.

Nhưng nhờ các sự kiện vừa nhắc tới, trong đó ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa đốt cháy lòng người, niềm say mê yêu mến Thiên Chúa tràn ngập mọi tình cảm của con người, nên những ai mang vết thương lòng đều mong ước được nhìn xem Thiên Chúa nhãn tiền.

Thiên Chúa mà cả thế gian không chứa nổi, làm sao cái nhìn giới hạn của con người lại có thể chứa được ? Tình yêu đòi hỏi, nhưng không suy tính xem mình sẽ ra sao, mình phải thế nào hay có thể làm được gì. Tình yêu không xét đoán, không lý luận cũng không so đo. Tình yêu không viện cớ không thể làm được để tự an ủi, không viện cớ khó khăn để tự chữa lấy mình.

Tình yêu nếu không được thoả mãn, sẽ làm cho người đang yêu héo hắt. Vì thế, tình yêu đi tới nơi được dẫn đến, chứ không phải tới nơi cần đến. Tình yêu làm nảy sinh ước muốn, nó như lửa cháy bừng, lao mình vào những điều quá giới hạn. Và còn phải nói thêm gì nữa ?

Tình yêu không thể không nhìn thấy điều mình yêu. Bởi thế, tất cả các thánh đều cho rằng những điều mình đã đạt được, vẫn còn quá ít, nếu không được nhìn thấy Chúa.

Vì vậy, tình yêu khát khao được nhìn ngắm Thiên Chúa, dù không có lý, nhưng vẫn đầy nhiệt tình đạo đức.

Đó cũng là lý do khiến ông Mô-sê dám thưa : Nếu quả thật con đã được nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con thấy tôn nhan Ngài.

Đó cũng là lý do tác giả thánh vịnh nói : Xin Ngài toả ánh Tôn Nhan rạng ngời. Sau cùng, đó cũng là lý do khiến dân ngoại tạo ra các tượng thần: họ muốn nhìn thấy tận mắt điều họ thờ, theo cái nhìn lệch lạc của họ.

Share: