Lúc này, chúng ta đã có thể thấy rõ Chúa Giêsu, dựa theo Kinh thánh Do Thái, coi việc cầu nguyện bằng lời là một phần thiết yếu trong đời sống thiêng liêng của các môn đệ. Một số ý nghĩa thiết thực xuất phát từ thực tế này.
Cầu nguyện bằng lời thuộc lòng và lời cầu nguyện tự phát
Nếu chính Chúa Giêsu cầu nguyện bằng lời cầu nguyện thuộc lòng (như Thánh vịnh) và lời cầu nguyện tự phát (như lời cầu nguyện của Ngài trong vườn Ghết-sê-ma-nê), thì các môn đệ của Chúa Giêsu cũng nên thực hành cả hai. Như chính Chúa Giêsu nói:
Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà. (Mát-thêu 10: 24–25)
Nói cách khác, những người theo Chúa Giêsu nên bắt đầu bằng cách bắt chước lời cầu nguyện của Người Thầy của đời sống thiêng liêng của họ. Một số người rất thoải mái với việc đọc kinh nhưng hầu như không bao giờ nói với Chúa bằng lời của họ. Những người khác rất thoải mái khi cầu nguyện những lời cầu nguyện tự phát nhưng lại cho rằng lời kinh là những lời trống rỗng. Hai thái độ cực đoan này không có sự ủng hộ của Kinh thánh. Một mặt, nếu chúng ta muốn nói chuyện với Thiên Chúa là Cha theo cách giống như Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta cần phải dùng lời nói của mình để cầu nguyện. Mặt khác, nếu chúng ta không bao giờ cầu nguyện những lời trong Thánh vịnh hoặc Kinh Lạy Cha, thì chúng ta đang chọn không cầu nguyện như chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện. Nếu Chúa Giêsu thực sự là kiểu mẫu và bậc thầy trong việc cầu nguyện của người Kitô hữu, thì chúng ta nên noi gương Ngài bằng cách ghi vào lòng mình những lời trong Thánh vịnh và Kinh Lạy Cha để những lời này dạy chúng ta cách cầu nguyện và điều gì để nói.
Lời từ trái tim
Dù dùng lời nào để cầu nguyện, chúng ta phải luôn cố gắng nói với Chúa từ trái tim của mình. Nói cách khác, chúng ta cần nói những gì chúng ta muốn nói, và những gì chúng ta nói là những người chúng ta có ý định để nói. Nhưng còn vấn đề bị lãng trí trong khi cầu nguyện thì sao? Làm thế nào để chúng ta tránh miệng đọc kinh trong khi tâm trí thì ở nơi khác? Như nhà thần học vĩ đại thời Trung cổ Thánh Tôma Aquinas đã chỉ ra nhiều thế kỷ trước, “Ngay cả những người thánh thiện đôi khi cũng mắc phải tâm trí lang thang khi họ cầu nguyện.”[9]
Vì lý do này, bước thiết thực đầu tiên là luôn bắt đầu lời cầu nguyện bằng việc để ra một khoảnh khắc và đặt mình trước sự hiện diện của Chúa. Theo lời của Thánh Phanxicô de Sales, thế kỷ XVII viết:
Hãy bắt đầu mọi lời cầu nguyện của bạn, dù là suy niệm hay đọc kinh, trước sự hiện diện của Chúa. Giữ nguyên quy tắc này và không đưa ra bất kỳ ngoại lệ nào và bạn sẽ nhanh chóng thấy hữu ích như thế nào.
Bước thứ hai là: khi bạn bắt đầu cầu nguyện, hãy nhớ rằng bạn không chỉ đọc lời đó, mà là bạn đang nói lời đó đến Người — Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Avila viết:
Khi bạn đến gần Chúa, hãy cố gắng suy nghĩ và nhận ra bạn sắp nói chuyện với ai và tiếp tục làm như vậy trong khi bạn đang nói chuyện với Ngài…. Đừng, tôi cầu xin bạn, đọc kinh trong khi bạn đang suy nghĩ về những điều khác.[11]
Bằng cách phát triển thói quen đặt mình trong sự hiện diện của Chúa trước khi chúng ta bắt đầu cầu nguyện và nhớ lại Đấng mà chúng ta đang dâng lời cầu nguyện của mình, khẩu nguyện của chúng ta có thể được biến đổi từ một cuộc độc thoại lơ đãng với chính mình thành một cuộc đối thoại chân thành với Thiên Chúa hằng sống.
Con đường dẫn đến suy niệm và chiêm niệm
Cuối cùng, khi Chúa Giêsu dạy các môn đồ cách cầu nguyện, Ngài bắt đầu bằng cách đưa ra cho họ những lời để đọc. Mặc dù một số người có thể bị cám dỗ bỏ qua việc cầu nguyện dùng kinh đã có sẵn với ước mong bắt đầu thực hành các hình thức cầu nguyện “cao hơn”, chẳng hạn như suy niệm hoặc chiêm niệm, đây là một ý tưởng sai lầm. Trên thực tế, theo Teresa of Avila, lời cầu nguyện bằng lời kinh có thể dẫn trực tiếp đến việc chiêm niệm:
Bất cứ ai không hiểu biết về việc cầu nguyện và nghĩ rằng dường như việc cầu nguyện bằng lời kinh có sẵn không phù hợp với việc chiêm niệm; nhưng tôi biết là nó phù hợp. Cho tôi xin lỗi nhưng tôi muốn nói điều này: Tôi biết nhiều người trong khi cầu nguyện bằng khẩu nguyện ... được Chúa nâng lên đển việc chiêm niệm cao siêu khi họ không chút cố gắng để đạt tới bất cứ điều gì và cũng không hiểu bằng cách nào. Chính vì điều này mà tôi nhấn mạnh rất nhiều lần… khi bạn đọc kinh một cách sốt sắng.[12]
Tóm lại, nếu chính Chúa Giêsu nói chuyện với Chúa Cha bằng lời thốt ra, và nếu Ngài dạy các môn đồ làm điều tương tự, thì cầu nguyện bằng giọng nói là một phần thiết yếu trong đời sống thiêng liêng của một Kitô hữu. Đó cũng là bước khởi đầu của con đường dẫn đến suy niệm và chiêm niệm.
Tất nhiên, cầu nguyện bằng lời chỉ là một hình thức cầu nguyện. Theo Kinh Thánh, chúng ta cũng cần học cách cầu nguyện bằng tâm trí của mình. Chúng ta cần học cách suy niệm.
Chuyển ngữ từ Introduction to the Spiritual Life: Walking the Path of Prayer with Jesus by Dr. Brant Pitre
Chú thích
8. For example, among ancient Christians, John Climacus writes, “Someone caught up in the affairs of the world can make progress, if he is determined. But it is not easy” (Ladder of Divine Ascent, 1.20). In the Middle Ages, Thomas Aquinas argued that the essence of Christian holiness consists in keeping the two greatest commandments: love of God and neighbor, something which can be done by laity who have not taken vows of poverty, chastity, or obedience. See Thomas Aquinas, Summa Theologica, II–II, q. 184, art. 3-4. In the seventeenth century, Francis de Sales insisted that “It is an error, or rather a heresy, to wish to banish the devout life from the regiment of soldiers, the mechanic’s shop, the court of princes, or the home of married people…. Wherever we may be, we can and should aspire to a perfect life” (Introduction to the Devout Life, 1.3). Finally, and perhaps most significant of all, in the twentieth century, the Second Vatican Ecumenical Council solemnly taught that “all the faithful, whatever their condition or state, are called by the Lord—each in his or her own way—to that perfect holiness by which the Father himself is perfect.” Vatican II, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen Gentium no. 11, as quoted by Pope Francis, Apostolic Exhortation on the Call to Holiness in Today’s World, Gaudete et Exsultate, no. 10. Unless otherwise noted, all English translations of John Climacus contained herein are from John Climacus, The Ladder of Divine Ascent, trans. Colm Luibheid and Norman Russell, The Classics of Western Spirituality (Mahwah, N.J.: Paulist, 1982). For the sake of specificity, however, I will follow the paragraph numbering system found in Saint John Climacus, The Ladder of Divine Ascent, rev. ed. (Boston: Holy Transfiguration Monastery, 2019). Also, unless otherwise noted, all translations of Francis de Sales contained herein are from Francis de Sales, Introduction to the Devout Life, trans. J. K. Ryan (New York: Image, 2014).
9. See chapter 23 and Brant Pitre, Jesus the Bridegroom: The Greatest Love Story Ever Told (New York: Image, 2014), 55–81.
10. Thomas à Kempis, The Imitation of Christ, 1.1. Unless otherwise noted, all translations of the Imitation contained herein are from Thomas à Kempis, The Imitation of Christ, ed. Mary Lea Hill, F.S.P., trans. Mary Nazarene Prestofillipo, F.S.P. (Boston: Pauline Books, 2015).
11. Pope John Paul II, Memory and Identity, 30.
12. Here I am using the general terminology taken from the title of John of the Cross’ classic work Dark Night of the Soul. In that book, John actually distinguishes between two “dark nights” of the soul: (1) the “night of the senses,” which is the transition between the purgative and illuminative ways (Dark Night of the Soul, Book 1.1–14), and (2) the “night of the spirit,” which is the transition between the illuminative and unitive ways (Dark Night of the Soul, Book 2.1–25). Because our study is focused on the purgative way, we will only treat the first of the two “nights.” Unless otherwise noted, all translations of Dark Night of the Soul contained herein are from John of the Cross, Dark Night of the Soul: A Masterpiece in the Literature of Mysticism, trans. E. Allison Peers (New York: Image/Doubleday, 2005).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét