Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2024

Nghiệp báo / Karma vs Kitô giáo -- tôn giáo của ân sủng

Nghiệp báo / Karma là gì? Mặc dù thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi, nó thường bị hiểu sai hoặc bị đơn giản hóa. Nhiều người trong chúng ta từng thấy các video trên mạng xã hội được gián nhãn “Nhân quả tức thì / Instant Karma”, mô tả những tình huống mà ai đó lỗi phạm, chẳng hạn như một chiếc xe vi phạm luật giao thông và ngay lập tức phải gánh chịu hậu quả như bị cảnh sát dừng xe. Những tình huống này mang tính giải trí và làm toại lòng  người xem khi sự công bằng nhanh chóng được thực hiện, nhưng chúng chỉ biểu lộ mặt bề ngoài của ý nghĩa thực sự của nhân quả / Karma trong bối cảnh nguyên bản của nó. Để hiểu sâu hơn, chúng ta hãy nghe Đức Giám mục Barron giải thích:

Các tôn giáo về luật nhân quả (Karma) rất phổ biến ở phương Đông. Một tôn giáo dựa trên luật nhân quả có nhiều điều đáng chú ý, và đó là lý do tại sao những tôn giáo này tồn tại bền vững suốt hàng ngàn năm.

Vậy luật nhân quả là gì? Nó là một quy luật vũ trụ: những hành động tốt được thưởng và những hành động xấu bị trừng phạt. Tuy nhiên, không phải lúc nào điều này cũng xảy ra ngay lập tức. Hãy nhớ đến bài hát "Instant Karma” của John Lennon, một cách chơi chữ thú vị, vì Karma có thể không ngay lập tức được áp dụng. Thông thường, nhân quả bị trì hoãn và có thể không xảy ra trong cuộc sống hiện tại, mà là ở thế giới mai sau. Nhưng nhân quả sẽ khẳng định luật của nó. Việc làm tốt được thưởng. Việc làm xấu bị trừng phạt. Như tôi đã nói, điều này thỏa mãn cảm giác công bằng của chúng ta, nó có vẻ đúng đắn và hợp lý.

Tại sao rất nhiều người Ấn Độ chấp nhận khái niệm Karma một cách dễ dàng? Câu trả lời nằm ở sức hấp dẫn của nó như một hệ thống nhân quả đơn giản và trực quan. Cốt lõi của Karma cho rằng mọi hành động đều có hậu quả tương ứng – nếu bạn làm điều sai trái, những điều không tốt sẽ xảy đến với bạn, dù là trong đời này hay đời sau.

Đối với nhiều người, khái niệm nhân quả / karma cung cấp một khuôn khổ giải thích những bất hạnh và đem lại niềm an ủi. Logic của nó rất đơn giản: “Tôi hẳn đã làm điều gì đó sai, và bây giờ tôi đang trả giá — đây là công lý.” Khi nhìn nhận những khó khăn của mình như hậu quả của hành động cá nhân, con người có thể cảm thấy rằng số phận của họ không ngẫu nhiên mà  là gắn liền với một trật tự đạo đức rộng lớn hơn.

Tuy nhiên, dù hệ thống này có vẻ hợp lý, Kitô giáo có một quan điểm hoàn toàn khác. Để hiểu sự khác biệt này, chúng ta hãy nghe Đức Giám mục Barron giải thích.

Ngược lại với nhân quả, các tôn giáo của ân sủng được tìm thấy trong các tôn giáo của tổ phụ Abraham, chủ yếu ở phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo. Các tôn giáo Kinh Thánh là tôn giáo của ân sủng.

Vậy điều gì đang diễn ra ở đây? Không phải mọi người đều lãnh nhận chính xác điều họ xứng đáng, mà đúng hơn, như Kinh Thánh nói, “mọi người đều phạm tội và thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa.” Như Thánh Phaolô đã nói, chẳng ai là người công chính cả, không một ai.

Tuy nhiên, Thiên Chúa là Đấng công chính. Ngài ban cho chúng ta sự tha thứ, tình yêu và sự sống đời đời. Điều chúng ta lãnh nhận không phải là điều chúng ta đáng được nhận như trong luật nhân quả, mà là điều chúng ta không xứng đáng được lãnh nhận.

Hãy nghĩ đến câu hát nổi tiếng nhất trong bài thánh ca của Kitô giáo, mà chúng ta vẫn hát: "Amazing grace, how sweet the sound, that saved a wretch like me."

“Ân huệ kỳ diệu,
Ôi nghe thật ngọt ngào biết bao
Mà đã cứu vớt kẻ bất hạnh như tôi .”

Trong các tôn giáo nghiệp báo thuần túy, những kẻ bất hạnh không xứng đáng được cứu rỗi. Một kẻ bất lương xứng đáng với số phận khốn khổ. Thế nhưng ân sủng thì thật kỳ diệu, Ôi nghe thật ngọt ngào làm sao, ân sủng đã trao ban ơn cứu độ cho một tên bất lương như tôi.

Tôi sẽ nói thẳng thắn và rõ ràng. Tạ ơn Chúa, tôi có một tôn giáo của ân sủng, tôi dám tuyên bố điều đó. Tôi không biết về những người đang nghe, nhưng tôi không đủ sức đứng vững trước sự khắc nghiệt của việc tôi xứng đáng lãnh nhận. Bạn có hiểu ý tôi không?

Nếu chỉ thuần túy là nghiệp báo, và tôi lãnh nhận những gì tôi xứng đáng, thì thật là khổ cho tôi. Tôi vô cùng biết ơn vì có một tôn giáo của ân sủng, rằng tôi không lãnh nhận những gì tôi xứng đáng, nhưng tôi đã được ban tặng như một ân sủng – đức tin của tôi, bí tích Rửa tội, Thánh Lễ, các phép bí tích, sự mạc khải của Chúa Kitô. Tôi đã được ban tặng tất cả những điều đó.

Ân huệ kỳ diệu, ôi nghe thật ngọt ngào biết bao, mà đã cứu vớt kẻ bất hạnh như tôi”.

Và tôi sẽ làm gì với ân sủng? Tôi sẽ chia sẻ nó với người khác. Tôi trở thành một kênh chuyển ân sủng cho người khác. Tôi đã được chọn, vâng, tạ ơn Chúa. Tôi đã được chọn cho thế giới này.

Tôi nghĩ đó là logic cốt lõi của một tôn giáo của ân sủng.

Như Đức Giám Mục Barron giải thích, Kitô giáo hoàn toàn không đồng tình với khái niệm nhân quả vì hai hệ thống này hoạt động dựa trên các nguyên lý hoàn toàn khác nhau. Nghiệp báo hoạt động như một hệ thống nhân quả nghiêm ngặt, trong đó mỗi hành động—tốt hay xấu—đều dẫn đến một hệ quả tương ứng.

Trong khuôn khổ này, nếu bạn phạm phải một sai lầm, việc bạn phải chịu hậu quả là điều công bằng và chính đáng, vì nó giúp cân bằng thang công lý vũ trụ thông qua sự bù đắp. Còn Kitô giáo hoạt động dựa trên nguyên lý ân sủng và lòng thương xót, nơi tha thứ không là do ta đáng được có, không qua việc cân bằng các hành động, mà được trao ban như không bởi Thiên Chúa tình yêu.

Ngay cả khi một người phạm phải một tội nặng, Kitô giáo nhấn mạnh rằng thông qua sự ăn năn chân thành, qua việc thật lòng hối lỗi và sự đền bù, hậu quả vĩnh cửu của tội lỗi đó có thể được hoàn toàn xóa bỏ. Điều này không thể thực hiện được bằng nỗ lực con người, mà nhờ vào cái chết hy sinh của Chúa Giêsu trên Thập Giá, Ngài đã chịu đựng hình phạt thay cho tội lỗi của nhân loại vì tình yêu và lòng thương xót vô bờ bến.

Để làm cho sự phân biệt này dễ hiểu hơn, chúng ta hãy xem xét một phép so sánh. Hãy tưởng tượng một đứa trẻ ném đá và làm vỡ cửa sổ của một người hàng xóm. Trong một hệ thống giống như nghiệp, đứa trẻ phải trả tiền cho cửa sổ bị vỡ trực tiếp. Mọi chi phí của thiệt hại hoàn toàn do đứa trẻ chịu, và nó phải chịu trách nhiệm sửa chữa tình huống. Nguyên lý ở đây là nhân quả nghiêm ngặt: hành động của đứa trẻ gây ra tổn hại, và nó phải bồi thường hoàn toàn để phục hồi sự cân bằng. Không có chỗ cho sự tha thứ hay can thiệp; công lý là hoàn toàn giao dịch.

Bây giờ, hãy tưởng tượng cùng một đứa trẻ làm vỡ cửa sổ, nhưng lần này, người hàng xóm đáp lại một cách khác. Người hàng xóm thừa nhận sai lầm và tổn thương đã gây ra nhưng tha thứ cho đứa trẻ vì tình yêu. Thay vì yêu cầu đứa trẻ trả tiền, người hàng xóm tự mình trả tiền sửa chữa. Tuy nhiên, đứa trẻ phải xin lỗi một cách chân thành và thể hiện sự sẵn sàng sửa sai, có thể bằng cách giúp làm việc nhà hoặc học cách cẩn thận hơn. Quan hệ ở đây không phải là giao dịch—mà là sự phục hồi. Nợ không được trả bằng nỗ lực của đứa trẻ mà qua sự rộng lượng và sẵn sàng hấp thụ chi phí của người hàng xóm. Vậy, để tóm tắt trong một câu: "Nghiệp là về việc nhận những gì bạn xứng đáng; Ân sủng là về việc nhận những gì bạn không xứng đáng lãnh nhận."

Hãy để tôi kết thúc với lời nói khôn ngoan của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Công lý Thiên Chúa và lòng thương xót Thiên Chúa gặp nhau trên Thập Giá. Công lý không bị bỏ rơi, nhưng lòng thương xót đi trước công lý.”

Share:

Lễ Thánh Gia Thất

Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ. (Huấn ca 3, 3-7)

Thật phúc cho người mà việc kính trọng cha mẹ là điều dễ dàng, vì cha mẹ họ là những người đạo đức và đáng ngưỡng mộ! Người đó thực sự được chúc phúc cả về thể xác lẫn linh hồn. Nhưng nhiều người trong chúng ta khi suy niệm về những bài đọc này lại gặp khó khăn với mệnh lệnh phải kính trọng cha mẹ, bởi vì chúng ta đã từng bị tổn thương bởi họ: có lẽ chúng ta là con cái của một cuộc ly hôn hoặc đã bị cha hoặc mẹ bỏ rơi. Có lẽ chúng ta đã phải chịu đựng sự lạm dụng dưới một hình thức nào đó. Vậy chúng ta phản ứng thế nào với bài đọc này?

Mệnh lệnh này vẫn có ý nghĩa đối với chúng ta. Danh tính của chúng ta gắn bó chặt chẽ với cha mẹ đến mức thù ghét họ sẽ trở thành việc căm ghét bản thân, làm tổn thương chính chúng ta từ tận gốc rễ của con người mình. Vì lợi ích của sức khỏe tâm linh chúng ta và mối tương quan của ta với Chúa, chúng ta cần cầu xin sức mạnh thiêng liêng – mà chúng ta gọi là ân sủng – để tha thứ những tổn thương vượt quá khả năng tha thứ của chính mình, và chúng ta phải xin Chúa chỉ ra cho chúng ta những gì tốt lành, chân thật và đẹp đẽ nơi cha mẹ mình, để chúng ta có thể tập trung và suy niệm về điều đó.

Đây chẳng phải là một phần của việc yêu thương tha nhân như chính mình sao? Chúng ta cũng nhận thức được những cách mà bản thân đã phạm lỗi với con cái mình, và chúng ta cũng hy vọng rằng một ngày nào đó chúng sẽ tha thứ cho những khuyết điểm của mình và tập trung vào những đức tính tốt đẹp của chúng ta, đúng không? Chúng ta hãy áp dụng nguyên tắc trong Kinh Lạy Cha vào mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có tội với chúng con,” bởi vì “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6:14–15).

Share:

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2024

Chúa nói không…. vì

Tôi cầu xin Chúa lấy đi thói quen xấu của mình
Chúa nói: Không! Ta sẽ không lấy nó đi, chính con phải chọn từ bỏ nó.

Tôi cầu xin Chúa cho đứa con khuyết tật của mình được vẹn toàn
Chúa nói: Không! Linh hồn của đứa trẻ không hề khuyết tật.

Tôi cầu xin Chúa ban cho tôi kiên nhẫn
Chúa nói: Không!
Kiên nhẫn con sẽ học được sau khi vượt qua những khó khăn.

Tôi cầu xin Chúa ban cho tôi hạnh phúc
Chúa nói: Không!
Ta chúc phúc cho con, nhưng hạnh phúc tùy thuộc vào con.

Tôi cầu xin Chúa cất đi những khổ đau
Chúa nói: Không!
Đau khổ sẽ kéo con ra khỏi ham muốn thế gian, mang con đến gần Ta hơn!

Tôi cầu xin Chúa làm cho tôi phát triển về mặt thiêng liêng.
Chúa nói: Không!
Ta sẽ cắt tỉa để con kết quả, ra hoa.

Tôi cầu xin Chúa cho tôi được tận hưởng cuộc sống
Chúa nói: Không!
Ta đã ban cho con sự sống, để con có thể tận hưởng tất cả.

Tôi cầu xin Chúa giúp tôi có thể yêu tha nhân nhiều như Ngài đã yêu tôi
Chúa nói: À, cuối cùng rồi con cũng hiểu ra

Share:

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, năm C -- Người là Hòa bình

Bài trích sách ngôn sứ Mi-kha. 5:1-4a

Đức Chúa phán thế này ::
“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,:
ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa,:
từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện:
một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en.:
Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.:
Vì thế, Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en:
cho đến thời người sản phụ sinh con.:
Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó:
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.:
Người sẽ dựa vào quyền lực Đức Chúa,:
vào uy danh Đức Chúa, Thiên Chúa của Người:
mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ được an cư lạc nghiệp,:
vì bấy giờ quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất.:
Chính Người sẽ đem lại hoà bình.”
:

------------

Lời tiên tri về Đấng Mêsia này, cũng như hầu hết các lời tiên tri khác, là thiết kế của Thiên Chúa có ý không làm cho nó đơn giản và rõ ràng tương tự như một dự báo thời tiết. Nó có mang theo một manh mối, giống như trong một câu chuyện trinh thám. Nó thử thách chúng ta. Chúng ta phải chủ động tìm hiểu nó. Chúng ta chỉ hoàn toàn hiểu khi lời tiên tri ấy được ứng nghiệm. Đó là lý do tại sao chúng ta chỉ có thể hiểu hoàn toàn Cựu Ước thông qua Tân Ước, thông qua Chúa Kitô. Chúa Kitô cho phép chúng ta đọc lịch sử Kinh Thánh ngược chiều, giải thích Cựu Ước qua Tân Ước, điều này làm cho Cựu Ước trở nên rõ ràng hơn nhiều.

Ở đây, mười điều được nói về Đấng Messiah, mười manh mối. Chúa Giêsu đã ứng nghiệm tất cả: (1) Ngài sẽ đến từ thị trấn nhỏ bé Bethlehem, (2) Ngài sẽ cai trị Israel, (3) Nguồn gốc của Ngài là từ thuở xa xưa, (4) Thiên Chúa đang chờ đợi mẹ Ngài, (5) Anh em của Ngài sẽ trở về Israel, (6) Ngài sẽ đứng lên, (7) Ngài sẽ chăn dắt đàn chiên của mình, (8) Họ sẽ được an cư lạc nghiệp, (9) Sự vĩ đại của Ngài sẽ vươn tới tận cùng trái đất, và (10) Ngài sẽ là hòa bình.

Chúng ta hãy đi qua mười điểm này một cách ngắn gọn. Thực ra, có ít nhất ba trăm lời tiên tri về Đấng Mêsia trong Cựu Ước, và và hết thảy những lời tiên tri này đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Không ai trong lịch sử đã làm ứng nghiệm những lời tiên tri như vậy, cũng như không ai trong lịch sử đã thực hiện nhiều phép lạ vô kể, hoặc sống lại từ cõi chết, hoặc tuyên bố không chỉ là một người khôn ngoan mà là Thiên Chúa nhập thể. Chúa Giêsu là duy nhất tuyệt đối.

1) Thứ nhất, tại sao Ngài chọn Bethlehem? Trong suốt lịch sử, Thiên Chúa thực hiện những phép lạ vĩ đại nhất qua những người nghèo khổ và ở những nơi vô danh, chứ không phải qua những người giàu có hay nổi tiếng. Đức Maria cũng làm điều tương tự: tất cả những lần hiện ra của Mẹ trong suốt các thế kỷ đều ở những nơi xa xôi và với những người nghèo hoặc trẻ em. Tại sao? Một lý do là vì Thiên Chúa thấy rằng chúng ta cần học khiêm tốn. Và Thiên Chúa có thể làm việc với những người khiêm tốn, những người tin tưởng Ngài; Ngài không thể làm việc với những kẻ kiêu ngạo, những người không tin tưởng. Lý do khác là chúng ta cần học cách tôn trọng người nghèo và những người vô danh – không chỉ là thương hại và giúp đỡ họ mà còn phải tôn trọng họ. Một lý do nữa là chúng ta cần đặt lại các ưu tiên và không nên kỳ vọng quá nhiều vào những vĩ nhân được mọi người nhận biết. Chúa Giêsu đã có thể sinh ra tại Rôma, trở thành hoàng đế và cai trị thế giới. Nhưng Ngài đã làm điều ngược lại. Ngài sinh ra ở một vùng đất xa lánh; Ngài sống như một người thợ mộc vô danh suốt ba mươi năm và bị đóng đinh như một tội nhân. Như dòng nước chảy, Thiên Chúa đi đến những nơi thấp nhất.

2) Thứ hai, lời tiên tri nói Đấng Mêsia sẽ cai trị Israel có nghĩa là gì? Hầu hết người Do Thái nghĩ rằng điều đó có nghĩa là Ngài sẽ là một vị vua vĩ đại, như vua Salomôn, và một người có chiến thắng lớn về chính trị và quân sự. Nhưng Israel thực sự mà Chúa Giêsu sẽ cai trị, “dân tộc được Chúa chọn,” không phải là một thực thể chính trị, quân sự hay kinh tế. Ngai của Chúa Giêsu không phải ở trong các hành lang của Quốc hội mà là trong các hành lang trái tim của chúng ta. Đó không phải là quyền lực mà là tình yêu. Trái tim của chúng ta là ngai vàng của Ngài.

(3) Thứ ba, nguồn gốc của Ngài từ thời trước, từ thuở xa xưa có nghĩa là gì? Không chỉ vì Ngài là con của Đavít, tổ tiên dân Do thái đã 1000 ngàn năm, mà Ngài là Con của Thiên Chúa từ cõi đời đời. Ngài đã có từ “lúc khởi đầu” (Gioan 1:1). Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, qua Ngôi Lời Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ. Ngôi Lời của Thiên Chúa không phải là một tập hợp các chữ cái mà là một Ngôi vị. Tên loài người của Ngài là Đức Giêsu. Tên Thiên Chúa của Ngài là Chúa Con, Con đời đời của Thiên Chúa Cha. Ngay cả khi A-đam vẫn còn sống trên trái đất ngày nay, Chúa Giêsu sẽ già hơn A-đam. Ngài cũng trẻ hơn tất cả những đứa trẻ sẽ được sinh ra. (x. Tv 2:7).

(4) Thứ tư, cũng có một lời tiên tri của Đức Maria ở đây: “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời người sản phụ sinh con”. Thiên Chúa đã có thể đưa Con của Ngài xuống từ thiên đàng khi đã trưởng thành, như thể Chúa xuống trần thay vì Chúa thăng thiên; trái lại, Ngài đã chọn bắt đầu như một hợp tử, rồi một phôi thai, rồi một bào thai, rồi một em bé, rồi một cậu bé, rồi một thiếu niên, rồi một chàng trai trẻ, để thánh hóa mọi giai đoạn của cuộc sống con người. (Ngay cả cuộc sống của một thiếu niên! Những thiếu niên có thể giống như Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu đã là một thiếu niên.) Vào lúc Truyền tin, thiên thần của Chúa đã chờ đợi sự cho phép của Mary trước khi Chúa Thánh Thần một cách huyền diệu, phủ bóng trên Đức Maria và Mẹ đã thụ thai trong lòng mình Đấng Tạo Hóa của chính mình. Tất cả đều nằm trong kế hoạch của Chúa ngay từ đầu. Chúa Giêsu là người duy nhất trong lịch sử đã chọn mẹ của mình.

(5) Thứ năm, lời tiên tri có nghĩa là gì khi nói rằng “những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en? Khi ngôn sứ Mi-kha đưa ra lời tiên tri này, ông hẳn đã hiểu rằng người Do Thái sẽ thực sự trở về Đất Hứa sau thời gian lưu đày, và điều này đã xảy ra. Nhưng đó cũng là biểu tượng của một điều gì đó lớn lao hơn: sự trở về về mặt tâm linh mà Chúa Giêsu đã đến để ban cho tất cả chúng ta: sự trở về của linh hồn chúng ta với Chúa, ngôi nhà tâm linh của chúng ta. Và khi đoạn văn gọi chúng ta là “anh em” của Người, lời tiên tri đó cũng nói rằng Chúa Giêsu sẽ biến đổi chúng ta thành con cái của Chúa và anh em của Chúa Giêsu. Trong Giáo hội sơ khai, các Kitô hữu được phép gọi Chúa là “Cha” và cầu nguyện “Kinh Lạy Cha” chỉ sau khi họ trở thành Kitô hữu qua Bí tích Rửa tội. Kitô hữu không chỉ là một cái tên mới mà còn là một bản chất mới, một sự thay đổi thực sự trong chính bản thể của họ. Giờ đây, họ là một phần của gia đình Chúa, là con trai và con gái được Chúa nhận làm con nuôi, vì Chúa Giêsu là Con vĩnh cửu của Chúa.

(6) Thứ sáu, lời tiên tri nói rằng “Người sẽ đứng lên” có lẽ ám chỉ sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Từ được sử dụng trong Kinh Tin Kính các Tông đồ để chỉ “thân xác loài người ngày sau sống lại” là anastasis, theo nghĩa đen có nghĩa là “đứng lên”. Đó là điều mà xác chết không thể làm được.

(7) Thứ bảy, lời tiên tri nói “Ngài sẽ… chăn dắt đoàn chiên của Ngài” có nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu sẽ là người Mục tử tốt lành đối với chiên của Ngài: là Đấng cứu độ, người bảo vệ và chủ nhân tốt lành của đoàn chiên. Cuối cùng chính Ngài cũng sẽ là một con chiên, Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội lỗi trần gian bằng cách bị giết chết, như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Ngài sẽ là ý nghĩa thực sự của tất cả những con chiên đã bị hy sinh trong nghi thức thờ phượng tại đền thờ, từ khi Thiên Chúa đã ban cho Môsê những chỉ dẫn chi tiết về nghi thức của hy tế cho đến khi biểu tượng này được thực hiện, được biểu lộ và được hiểu rõ trong Chúa Kitô.

(8) Và khi lời tiên tri thứ tám nói rằng “họ sẽ được an cư lạc nghiệp,” họ ở đây có nghĩa là chúng ta, bầy chiên của Ngài, dân sự của Ngài, cùng gia đình với Ngài; và “an cư lạc nghiệp” ở đây có lẽ có nghĩa là sự bất tử. Chúng ta “an cư lạc nghiệp” ngay cả khi đã chết vì Chúa Kitô đã làm như vậy. Hy vọng phục sinh của chúng ta dựa trên sự phục sinh của Chúa Kitô và việc chúng ta “ở trong” Ngài.

(9) Lời tiên tri thứ chín, nói rằng, “quyền lực Người sẽ trải rộng ra đến tận cùng cõi đất,” có nghĩa là Đấng Kitô sẽ được mọi nơi trên thế giới biết đến. Lúc đầu, chỉ có một vài môn đệ, sau đó có thêm ba ngàn người nữa vào Lễ Ngũ Tuần, và ngày nay có hơn hai tỷ Kitô hữu trên thế giới. Những gì bắt đầu ở Giêrusalem đã lan đến Giuđêa, đến phần còn lại của Israel, đến Cận Đông và phía tây đến Châu Âu, rồi đến phần còn lại của thế giới. Thực tế là Châu Âu không còn là một lục địa Kitô giáo nữa là một điều bi thảm nhưng không phải là thảm họa. Không giống như hầu hết các tôn giáo khác, Kitô giáo không phải là một tôn giáo cục bộ mà là phổ quát. Hồi giáo chủ yếu giới hạn ở các nước Hồi giáo, Phật giáo ở các nước Phật giáo, Nho giáo ở Trung Quốc và Ấn Độ giáo ở Ấn Độ, nhưng Kitô giáo thì có mặt trên toàn thế giới. Ngày nay, nó vừa là một tôn giáo của Châu Phi vừa là một tôn giáo của Hoa Kỳ. Kitô giáo không phải là một hệ thống chính trị hay quốc gia. Rất tiếc phải làm bạn thất vọng, nhưng Chúa Giêsu không tranh cử tổng thống.

(10) Cuối cùng, lời tiên tri nói “Ngài sẽ là sự bình an của chúng ta”. Lưu ý rằng không nói chỉ là Ngài sẽ dạy về hòa bình, hoặc thậm chí là Ngài sẽ mang lại hòa bình, mà là Ngài sẽ là hòa bình. Ngài chỉ ban cho chúng ta một món quà duy nhất: chính Ngài. Trong món quà đó có tất cả mọi món quà khác. Đó là lý do tại sao thánh Phaolô viết rằng Chúa Giêsu là sự công chính, sự thánh hóa và sự cứu chuộc của chúng ta, không chỉ là Ngài ban những món quà đó. Thiên Chúa không giống như ông già Noel. Ông già Noel tặng rất nhiều món quà nhưng không ban chính mình. Ông không cùng sống chúng ta; ông chỉ đến và để lại quà một lần mỗi năm.

Khi tôi còn nhỏ, tôi rất muốn có một chiếc tàu đồ chơi đắt tiền cho Giáng Sinh. Bố tôi bảo tôi ngồi xuống và hỏi tôi, “Con có biết tại sao chúng ta tặng quà cho nhau vào dịp Giáng Sinh không?” Tôi trả lời, “Vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu trong Giáng Sinh đầu tiên, đúng không bố?” Bố tôi rất vui. “Đúng rồi! Và tại sao Thiên Chúa làm vậy?” “Vì Ngài yêu thương chúng ta” “Đúng! Tốt lắm, con của bố. Con đã hiểu ý nghĩa Giáng Sinh rất rõ. Giờ nếu ba không đủ tiền mua cho con chiếc tàu lửa đắt tiền con muốn, con vẫn biết ba yêu thương con hết lòng, đúng không con?” Tôi nghĩ nhanh. Đây là một cái bẫy mà tôi không ngờ tới. Liệu tôi có thể bắt bố tôi làm con tin cho đến khi bố mua cho tôi chiếc tàu lửa không? Hay tôi có thể nói không để ép bố mua tàu lửa cho tôi không? Không, bố thông minh hơn tôi. Tôi không thể lừa bố được. Tôi phải nói thật. Vì vậy tôi nói, “Dạ, con biết bố luôn yêu thương con.” “Tốt lắm con trai. Lần nữa con đã nói đúng”. Tôi nghĩ thầm: “Chết rồi, mình vừa cho bố lý do để không mua tàu cho mình rồi.” Khi Giáng Sinh đến, tôi đã nhận được chiếc tàu lửa. Nhưng tôi đã nhận được thứ quý giá hơn: tôi đã học được bài học về tình yêu. Tàu lửa đồ chơi ấy đang ở trên gác mái nhà đã gỉ sét, nhưng bài học thì không bao giờ gỉ sét; nó vẫn sống mãi trong tôi.

Khi chúng ta tặng quà Giáng Sinh cho nhau, như chúng ta sẽ làm ngay khi Mùa Vọng kết thúc và bước vào Mùa Giáng Sinh, điều quan trọng là tình yêu: tình yêu là món quà của chính mình. Trong hôn nhân, món quà của mình là hoàn toàn, độc nhất, mãi mãi và vô điều kiện. (Nếu bạn không hiểu hoặc không tin vào điều này, xin đừng kết hôn cho đến khi bạn hiểu rõ điều đó.) -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, năm C: bà Êlizabeth, Kitô hữu đầu tiên

Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ hai của Năm sự vui trong Kinh Mân Côi – Đức Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Cuộc Thăm Viếng đã làm nên một trong những bài ca vui mừng nhất từng được hát: Kinh “Magnificat” của Đức Maria… Nhưng trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta không có bài “Magnificat.” Thay vào đó, chúng ta có một phần của lời cầu nguyện được lặp đi lặp lại nhiều nhất trên thế giới – Kinh Kính Mừng.

Kinh Kính Mừng bắt đầu bằng lời chào của thiên sứ với Đức Maria trong sự kiện Truyền Tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà,” và tiếp nối với lời của bà Êlisabét: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ.” Người Tin Lành không nên nghi ngờ lời kinh này, bởi vì những lời này xuất phát trực tiếp từ Kinh Thánh. Làm sao có thể sai khi lặp lại những gì Kinh Thánh nói, những gì thiên thần của Thiên Chúa đã nói và những gì bà Êlisabét đã nói?

Một câu đố nhỏ cho bạn: Ai là môn đệ trẻ nhất của Chúa Giêsu? Thưa Gioan Tẩy Giả, người đã nhận biết Chúa Giêsu từ trong bụng mẹ, ngay cả trước khi ông, hay Chúa Giêsu được sinh ra.

Câu đố khác: Ai là người đầu tiên tuyên xưng tín điều Kitô giáo? Đáp án: Tín điều Kitô giáo đầu tiên, được lặp lại trong hai đoạn thư của thánh Phaolô, là công thức: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Rm 10:9; 1 Cr 12:3). Người Kitô hữu không bao giờ gọi César hay bất kỳ con người nào khác là “Chúa.” Thuật ngữ “Chúa” (kyrios trong tiếng Hy Lạp) chỉ dành riêng cho Thiên Chúa.

Đây là tín điều đầu tiên vì đây là điều đầu tiên và đặc biệt nhất trong đức tin của một Kitô hữu: rằng Chúa Giêsu là Đức Chúa, Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Vậy ai là người đầu tiên tuyên xưng Ngài là Chúa? Câu trả lời là: bà Êlizabeth. Bà đã nói với Đức maria, người đã mang Chúa Giêsu chưa chào đời đến với Elizabeth, “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Elizabeth là người đầu tiên gọi Chúa Giêsu là “Chúa của tôi". Nếu Kitô hữu là người tuyên xưng “Chúa Giêsu là Chúa", thì Elizabeth là Kitô hữu đầu tiên vì đã tuyên xưng điều đó. Lời của bà cũng là nền tảng Kinh thánh để chúng ta gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa". Vì đó chính xác là điều Elizabeth đã nói về Đức Mẹ.

Đây là một câu hỏi trắc nghiệm Kinh Thánh khác: Làm sao Elizabeth biết rằng người con Đức Maria cưu mang là Thiên Chúa? Làm sao Thiên Chúa có thể là một đứa trẻ trong bụng dạ một người phụ nữ? Làm sao một đứa trẻ trong bụng dạ một người phụ nữ có thể là Thiên Chúa? Đó là một việc gần như không thể tưởng tượng được, đặc biệt là đối với một người Do Thái, người hiểu rõ hơn bất kỳ người ngoại giáo đa thần nào trên khắp thế giới, về sự siêu việt và hoàn hảo của Thiên Chúa duy nhất này. Làm sao Elizabeth lại là nhà thần học Kitô giáo đầu tiên? Làm sao bà tìm ra thần học nhập thể? Kinh Thánh sẽ cho bạn câu trả lời: Bà không tìm ra. Bà đã được cho biết. Bởi ai? Bởi Thiên Chúa. Elizabeth “được đầy tràn Chúa Thánh Thần."

Câu hỏi tiếp: Tại sao bà Êlisabét nói, “Em có phúc hơn mọi người nữ”?  Đức Maria là người có nhiều ân phước nhất từng sống, dù là nam hay nữ; Mẹ là người duy nhất được Chúa chúc phúc để Mẹ được thụ thai trong lòng mẹ mình, thánh Anna, mà không mắc tội nguyên tổ. Đó là ý nghĩa của danh hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Nhưng Elizabeth có thể đã nói, “Em có phúc giữa tất cả những con người thuộc cả hai giới đã từng sống.” Tại sao lại giới hạn lớp này chỉ dành cho phụ nữ? Và câu trả lời thì hiển nhiên: Mẹ có phước để là một người phụ nữ -- bản năng phụ nữ của Mẹ được chúc phúc  – vì Mẹ là mẹ của Chúa. Không có người đàn ông nào là cha của Chúa, nhưng người phụ nữ này là Mẹ của Chúa! Đàn ông có thể làm nhiều việc mà phụ nữ có thể làm và phụ nữ có thể làm nhiều việc mà đàn ông có thể làm, nhưng có một điều mà không người đàn ông nào có thể làm được là trở thành một người mẹ. Chỉ có phụ nữ mới có thể trở thành một người mẹ. Đó đã là một đặc ân cao cả mà tất cả phụ nữ có được so với tất cả đàn ông. Và giờ đây Chúa đã ban thêm một đặc ân nữa cho Đức Maria: thêm vào thiên chức làm mẹ của một thụ tạo là thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa. Trong số những con người được ưu ái này, Đức Maria là người được ưu ái nhất. Đây là chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến nhất từng được hình dung, sự tôn vinh cao nhất của nữ giới trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Một câu hỏi nữa: Làm thế nào mà John the Baptist nhận ra Chúa Giêsu từ trong bụng mẹ mình ngay cả trước khi ông hoặc Chúa Giêsu được sinh ra? Điều này có là điều có thể không? Vâng, một đứa trẻ chưa chào đời có thể nhận ra âm thanh và phản ứng với chúng, đặc biệt là với nhạc cổ điển. Có một số bằng chứng khoa học cho thấy những đứa trẻ đã quen nghe nhạc cổ điển trước khi chào đời sẽ bình tĩnh và vui vẻ hơn những đứa trẻ không quen. Vì vậy, nếu một đứa trẻ có thể nhận ra và phản ứng với Mozart, thì đứa trẻ đó càng có thể nhận ra và phản ứng với người đã phát minh và truyền cảm hứng cho Mozart, với Ngôi Lời, với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa nhập thể.

Khoa học dạy chúng ta rằng có nhiều điều đang diễn ra ở khắp mọi nơi trong vũ trụ hơn chúng ta từng nghĩ trước đây; rằng, như Hamlet đã nói với Horatio, “có nhiều thứ trên trời và dưới đất hơn những gì anh mơ ước trong triết lý của mình". Và hai ví dụ về điều đó ở đây là những gì đang diễn ra trong tử cung của hai người phụ nữ này.
Gio-an Tẩy Giả không thể nghe tiếng Chúa Giê-su, Ngài chưa thể phát ra bất kỳ âm thanh nào khi còn trong bụng mẹ. Các thai nhi có thể nghe, nhưng không thể nói. Nhưng hãy nhìn lại đoạn văn: “Khi Ê-li-sa-bét nghe lời chào của Ma-ri-a, hài nhi nhảy mừng trong lòng bà.” Đó là giọng nói của Ma-ri-a mà Gio-an đã nghe. Đó là bản nhạc ngọt ngào hơn cả Mozart. Và sau đó, bản nhạc ấy tiếp tục vang lên trong bài ca “Magnificat.” Gio-an đã nghe được bản nhạc ấy.

Bạn thấy đấy, Đức Ma-ri-a đã làm điều tương tự mà Gio-an Tẩy Giả sẽ làm khi ông chào đời: chuẩn bị đường cho Chúa Giê-su, chỉ về phía Chúa Giê-su, rao giảng về Chúa Giê-su, tan biến trong Chúa Giê-su, lùi lại và để Ngài xuất hiện. Người vĩ đại nhất trong tất cả các nhà tiên tri (Chúa Giê-su đã gọi Gioan Tẩy Giả như vậy) và người phụ nữ vĩ đại nhất trong tất cả (thiên thần của Chúa đã gọi Đức Maria như vậy) đều làm cùng một điều: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại,” như Gioan đã nói (Gioan 3:30). Chính sự khiêm nhường của họ làm cho họ trở nên vĩ đại. Đó là chủ đề chính của bài “Magnificat": rằng Thiên Chúa nâng cao những người khiêm nhường và hạ thấp những kẻ kiêu căng.

Đó là điều mà Đức Ma-ri-a luôn làm, và vẫn đang làm từ trên thiên đàng. Mẹ không có niềm vui nào lớn hơn việc đáp lại lời khẩn cầu của chúng ta trong kinh Lạy Nữ Vương: “Xin cho chúng con thấy Chúa Giê-su, Con lòng Mẹ, gồm phước lạ.”

Những người theo đạo Tin lành đã không nhận ra điểm đó: rằng vai trò của Mary trong cuộc sống của chúng ta hoàn toàn trái ngược với những gì họ sợ, một người cạnh tranh với Chúa Giêsu, một trở ngại cho sự trọn vẹn tôn thờ Chúa Giêsu, một thần tượng. Toàn bộ cuộc đời và toàn bộ tình yêu của Mẹ chỉ là hướng về Giêsu. Đức Maria là một vị thánh trên các vị thánh –không phải để được đặt trên bệ cao vời vượt xa người thế, mà làmà để được noi theo trong cuộc sống của chúng ta ngay tại đây trên mặt đất. Mẹ là những gì chúng ta được tạo ra để trở thành. Khi những người Tin lành lấy Chúa Kitô làm trung tâm, Đức Maria cũng là hình mẫu hoàn hảo cho họ nữa. đừng kết hôn cho đến khi bạn hiểu rõ điều đó.) -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2024

Thiên Chúa của tin vui

Trong Mùa Vọng, chúng ta nghe hai cuộc truyền tin bởi thiên thần Gáp-ri-en đến với ông Da-ca-ri-a và Đức Maria. Sau cuộc truyền tin, ông Da-ca-ri-a thì bị câm vì không tin vì ông hỏi: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Luca 1:18). Và Đức Maria cũng hỏi sứ thần khi nghe tin Mẹ sẽ cưu mang Đấng sẽ được gọi là Con Thiên Chúa: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Luca 1:34)

Hai người cũng phải hỏi thiên thần, nghe không khác gì là cả Đức Maria cũng phân vân như ông Da-ca-ri-a. Thật là sự việc bên ngoài có thể rất giống nhau nhưng chỉ có Chúa mới biết được trái tim con người.

Nhưng nếu chúng ta để ý, thì có một vài sự khác biệt giữa câu chuyện truyền tin của ông Da-ca-ri-a và của Đức Mẹ.

Ông Da-ca-ri-a và bà Êlizabeth đã cầu nguyện rất nhiều về việc son sẻ của họ vì lời của bà Êlizabét khi bà mang thai Gioan Tẩy Giả: “Chúa thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời” (Luca 1:25) Ông Da-ca-ri-a thông hiểu Cựu Ước và biết đến những câu chuyện thiên thần hiện ra báo tin, chẳng hạn như với mẹ của Samson. Ông già tuổi hơn, là tư tế trong đền thờ, có nhiều kinh nghiệm, chắc hẳn ông biết rõ không có gì là không thể đối với Chúa.

Còn Đức Maria, lúc đó Mẹ khoảng chừng 15 tuổi, tuy đính hôn nhưng chưa về nhà với thánh Giuse. Hơn nữa Mẹ đã hứa giữ mình đồng trinh để sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, một điều mà các Kinh thánh gia thừa nhận là có những cặp vợ chồng như vậy thời đó. Mẹ tin tưởng vào Chúa nhưng đây là tin nguy hại đến cuộc sống của Mẹ. Ở Trung Đông, những cô gái có thai không có chồng, ngay cả thời nay sẽ bị trừng trị bằng cái chết vì danh dự gia đình (N. T. Wright).

Tuy nhiên, có người nói, “Có lẽ thiên thần Gabriel đã lường trước rằng việc mang thai của Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét sẽ khơi mào nhiều cuộc trò chuyện trong xã hội các thầy tư tế mà họ thường xuyên giao du. Và những nhà học giả này, như thói quen của các học giả tôn giáo, sẽ tranh luận, suy đoán, và đưa ra các giả thuyết vô bổ… và cuối cùng khiến Gia-ca-ri-a bị phân tâm. Trong khi đó, ông cần (như Mẹ Maria) giữ tất cả những điều này trong lòng.” (Elizabeth Scalia)

Dù sao đi nữa, đức tin Kitô giáo được dựa trên lý trí, chúng ta được tự do đặt câu hỏi cách lý trí tự nhiên của con người thường làm. Chúng ta chỉ cần sẵn sàng chấp nhận câu trả lời mà chúng ta cần. Một bài học nữa là án phạt của Chúa đã khiến ông Da-ca-ri-a dâng lời ca tụng, và trong Kinh Phụng vụ, lời ca tụng Chúa của ông được đọc lại mỗi buổi sáng (Luca 1:68-79). Ông Da-ca-ri-a đã có thể chúc tụng Chúa nhờ sự sửa phạt của Ngài. Thiên Chúa là Tình Yêu.

Share:

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2024

Hãy vui luôn -- Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng, năm C

Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa. Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân : thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ (Luca 3:16-18)

Chúa Nhật Mùa Vọng này là lần cuối cùng chúng ta tập trung sự chú ý vào Gioan Tẩy Giả (Luca 3,10-18), vị Tiền hô loan báo Chúa Giêsu sẽ đến. Trong bài đọc này, chúng ta nhìn thấy một sự chuyển hướng từ việc chỉ dạy cách sống qua lời tiên tri về Chúa Giêsu, Đấng sẽ đến sau Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, Tin Mừng này có phần hơi nặng lời: “còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” dường như không phù hợp với chủ đề vui mừng đặc trưng của Chúa Nhật Gaudete. Vậy Tin Mừng này liên quan thế nào đến chủ đề vui mừng, và làm sao chúng ta có thể thực sự vui mừng trong Chúa Nhật này, bất chấp tất cả những thử thách mà chúng ta phải đối mặt cả về mặt cá nhân lẫn trong xã hội rộng lớn hơn?

Lời kêu gọi vui mừng có vẻ hơi trống rỗng. Chúng ta đang phải đối mặt với quá nhiều thử thách ở cả mức độ cá nhân lẫn cộng đoàn. Có những căng thẳng tài chính, vấn đề sức khỏe, áp lực công việc, những mối quan hệ không lành mạnh với các thành viên trong gia đình. Ở góc độ văn hóa, có các cuộc tấn công khủng bố lan rộng, các thất bại chính trị, đại dịch toàn cầu, căng thẳng chủng tộc, nhiều hình thức bức hại từ những điều phiền toái đến những điều gây chết người, những cuộc tranh cãi tai tiếng với những lời tố cáo công khai giữa các giám mục trong Giáo hội, những cáo buộc lạm dụng mới trong Giáo hội, sự thù địch chung đối với tôn giáo và đặc biệt là Công giáo, và nền kinh tế toàn cầu suy thoái. Vậy giữa tất cả những điều này, làm sao chúng ta có thể vui mừng?

Điều lành mạnh là hãy nhắc nhở chính mình về ý nghĩa của tin tốt lành. Chúa Giêsu không đến để mang đến cho chúng ta một lối sống thượng lưu, xe hơi, con cái đông đúc, nhà cửa to đẹp. Trong Tin Mừng của Tân Ước, chúng ta không tìm thấy lời hứa hẹn như vậy bất kỳ dưới hình thức nào. Thay vào đó, ta thấy những câu như: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mỗi ngày mà theo Ta” (Luca 9:23). Hoặc “Phúc cho những ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mathêu 5:10). Hoặc “Trong thế gian, anh em sẽ gặp gian truân; nhưng hãy vui mừng, Thầy đã thắng thế gian” (Gioan 16:33).

Chúng ta cần nhắc nhở bản thân rằng tin tốt lành không phải là một kế hoạch để có sự thoải mái tạm thời trong cuộc sống này vì chúng ta có xu hướng nghĩ rằng đó là tin mừng. Khi nhìn quanh ta và thấy mọi sự không yên ổn ngay cả sau hai nghìn năm, chúng ta lầm tưởng rằng tin vui mừng không xảy ra.

Tin vui mừng thực sự là về sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, bắt đầu ngay bây giờ nhưng sẽ chỉ được thấy rõ ràng khi cuộc sống trong thế giới mai sau đến! Tin Mừng thực sự là về thiên đàng và những gì phía bên kia của ngôi mộ.

Sự thoải mái tạm thời không phải là câu trả lời cho những nhu cầu sâu thẳm nhất của chúng ta. Dù Chúa Giêsu ban cho tất cả những ai tin vào Ngài sự ổn định tài chính và chính trị suốt cuộc sống tạm thời của họ, thì điều đó cũng không làm thỏa mãn khát khao của con người, vì trái tim con người được tạo ra để khát khao sự vô tận.

Người ta đôi khi cảnh báo về việc “quá thiêng liêng, quá hướng về thiên đàng và không có ích gì cho trần gian.” Điều này không phải là lời dạy trong Kinh Thánh. Ngược lại, người ta phải có “tâm trí hướng về thiên đàng” để có thể “có ích cho trần gian,” vì chỉ những người “hướng về thiên đàng” mới có niềm vui và lòng can đảm để chịu đựng những hy sinh cần thiết để đóng góp một cách đáng kể cho “lợi ích trần gian.”

Lời mời gọi hãy vui luôn trong hai bài đọc đầu tiên và thánh vịnh không dựa trên một thực tại bên ngoài, mà dựa trên một thực tại nội tâm và vĩnh cửu: đó là Chúa Kitô đã đến và ngự trị trong trái tim chúng ta, ban cho chúng ta sự hiệp thông với Thiên Chúa ngay bây giờ và trong đời sau. Đây thực sự là tin vui mừng!

Bài Tin Mừng có thể được xem như là ứng dụng của tin mừng đó. Hãy chia sẻ cơm áo của bạn với người nghèo, Gioan Tẩy Giả nói với dân chúng. Hãy hài lòng với mức lương hợp lý của mình, ông nói với các người thu thuế và lính. Đó là hành động của những người không sống cho cuộc đời này. Nếu cuộc sống này là tất cả, thì điều hợp lý là phải tích trữ thực phẩm và vật dụng, và cố gắng kiếm tiền bằng mọi cách có thể. Điều cho phép lối sống vui vẻ chia sẻ và hài lòng này là niềm tin rằng chúng ta đang tiến tới một phần thưởng vĩnh cửu khiến của cải tạm thời trở nên không đáng kể so với nó. Như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi cho rằng những đau khổ của thời gian hiện tại không xứng so với vinh quang sẽ được mặc khải cho chúng ta” (Rôma 8:18).

Chúa Nhật Gaudete này cho chúng ta cơ hội để nhắc nhở bản thân về những gì Tin Mừng thực sự là, tại sao chúng ta nên là những người có niềm vui, và làm sao để sống một lối sống hào phóng của những người không sống cho hiện tại. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2024

Dọn sạch chướng ngại vật mở đường cho Chúa

Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri cuối cùng. Chúa Giê-su nói rằng ngài là vị tiên tri vĩ đại nhất. Tại sao Thiên Chúa lại gửi nhiều tiên tri trước Chúa Ki-tô? Để chuẩn bị con đường, con đường lịch sử cho Chúa Ki-tô, để gieo mầm cho Ngài trong lịch sử. Để cho chúng ta thấy rằng toàn bộ lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân Do Thái, là một sự chuẩn bị được sắp đặt bởi sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì không ai trong lịch sử đã làm ứng nghiệm nhiều lời tiên tri cách rõ ràng, cụ thể như Chúa Giê-su. Để chứng tỏ rằng Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Đấng Mê-si-a, Đấng đã được hứa từ muôn thuở, là ý nghĩa và sự hoàn thành và tột cùng của lịch sử. Để chứng tỏ rằng lịch sử chính là câu chuyện của Ngài (history is his-story).

Sự chuẩn bị dài đằng đẵng để Chúa Giê-su đến giữa thế gian, đạt đến đỉnh điểm nơi Gioan Tẩy Giả, giống như những chiếc máy ủi dọn sạch những ngọn đồi và lấp đầy những thung lũng để chuẩn bị cho việc xây dựng một con đường mà chúng ta có thể đi trên đó. Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, thánh Lu-ca trích dẫn lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a từng chữ một: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp."

[Bạt cho thấp ở đây] có nghĩa là dọn sạch chướng ngại vật để xây dựng một con đường, con đường dẫn đến thiên đàng và con đường cứu độ, con đường này là một con người, là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã nói: "Ta là Đường." Tất cả các thầy dạy tôn giáo khác đều nói: "Ta dạy con đường; Ta dạy sự thật; Ta dạy ý nghĩa của cuộc sống." Chúa Giê-su nói: "Ta là Đường, là sự Thật và sự Sống" (Ga 14:6). Đức Phật nói: "Đừng đến với ta, hãy đến với đạo của ta, giáo lý của ta, lời dạy của ta." Chúa Giê-su nói: "Hãy đến với ta." Đức Phật nói với các đệ tử: "Các ngươi phải là những ngọn đèn cho chính mình." Chúa Giê-su nói: "Ta là ánh sáng thế gian" (Ga 8:12).

Không một người sáng lập tôn giáo vĩ đại nào khác đã sống lại từ cõi chết, tự xưng là Thiên Chúa duy nhất, thực hiện hàng trăm phép lạ, hoặc đã làm ứng nghiệm nhiều lời tiên tri nơi chính bản thân mình như Chúa Giê-su. Có ít nhất ba trăm lời tiên tri cụ thể trong Cựu Ước mà đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su đã thực hiện một cách chính xác. Nghĩ và tin rằng tất cả những điều này xảy ra chỉ là ngẫu nhiên, chỉ là trùng hợp, chứ không phải do kế hoạch của Thiên Chúa, là điều vô lý như việc tin rằng thiết kế siêu thông minh của chiếc máy tính phức tạp nhất thế giới, chiếc máy tính siêu việt mà bạn gọi là bộ não của mình, chỉ tình cờ xảy ra mà không có sự thiết kế của Thiên Chúa.

À, tôi đã quên điều này. Có những người tin như vậy. Ngạc nhiên thay, nhiều người trong số họ dường như vẫn có vẻ sáng suốt ở những khía cạnh khác. Một số trong họ thậm chí có bằng tiến sĩ. (Bằng tiến sĩ PhD thực ra có nghĩa là “doctor of philosophy / tiến sĩ triết học,” nhưng đôi khi nó lại có nghĩa là “doctor of phoniness / tiến sĩ của sự giả dối.”) Họ chính là những người tin vào huyền thoại lớn nhất thế giới. Họ chỉ làm cho điểm mấu chốt trở thành một huyền thoại. Điểm mấu chốt chính là Chúa Giê-su. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2024

Mùa Vọng: Chúa đã đến, sẽ đến và đang đến

Hôm nay là Ngày đầu năm trong Lịch Phụng vụ của Giáo hội vì Giáo hội xác định năm tháng theo sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử: Việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người trong thế giới chúng ta khi Ngài sinh ra trong máng cỏ. Mùa Vọng kéo dài một tháng chuẩn bị cho sự kiện Chúa đến. Chúa Giêsu là nhân vật trọng tâm của lịch sử. Ngài cũng là tác giả của lịch sử. Tất cả lịch sử là câu chuyện của Ngài.

Mùa Vọng có nghĩa là “đang đến hoặc đến”. Chúa Kitô đã đến thế gian này hai ngàn năm trước đây. Ngài đã hứa rằng Ngài sẽ “tái lâm” hoặc lần đến thứ hai, vào lúc tận thế. Chúng ta không biết ngày hoặc giờ Chúa Kitô tái lâm, khi Ngài sẽ đến để phán xét toàn thể thế giới, nhưng chúng ta biết rằng Ngài sẽ đến, và đó là cách thế gian này sẽ kết thúc. Một ngày nào đó sẽ là ngày cuối cùng.

Chúng ta cũng biết rằng Ngài sẽ đến với mỗi người chúng ta vào ngày cuối cùng của đời mình, và chúng ta cũng không biết ngày đó là ngày nào; do đó, chúng ta phải từng ngày sẵn sàng cho cả hai lần Chúa đến trong tương lai: đến với thế giới và đến với chính bản thân, bởi vì chúng ta không biết đêm nay sẽ là đêm cuối cùng của thế giới hay đêm nay sẽ là đêm cuối cùng của chính bản thân. Không gì khiến bạn khôn ngoan hơn là thành thật đối mặt với sự thật đó. Không ai có thể trốn thoát khỏi cái chết.

Còn có việc Chúa đến lần thứ ba. Lần đầu tiên Ngài đến trong quá khứ, hơn 2000 năm trước, và lần thứ hai Ngài đến trong tương lai, trong ngày tận thế; nhưng lần thứ ba Ngài đến trong lúc hiện tại. Ngay lúc này, Ngài đang gõ cửa trái tim bạn và xin phép được vào và trở thành Thiên Chúa và là Cứu Chúa của bạn. Ngài là một quý ông và không đến bằng vũ lực, mà chỉ đi vào linh hồn bạn khi bạn tự do cho phép, khi bạn mời Ngài vào. Ngài sẽ không cưỡng ép tâm hồn bạn, nhưng như Vị Lang Quân, Ngài muốn yêu thương bạn và làm bạn cưu mang sức sống của Ngài trong mình. Đó là lý do tại sao, trong bức tranh nổi tiếng về Chúa Kitô cầm đèn và gõ cửa. Cánh cửa không có tay nắm để có thể mở từ bên ngoài mà là mở từ bên trong. Mở cánh cửa trái tim chúng ta đón nhận sự hiện diện của Ngài, tình yêu, ân sủng, chính sự sống của Ngài, là điều quan trọng nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm và cần làm trên thế gian này. Đó là toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống, và là bí mật của những gì mà mỗi con người đều mong muốn: niềm vui, nghĩa là một hạnh phúc chân thật, sâu sắc và lâu dài, chứ không chỉ là giả tạo, hời hợt và mong manh.

Khi chúng ta đọc “Kinh Kính Mừng”, chúng ta cầu xin Đức Mẹ cầu nguyện cho chúng ta vào hai thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời: “khi này và vào giờ lâm tử của chúng ta”. “Giờ lâm tử của chúng ta” là lần Chúa Kitô đến lần thứ hai cho cá nhân ta. Đó là điều mà chúng ta phải chuẩn bị trong suốt mùa Vọng, cũng như chuẩn bị cho việc tưởng niệm Chúa đã đến lần đầu tiên không ngày Lễ Chúa Giáng sinh. Và “khi này” hay lúc này là điều mà chúng ta gọi là lần tái lâm thứ ba của Chúa Giêsu, vào trái tim và cuộc sống của chúng ta.

Và cả ba lần đến, cả ba lần chờ đợi, đều có cùng một mục đích: lấp đầy chúng ta bằng sự sống của Ngài, biến chúng ta thành những Kitô nhỏ bé, biến chúng ta thành những vị thánh. Nhà văn Công giáo vĩ đại Léon Bloy đã nói: “Cuộc sống này chỉ có một bi kịch duy nhất, đó là bản thân mình đã không trở thành một vị thánh”. Đó là ý nghĩa của cuộc sống, đó là lý do Chúa Giêsu đến với chúng ta, đó là lý do Ngài đặt chúng ta ở đây trên trái đất này. Một vị thánh chỉ đơn giản là người yêu mến Chúa hết lòng và yêu người lân cận như chính mình. Ngài đã nói rất rõ điều đó, cả trong Kinh thánh và trong lời dạy của Giáo hội của ngài, trong cuộc sống của các vị thánh và trong tiếng nói sâu thẳm nhất của lương tâm chúng ta. Vậy chúng ta hãy bắt đầu thôi. Chúng ta hãy đặt tay lên núm cửa và lắng nghe tiếng gõ cửa của Ngài. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn -- Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng, năm C

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (21,25-28.34-36)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.

“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

------

Chúa Giêsu nói với chúng ta về sự kết thúc của lịch sử loài người và sự tái lâm vinh quang của Người. Nhiều dấu hiệu của thế giới tự nhiên mà Chúa Giêsu đề cập đến liên quan đến ngày tận thế thực sự đã xảy ra và được ứng nghiệm tạm thời trong các sự kiện xung quanh sự hủy diệt thành Giêrusalem vào năm 70 sau Công nguyên, đánh dấu sự chuyển biến vĩnh viễn, từ một “thế giới” (thời kỳ Giao ước Cũ) sang một “thế giới” khác (thời kỳ Giao ước Mới). Tuy nhiên, chuyển động địa chấn này cũng là dấu hiệu và sự báo trước về biến động sẽ diễn ra vào thời điểm tận thế, khi chúng ta chuyển từ thời kỳ Giao ước Mới (lời Chúa không bao giờ cũ là vậy. Vừa là chỉ về quá khứ, vừa là sẽ xảy ra trong tương lai), nơi nước Chúa được biểu hiện dưới những mầu nhiệm được nhận thức bằng đức tin, sang thời kỳ ứng nghiệm, khi mọi thứ sẽ được nhìn thấy trong thực tế của chúng, và nước Chúa sẽ được biểu hiện không phải bằng đức tin mà bằng thị giác.

Mối nguy hiểm lớn đối với những tín hữu tin theo Chúa Giêsu là chúng ta bị lạc hướng trong khi chờ đợi Chúa tái lâm và không sống trong sự tiết độ hoặc sự kiên trì. Sống không tiết độ là trở nên  “sao lãng và say sưa”, nghĩa là chỉ bắt đầu tìm kiếm những thú vui và sự thoải mái về thể xác trong cuộc sống tạm thời này. Sự thất bại của lòng kiên cường là đầu hàng trước “những lo lắng của cuộc sống hằng ngày”. Cuộc đấu tranh của người Kitô hữu là không đầu hàng trước nỗi sợ hãi hay thú vui trong khi chúng ta chờ đợi Chúa chúng ta sẽ trở lại đưa chúng ta về nhà Cha mình.

“Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Luca 21:36)

Lời của Chúa Giêsu ở đây nhắc nhở chúng ta về dụ ngôn về người gieo giống và hạt giống, trong đó có bốn hạng người: những người “trên đường”, những người không bao giờ nhận được hạt giống, đón nhận lời Chúa; những người là hạt giống rơi trên đất nông cạn không thể chịu đựng những tai họa; những người là hạt giống rơi trên đất đầy gai gốc, những người đầu hàng trước “những nỗi lo lắng của thế gian này” và “ưa thích sự giàu có” (Mt 13:22); và cuối cùng, những người là hạt giống rơi trên đất tốt, những người sinh hoa trái. Nhưng bạn cần biết rằng cùng một bẫy kép, bẫy những người đang trên con đường sinh hoa trái: sợ hãi (lo lắng) và thú vui (thích thú).

Chúa Giêsu cảnh báo rằng tai họa sẽ xảy ra trước khi “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Ở đây Chúa Giêsu nhắc đến viễn cảnh về thời kỳ cuối cùng trong Daniel 7. “Con Người” là người nhận được vương quốc là toàn thể trái đất. Đọc Kinh thánh một cách tổng hợp, chúng ta nhận ra “Con Người” này giống với “Con vua Đavít” vì Con vua Đavít đã được hứa ban cho một vương quốc phổ quát (xem Thánh vịnh 2:6–12; 89:25–27). Chúa Giêsu vừa là Con Người vừa là “mầm non của Đa-vít” được hứa trong bài đọc một hôm nay.

Những người Kitô hữu trong những nước của Thế giới thứ nhất có lẽ không thực sự coi trọng thực tế rằng cuộc sống của người Kitô là một cuộc đấu tranh đòi hỏi sự nỗ lực và hy sinh. Ở một số nơi của Thế giới thứ nhất, Kitô giáo là một phần của hiện tượng văn hóa thoải mái, và thái độ lạc quan là hầu như mọi người đều lên thiên đường miễn là bạn không làm bất cứ điều gì “thực sự tồi tệ”, như giết người hàng loạt hay điều gì đó tồi tệ

Chúa Giêsu không mô tả con đường cứu rỗi bằng những thuật ngữ như thế này. Ngài luôn nói rằng con đường vào thiên đàng thật là khó khăn và ngụ ý hoặc tuyên bố rằng nhiều người sẽ cố gắng và không thể vào được “nước trời” (ví dụ, hãy xem Lu-ca 13:24 và Mát-thêu 7:14). Chúng ta có thể chọn tin vào Chúa Giêsu hoặc tin các tiên tri lạc quan đương thời về bản chất của con đường lên thiên đàng. Tôi khuyên bạn nên coi trọng lời Chúa Giêsu vì có lẽ Ngài có nhiều kinh nghiệm cá nhân hơn về thực tế đang được thảo luận so với các nhà thần học và trí thức hiện đại.

Lời Chúa Giê-su nói với chúng ta là “hãy luôn cảnh giác”. Đó là lối sống chú tâm, sống mỗi ngày như thể đó có thể là ngày cuối cùng của chúng ta, biết rằng Chúa Giêsu có thể đến với tất cả chúng ta (tận thế), hoặc chỉ với một người trong chúng ta (cái chết cá nhân), vào giờ mà chúng ta không ngờ tới. Cảnh giác có nghĩa là lối sống cầu nguyện, tiết độ trong các thú vui thể xác (bao gồm cả các hành động hãm mình), kiên cường (can đảm khi đối mặt với sự ngược đãi, bách hại) và yêu thương (hiến dâng bản thân). Đây là “những con đường của Chúa”, Chúa là chỉ dạy chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài để giúp chúng ta có thể sống theo cách siêu phàm này. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2024

Nước tôi không thuộc về thế gian này -- Lễ Chúa Kitô Vua

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (18:33-27)

Khi ấy, quan Phi-la-tô nói với Đức Giê-su rằng: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?” 34 Đức Giê-su đáp : “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì ?” Đức Giê-su trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.” Ông Phi-la-tô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao ?” Đức Giê-su đáp : “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”

------

Đoạn Phúc âm này là lời nhắc nhở tuyệt vời cho chúng ta về bản chất của nước Chúa và vương quyền của Người. Vương quốc này không thuộc về thế gian này.

Điều đó không có nghĩa là Vương quốc này không ở trong thế gian này. Vương quốc của Chúa Kitô hoạt động mạnh mẽ trong thế gian này. Biểu hiện hữu hình của Vương quốc này là Giáo hội Công giáo. Chúng ta có thể mô tả nhiều đặc điểm bên ngoài của Giáo hội Công giáo: với hơn một tỷ thành viên và hai nghìn năm lịch sử, đây vừa là tổ chức lớn nhất vừa là lâu đời nhất thế giới. Trái ngược với vẻ bề ngoài, Giáo hội Công giáo vẫn là động lực chính thúc đẩy nền văn hóa thế giới. Các thể chế và khái niệm thế giới mà mọi người coi là hiển nhiên, như bệnh viện, trường đại học và “nhân quyền”, hoàn toàn xuất phát từ di sản văn hóa của Giáo hội Công giáo, ngay cả khi nguồn gốc của chúng đã bị chúng ta quên lãng. Ngay cả lực lượng chính trị thống trị thời đại chúng ta—chủ nghĩa tự do xã hội phương Tây, với áp lực suy nghĩ chính trị theo khuôn khổ phong trào, “chống phân biệt đối xử” và các chương trình phúc lợi do chính phủ tài trợ không thể duy trì được, cũng có nguồn gốc từ Công giáo. Về cơ bản, giờ đây nó là tổ chức từ thiện Công giáo bị tách biệt khỏi đạo đức Công giáo.

Chúng ta có thể nói về những biểu hiện hữu hình của vương quyền của Chúa Kitô và ảnh hưởng của vương quốc này trên thế giới, nhưng điều này sẽ làm chúng ta chia trí khỏi trọng tâm.

Trọng tâm của vương quyền Chúa Kitô không thuộc về thế giới này. Nó thuộc về thế giới bên kia.

Là người Công giáo, chúng ta phân biệt Giáo hội Chiến thắng (các thánh trên thiên đàng) với Giáo hội Chiến đấu (tất cả chúng ta đang đấu tranh ở đây dưới thế gian). Trái tim của Giáo hội và Vương quốc thì với Giáo hội Chiến thắng, “Giê-ru-sa-lem thượng giới... mẹ chúng ta.” (Gal 4:26), nơi chúng ta được gắn kết  bằng đức tin và các bí tích. -- Dr. John Bergsma

Share:

Một ý nghĩa của Danh hiệu "Con Người" -- Lễ Chúa Kitô Vua

Bài trích sách ngôn sứ Đa-ni-en (7:13-14)

Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa :
có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến.
Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành
và được dẫn đưa tới trình diện.
Đấng Lão Thành trao cho Người
quyền thống trị, vinh quang và vương vị;
muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ
đều phải phụng sự Người.
Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu,
không bao giờ mai một ;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.

Là người Kitô hữu, chúng ta đọc văn đoạn Kinh thánh này và nhận ra mặc khải của Chúa trong Kinh Thánh là sự mặc khải dần dần. Nghĩa là, khi sự mặc khải trong Kinh thánh đi đến điểm nói cách rõ ràng về việc Ngôi Hai nhập thể, thì các lẽ thật của đức tin bắt đầu trở nên rõ ràng hơn. Trong Đa-ni-ên 7, một văn bản Cựu Ước, chúng ta đã có một khải tượng ban đầu về ít nhất hai Ngôi vị của Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha và Chúa Con.

Không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu dùng danh hiệu “Con Người” để nói về chính mình. Khi Chúa Giê-su dùng danh hiệu đó cho chính mình, tôi tin rằng Người đang nghĩ đến hai đoạn trong Cựu Ước, cụ thể là Đa-ni-en chương 7, nơi “Con Người” lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị” trong thời cánh chung, trong cuộc phán xét cuối cùng, và Thánh vịnh 8, nói về  Con Người được tạo nên “chẳng thua kém thần linh là mấy / một chút” (Tv 8:6) hoặc “trong một thời gian ngắn, kém hơn Thiên Chúa” nhưng sau đó Thiên Chúa “đặt muôn loài muôn sự dưới chân” Con Người (Tv 8:7). Người nghĩ rằng danh hiệu “Con Người” của Chúa Giêsu ám chỉ đến sự hữu hạn hoặc bản tính con người của Người. Nhưng thực ra, danh hiệu đó ám chỉ đến vai trò cánh chung của Người với tư cách là Vua và vị Thẩm phán. Điều này trở nên rõ ràng nhất trong phiên tòa xét xử cuối cùng của Chúa Giêsu, khi Philatô trực tiếp hỏi Người, liệu Người có phải là Đấng Kitô không:

“Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: “Ông có phải là Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” Đức Giê-su trả lời: “Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 63” (Mc. 14:61–62)

Tại thời điểm đầy kịch tính này trong sứ vụ trần thế của mình, Chúa Giêsu nhắc đến đoạn Kinh thánh từ Đanien để xác định danh tính của Người và chỉ ra vai trò của Người với tư cách là Thẩm phán trong thời cánh chung, thời sau hết.-- Dr. John Bergsma

Share:

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Bà goá nghèo hèn nhưng khôn ngoan -- CN 31 TN

Ngày ấy, ngôn sứ Ê-li-a đứng dậy đi Xa-rép-ta. Khi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.” Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa !” Bà trả lời : “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết.” Ông Ê-li-a nói với bà : “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà… Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói ; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. 16 Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán (1 Vua 17:10-16).

 

Cũng như Ê-li-a gặp bà goá thành Xa-rép-ta, Chúa Giêsu gặp bà goá nơi thùng bỏ tiền dâng cúng ở Đền thờ. Cuộc gặp gỡ này không phải tình cờ mà là có mục đích; Ê-li-a là sứ giả của ân sủng Chúa.

Ê-li-a thử thách đức tin của bà goá bằng cách yêu cầu bà chuẩn bị phần lương thực cuối cùng mà bà đã định dành cho mình và con trai. Qua yêu cầu đó, Ê-li-a nhấn mạnh rằng nhu cầu lớn nhất của bà không phải là lương thực vật chất mà là lương thực của niềm tin và hy vọng cho sự sống của linh hồn. Sự vâng phục đầy đức tin của bà đã đem đến phép lạ mà bà cần.

Tương tự, Chúa Kitô kêu gọi chúng ta đặt lòng yêu mến Chúa lên trên những nhu cầu thế gian, vì Người biết rằng cơn đói sâu thẳm nhất của chúng ta là về mặt linh hồn. Lời kêu gọi này được thể hiện qua các thánh tử đạo, những người đã từ bỏ mọi thứ vì Chúa Kitô, thể hiện niềm tin rằng giá trị thật sự nằm ở những gì không thể mất đi — niềm tin, hy vọng và tình yêu dành cho Chúa. Như thánh tử đạo Jim Elliot đã nói, “Người khôn ngoan cho đi những gì mình không thể giữ để nhận lấy điều mình không thể mất.”

Đức tin vào Thiên Chúa là một thử thách và thường được củng cố qua các thử thách. Sự thử thách của Chúa giúp chúng ta nhìn vượt ra khỏi bản thân để tin cậy vào sự tốt lành của Người, học cách nhìn nhận mọi sự trong cuộc sống qua tình yêu và sự khôn ngoan của Người. Đức tin cho phép chúng ta cảm nhận sự hiện diện và lòng trắc ẩn của Chúa, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn. Lòng trung tín của Thiên Chúa có nghĩa là Người thường ban cho chúng ta nhiều hơn điều chúng ta cầu xin và luôn cung cấp những gì chúng ta thực sự cần, ngay cả khi có vẻ như Người đang giữ lại điều đó.

Thật vậy, chúng ta có thể nói trọn vẹn cuộc sống thì như bí tích Thánh Thể, nơi mà đằng sau những vẻ bề ngoài là sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa, Đấng biết chúng ta và yêu thương chúng ta. Đức tin giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện trấn an của Chúa trong cuộc sống, ngay cả giữa những khó khăn, Ngài nói với chúng ta: “Chính Ta đây. Đừng sợ.” Bằng cách nuôi dưỡng thói quen đức tin này, chúng ta chuẩn bị để nghe được tiếng nói an ủi đó, ngay cả trong giây phút cuối cùng của cuộc đời. -- Dr. Peter Kreeft

Share:

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Không ai yêu con hơn Ngài, lạy Chúa

Chúa là Đấng duy nhất mang lấy những gánh nặng và âu lo của chúng ta, tất cả những bệnh tật và lo lắng của chúng ta, cả về thể chất lẫn tinh thần. Ngài có thể gánh chịu mọi thứ, vì Ngài là Đấng Toàn Năng.

Chúng ta phải qua lời cầu nguyện dâng lên Chúa tất cả những bệnh tật của chúng ta và của những người lân cận. Cầu nguyện là cho việc đó. Chúng ta phải trở nên một với Chúa và không được lo lắng về ngày mai, như Ngài đã phán: Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mat 6:34).

Chúa dạy chúng ta không lo lắng về ngày mai. Nhưng chúng ta lại làm điều đó: chúng ta không chỉ lo lắng về ngày mai mà còn xa hơn thế nữa, và điều này làm cho cuộc sống chúng ta rất căng thẳng. Chúng ta là những sinh vật có lý trí, được tạo ra để gánh chịu sự căng thẳng của một ngày. Thế mà chúng ta tự vác lấy gánh nặng hơn vậy, và do đó chúng ta đau khổ. Chúng ta không vâng lời Chúa khi Ngài bảo chúng ta đừng lo lắng về ăn gì uống gì và những sự bận tâm của thế gian này. Nhưng chúng ta tạo ra gánh nặng cho cơ thể và tâm hồn mình. Thức ăn và đồ uống làm cho cơ thể cực nhọc hơn khi chúng ta ăn và uống nhiều hơn mức cần thiết. Cơ thể chúng ta phải lao khổ chỉ để tiêu hóa tất cả những thức ăn đó và vì vậy chúng mệt nhọc. Rồi nếu chúng ta lại gánh thêm những gánh nặng bằng những ý tưởng của mình, thì sự căng thẳng sẽ tăng lên gấp bội và sự đau khổ của chúng ta cũng vậy. Đó là lý do tại sao chúng ta phải luôn cầu nguyện.

Chúa không cần lời cầu nguyện của chúng ta — trái lại, chúng ta cần cầu nguyện. Khi chúng ta cầu nguyện với Chúa, chúng ta thực sự đang nói chuyện với Ngài cũng giống như chúng ta nói chuyện với nhau. Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Không có người thân hay bạn bè nào ở trên trần gian này hiểu chúng ta và yêu thương chúng ta như Chúa. Tình yêu của Ngài không môi miệng nào có thể diễn tả được; chúng ta cũng không thể hiểu và tưởng tượng được tình yêu ấy như thế nào. Chúng ta còn quá nhỏ bé để hiểu được chiều sâu của tình yêu Chúa. Lòng thương xót của Chúa không thể so sánh được với sự gì ta biết để có thể hiểu được. Ngài trao ban chính Ngài cho chúng ta không chút lưỡng lự. Ngay cả điều này, chúng ta cũng không thể hiểu được dù chỉ là bước đơn giản ban đầu!
-- Trích từ Our Thoughts Determine Our Lives: The Life and Teachings of Elder Thaddeus of Vitovnica
Share:

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Tâm trí của bạn trở nên nặng nề vì bạn bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ của những người xung quanh

Tâm trí của bạn trở nên nặng nề bởi vì bạn bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ của những người xung quanh. Hãy cầu nguyện với Chúa để Ngài giúp bạn gỡ bỏ gánh nặng này. Đây là những suy nghĩ của người khác, khác biệt với suy nghĩ của bạn. Họ có kế hoạch của họ, và kế hoạch đó là tấn công bạn bằng chính suy nghĩ của họ. Thay vì buông bỏ, bạn đã tự để mình trở thành một phần trong kế hoạch của họ, và tất nhiên, bạn sẽ phải chịu đựng. Nếu bạn đã phớt lờ cuộc tấn công, bạn sẽ giữ được sự bình yên trong tâm hồn. Dù họ có thể nghĩ hoặc nói bất cứ điều gì về bạn, bạn vẫn sẽ giữ được sự bình tĩnh và thanh thản. Sớm thôi, mọi cơn giận dữ của họ sẽ dịu xuống, như một quả bóng bay xì hơi, bởi những suy nghĩ thuần khiết và bình yên đến từ bạn. Nếu bạn như vậy, bình tĩnh và tràn đầy yêu thương, nếu mọi suy nghĩ của bạn đều là những suy nghĩ tốt lành và nhân từ, họ sẽ ngừng chiến đấu chống lại bạn trong suy nghĩ của họ và sẽ không còn đe dọa bạn nữa. Nhưng nếu bạn đòi mắt đền mắt, đó chính là chiến tranh. Ở đâu có chiến tranh, ở đó không thể có hòa bình. Làm sao có thể có hòa bình trên chiến trường, khi mọi người đều phải cảnh giác để chặn trước cuộc tấn công bất ngờ từ kẻ thù? -- Trích từ Our Thoughts Determine Our Lives: The Life and Teachings of Elder Thaddeus of Vitovnica

Share:

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Chỉ cần ta muốn yêu Chúa bằng cả con tim, Chúa sẽ làm phần của Ngài -- CN 30 TN

Ngày ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng : “Anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành ; như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, đã phán với anh em.“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời này tôi truyền cho anh em hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ” (Đnl 6:4-6).

Bạn có nhận ra đây không chỉ là lời cầu nguyện mà còn là một điều răn. Đó là lời của Chúa đến với chúng ta, cũng như là lời của chúng ta gửi đến Chúa. Cầu nguyện cơ bản là một cuộc đối thoại hai chiều với Thiên Chúa, và cuộc đối thoại là sự trao đổi, chứ không phải là độc thoại. Lời tôn vinh, cảm tạ, đền tội và khẩn cầu của chúng ta bay lên đến Chúa; và sự mặc khải, các điều răn và ân sủng của Chúa đến với chúng ta.

Xung quanh lời cầu nguyện này, Mô-sê sử dụng năm động từ ở thể mệnh lệnh cho các điều răn. Thứ nhất, “kính sợ” Chúa. Thứ hai, “tuân giữ” các điều răn của Ngài. Thứ ba, cẩn thận / lo đem chúng ra “thực hành”. Thứ tư, “yêu thương” Chúa của bạn bằng cả trái tim. Thứ năm, “ghi lòng tạc dạ” những lời này. Hãy cùng xem xét các động từ này một cách cẩn thận.

Đầu tiên là kính sợ, vì sự kính sợ phải đến trước. Nỗi sợ Thiên Chúa không phải là nỗi sợ nô lệ, như nỗi sợ của kẻ nô lệ đối với một chủ nhân tàn nhẫn, mà là nỗi sợ của một người con yêu thương và trung thành, sợ làm buồn lòng người cha yêu dấu của mình. Đôi khi người ta nói rằng nỗi sợ này có nghĩa là “tôn trọng,” nhưng nó còn hơn thế nữa. Đó là sự tôn kính. Đó là thờ phượng. Đó là tôn thờ. Đó là phản ứng mà chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng được lãnh nhận. Thái độ này là nguồn gốc tâm lý và bản chất của mọi tôn giáo. Gần như một từ đồng nghĩa với nỗi sợ Thiên Chúa này là đức tin, tin vào sự hoàn thiện của Thiên Chúa và ý muốn của Ngài, thúc đẩy lời cầu nguyện cốt lõi của mọi tôn giáo chân chính: “Xin cho ý Cha được thực hiện.”

Và “ý Cha được thực hiện” chính là điều răn thứ hai: vâng lời. Đức tin không chỉ là một quan điểm; không chỉ là tin trong tâm trí; đức tin là lòng trung thành của ý chí. Đức tin là một lựa chọn, một hành động, một việc làm. Chương 11 của sách Híp-ri là danh sách những vĩ nhân đức tin thời Cựu Ước, và nó xác định đức tin của mỗi người qua những hành động vâng lời của họ. Nó cho chúng ta biết đức tin của họ đã làm gì.

Thứ ba, sự vâng lời này phải được thực hiện một cách cẩn thận, có nghĩa là có sự “cần thận / lo toan.” Cẩn thận ở đây không có nghĩa là “kén chọn” hoặc “sợ hãi,” mà có nghĩa là đam mê tích cực, chú ý và yêu thương. “Anh ấy thực sự quan tâm đến tôi” nghĩa là “anh ấy đặt tôi lên hàng đầu.” Khi chúng ta muốn nói, “Bạn nên thực sự quan tâm đến điều này,” chúng ta nói, “Đó là vấn đề sống còn.” Thiên Chúa thực sự là vấn đề sống chết đối với chúng ta, của đời sống vĩnh viễn [mà cuộc sống này chỉ là như một cái chớp mắt].

Thứ tư, điều răn trọng tâm là “yêu mến” Chúa hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Điều đó có nghĩa là đặt Chúa lên trên tất cả, không chỉ là thêm Ngài vào cuộc sống như lớp kem phủ lên bánh mà là để Ngài trở thành cả chiếc bánh, là Chúa của toàn bộ cuộc sống, để cho Thiên Chúa là Chúa của đời bạn. Bạn có thể nghĩ rằng điều này là không thể trừ khi bạn là một vị thánh; nhưng Thiên Chúa không yêu cầu điều gì là không thể làm được. Chọn để làm điều đó, cố gắng làm điều đó, muốn làm điều đó, quyết tâm làm điều đó, chính là đã làm được.

Cuối cùng, Mô-sê nói rằng “ghi lòng tạc dạ.” Điều đó có nghĩa là gì? Trong tiếng Híp-ri, điều này có nghĩa là, “Những lời này sẽ ở trên trái tim bạn,” hoặc “trong trái tim bạn.” Bởi vì chúng ta yêu Chúa bằng trái tim, chúng ta yêu những lời này bằng trái tim. Chúng ta có thể không thực hiện được điều răn yêu mến Chúa bằng cả trái tim, nhưng chúng ta không thể không yêu mến điều răn đó. Chúng ta có thể chưa yêu Chúa bằng cả trái tim, nhưng chúng ta có thể ít nhất là muốn yêu Ngài bằng cả trái tim, và nếu chúng ta làm như vậy, Chúa sẽ dần dần biến đổi trái tim chúng ta thành điều mà chúng ta mong muốn.

Nếu chúng ta thậm chí không muốn yêu Chúa bằng cả trái tim, điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chưa biết Chúa. Chúa là Đấng đáng yêu nhất vì Chúa là tình yêu, và tình yêu luôn muốn chia sẻ chính mình, và Chúa không mong muốn gì hơn là ban cho chúng ta niềm vui trên thiên đàng, một niềm vui chỉ có được khi chúng ta biết yêu thương. -- Dr. Peter Kreeft, Food For The Soul: Reflections on Mass Readings, Year B

Share:

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2024

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy tình yêu và ơn cứu độ của Chúa cho con

“Ba-ti-mê” có nghĩa là “con trai của Ti-mê.” Tên Timaeus là một tên tiếng Hy Lạp mang ý nghĩa “danh dự” hoặc “đáng kính”... Từ “Bar,” ngược lại, là một từ Do Thái-Aramaic mang nghĩa là “con trai.” Những tên khác có cấu trúc tương tự bao gồm “Barnabas” và “Barabbas.” Vì vậy, Bar-timaeus là một người Do Thái có cha mang tên Hy Lạp. Chính cấu trúc của cái tên đã cho thấy sự lưu đày của dân Israel giữa các dân tộc khác, nơi họ đã lấy những tên ngoại quốc từ các nền văn hóa mà họ bị phân tán.

Ba-ti-mê bị mù, giống như “những người mù và què” (Giêrêmia 31:8) trong số những người bị lưu đày của Israel được nhắc đến trong bài đọc một (Gr 31:7-9). Anh kêu tên Chúa Giêsu dưới danh xưng “Con vua Đavít.” Con vua Đavít là vị vua sẽ cai trị lần nữa mười hai chi tộc của dân Chúa. Ba-ti-mê, một người con và là nạn nhân của sự lưu đày và những tai họa mà Israel đã phải gánh chịu, kêu đến Con vua Đavít để được phục hồi.

Đám đông muốn làm im lặng người ăn xin mù này, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng. Chúa Giêsu chú ý đến anh và gọi anh đến. “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Ba-ti-mê không ngần ngại nói: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.”

Có phải đó cũng là điều mà tất cả chúng ta mong muốn? Chúng ta muốn “thấy.” Chúng ta muốn nhận thức mọi thứ như chúng thực sự là, có thể thấy mọi thứ như Chúa nhìn thấy chúng.

Tôi nhớ đến một lời cầu nguyện mà Thánh Josemaría Escrivá từng cầu nguyện trong nhiều năm khi còn trẻ, Domine, ut videam! “Lạy Chúa, xin cho con được thấy!” Thánh Josemaría biết rằng ngài được Chúa gọi, nhưng không thấy rõ Chúa đang kêu gọi mình về điều gì. Vì vậy, ngài đã cầu nguyện cho sự sáng suốt về tinh thần, qua lời của Ba-ti-mê. Nhiều người trong chúng ta cũng cần làm như vậy.

Chúa Giêsu đáp lời Ba-ti-mê: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” Và Ba-ti-mê nhìn thấy được! Nhưng anh không trở về con của mình. Anh theo Chúa Giêsu trên con đường của Chúa. Đó là điều thật đáng chú ý. Ba-ti-mê không chỉ muốn đôi mắt mình được chữa lành. Anh muốn trở thành một phần của vương quốc Israel mà Con của Đavít đang phục hồi, bắt đầu với Mười Hai Tông đồ, những tổ phụ mới của dân Israel Mới. Anh muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một thành viên của Giáo Hội.

Chúng ta đọc câu chuyện này và tập trung vào việc Ba-ti-mê nhận lại thị giác của mình. Tuy nhiên, có một bài học khác về “thị giác” trong câu chuyện này. Đám đông nhìn Ba-ti-mê và chỉ thấy một người ăn xin mù lòa, một con người “vô giá trị” không đáng làm phiền đến Ráp-bi bận rộn từ Nazareth. Nhưng Chúa Giêsu nhìn Ba-ti-mê và thấy một người con đích thực của Israel, một nạn nhân của tội lỗi của dân tộc mình và một thế giới sa ngã. Ngài cảm thông với người đàn ông này, khôi phục thị giác cho anh và cũng chào đón anh vào Israel mới mà Ngài đang hình thành xung quanh mình: Giáo Hội."

"Chúa Nhật này, chúng ta đến Thánh lễ với nhu cầu được phục hồi tầm nhìn của mình. Tội lỗi, nỗi buồn và những áp lực của cuộc sống làm mờ tầm nhìn của chúng ta, khiến chúng ta không thể nhìn thấy mọi thứ như chúng là. Chúng ta cầu nguyện cùng Ba-ti-mê và Thánh Josemaría, Domine, ut videam! ‘Lạy Chúa, xin cho con được thấy!’ Lạy Chúa, xin giúp chúng con thấy ơn gọi của mình, thấy điều Chúa muốn chúng con làm, và thấy ở mỗi con người một giá trị đáng được yêu thương, để không ai trở nên vô hình hay bị bỏ quên trong mắt chúng con.” -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Chúng ta hãy vui mừng vì ơn Chúa cứu độ

Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam.
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. -- Thánh vịnh 126:4-5

Cuộc đời của ngôn sứ Giêrêmia đầy những khó khăn: ông được Chúa gọi để kêu gọi dân tộc Giu-đa ăn năn từ bỏ tội lỗi, nhưng từ khi còn trẻ ông đã được cảnh báo rằng sẽ không ai lắng nghe ông. Và đúng thật như vậy: Giê-rê-mi-a đã dành cả đời để cảnh báo dân chúng ở Jerusalem và Judah về sự hủy diệt sắp xảy ra dưới tay của người Babylon, nhưng cả hoàng thân lẫn dân chúng đều không bao giờ nghe lời ông. Ông đã sống qua cảnh Jerusalem bị phá hủy và chứng kiến quê hương, gia đình, và dân tộc của mình bị tiêu diệt bởi chính sự cứng đầu của họ. Chẳng cần phải nói, sách tiên tri của ông không phải là một cuốn sách vui vẻ.

Tuy nhiên, trong năm mươi hai chương có một đoạn sáng sủa: các chương 30–33, gọi là "Sách An Ủi." Không giống phần còn lại của cuốn sách, ở đây Giê-rê-mi-a thực sự hướng tới tương lai sau sự hủy diệt và trừng phạt của Judah. Trong tương lai đó, vượt ra ngoài cuộc đời của ông, ông nhìn thấy một sự phục hồi của hòa bình và mối quan hệ yêu thương giữa Chúa và tất cả các chi tộc Israel.

Chương 31 của Giê-rê-mi-a, bài đọc một là một phần của chương này, nổi tiếng nhất với lời tiên tri trong các câu 31–34, là đoạn duy nhất trong Cựu Ước sử dụng chính xác cụm từ "Giao ước Mới" (tiếng Híp-ri, berith hadashah) để mô tả sự phục hồi mà Chúa sẽ mang đến sau khi Giuđa bị hủy diệt và lưu đày.

Bài đọc Chúa Nhật này bao gồm một lời tiên tri ít nổi tiếng hơn ở đầu chương quan trọng này. Trong các câu 7–9, Giê-rê-mi-a tiên đoán về sự phục hồi của Israel. "Israel" ở đây ám chỉ mười chi tộc phía Bắc, những người đã bị người Assyria tiêu diệt và lưu đày khoảng 150 năm trước khi các chi tộc phía Nam là Judah và Benjamin bị người Babylon chinh phục. Israel ở đây cũng được gọi là "Ephraim" trong câu cuối cùng: “Ephraim là con đầu lòng của Ta." Ephraim là chi tộc hàng đầu của liên minh mười chi tộc tạo thành Israel phía Bắc. Đây là chi tộc mạnh nhất, nằm ở trung tâm, nắm giữ thủ đô và cung cấp phần lớn các vị vua.

Ngay từ thời của Giê-rê-mi-a, quốc gia Israel đã là lịch sử của quá khứ, đã mất đi từ lâu, là một ký ức xa xôi. Thế nhưng Giê-rê-mi-a tuyên bố rằng Chúa chưa quên họ, rằng Ngài sẽ tập hợp họ “từ các đầu bờ cõi,” bao gồm cả “người mù và người què.”

Chủ đề phục hồi Israel là một phần quan trọng trong cuộc đời và sứ vụ của Chúa chúng ta khi chúng ta đọc các sách Phúc Âm. Chúa Giêsu đã chọn Mười Hai Tông Đồ như Mười Hai Tổ Phụ Mới, xung quanh đó Ngài sẽ phục hồi các chi tộc Israel. Một phần của tinh thần truyền giáo mà chúng ta thấy trong sách Công vụ Tông đồ phát xuất từ mong muốn đến với tất cả các quốc gia, nơi các chi tộc Israel bị phân tán, để tập hợp lại dân của Chúa.

Share:

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024

Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến vậy, thì tại sao địa ngục lại tồn tại?

Hỏi một Linh Mục / Ask a Priest: Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến vậy, thì tại sao địa ngục lại tồn tại?

Câu hỏi: Làm sao một Thiên Chúa yêu thương lại có thể đày ai đó xuống địa ngục? Tôi luôn được dạy rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô điều kiện, nhưng nếu điều đó đúng, thì tại sao địa ngục lại tồn tại? Điều đó chẳng phải chứng minh rằng tình yêu của Thiên Chúa có điều kiện hay sao? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra vũ trụ tuyệt mỹ, không thể tìm ra một giải pháp thay thế tốt hơn địa ngục? Tại sao Thiên Chúa lại tạo ra một nơi khiến cho cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá trở nên vô hiệu đối với những ai đi xuống địa ngục? Kitô giáo dạy chúng ta yêu thương người lân cận. Làm sao tôi có thể yêu thương người lân cận mà lại quên đi những linh hồn đang bị thiêu đốt trong địa ngục? Chúng ta không thể cầu nguyện cho họ. Địa ngục là vĩnh cửu. Nếu tôi lên thiên đàng, xin Thiên Chúa phù hộ, làm sao tôi có thể hưởng thiên đàng biết rằng có hàng tỷ linh hồn đang bị thiêu đốt mãi mãi? Cốt lõi của vấn đề là tình yêu của Thiên Chúa và hình phạt của địa ngục hoàn toàn đối lập nhau. Một số người đã nói với tôi rằng địa ngục là sự công bằng của Thiên Chúa. Khi tôi đọc những lời của Chúa Giêsu về địa ngục, nó không thể hiện sự công bằng đối với tôi. Nó thể hiện sự thù hận. Địa ngục là điều tôi ghét. Nó là một sự sáng tạo của Thiên Chúa mà tôi tin rằng không nên tồn tại đối với bất kỳ đứa con nào của Ngài, dù họ có xấu xa đến đâu. Chúng ta không bao giờ được quên rằng không có điều gì xảy ra mà không theo ý muốn của Thiên Chúa, bao gồm cả những người đi xuống địa ngục. Tôi từ chối tin rằng trái tim của tôi nhân hậu hơn giáo lý của mình… nhân hậu hơn Chúa của tôi. Tôi hy vọng những câu hỏi của mình không làm phiền cha.
—C.

Trả lời bởi Linh mục Edward McIlmail, LC

Tôi rất trân trọng cơ hội để trả lời những câu hỏi đầy tâm huyết của bạn. Trước tiên, tôi cần nhấn mạnh rằng không bao giờ nên hiểu những lời của Chúa Giêsu về địa ngục như là sự thể hiện lòng thù hận. Chúa Giêsu là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Gioan 14:6), và bất cứ điều gì Ngài mạc khải đều là vì sự cứu rỗi của chúng ta. Và Ngài làm điều đó vì tình yêu dành cho chúng ta.

Tâm điểm của câu hỏi của bạn, tôi nghĩ, là cảm giác rằng "tình yêu của Thiên Chúa và hình phạt của địa ngục hoàn toàn đối lập nhau." Nhưng thực ra, chúng không đối lập. Thay vào đó, chúng là hai mặt của cùng một vấn đề.

Để hiểu điều này, chúng ta cần nhớ hai thực tế: thứ nhất, Thiên Chúa là ai, và thứ hai, địa ngục là gì.

Kinh Thánh nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Gioan 4:8). Thiên Chúa là tình yêu thuần khiết, sự hoàn hảo vô tận. Lời nói không thể diễn tả hết sự vĩ đại của Ngài. Ngài yêu thương đến mức tạo dựng chúng ta để chia sẻ tình yêu đó với chúng ta. Nếu Thiên Chúa tốt lành, yêu thương, hoàn hảo như thế, thì thụ tạo nào có thể có bất kỳ lý do nào để bất tuân Ngài?

Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta như những cỗ máy. Ngài ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể yêu thương Ngài một cách tự nguyện. Ý muốn hoàn hảo của Ngài là chúng ta vâng lời Ngài — Ngài muốn điều tốt nhất cho chúng ta. Nhưng sự quan phòng của Ngài mở ra cho chúng ta một sự tự do mà chúng ta có thể lạm dụng.

Tổ tiên của chúng ta, Adam và Eva, đã không vâng lời Ngài, gây tổn hại cho bản thân họ và bản tính con người sẽ được truyền lại cho con cháu của họ (như chúng ta). Bản tính tổn thương này là một cách để nghĩ về tội nguyên tổ, mà chúng ta thừa hưởng. Một trong những hậu quả của tội nguyên tổ, ngay cả sau khi rửa tội, là chúng ta có khuynh hướng phạm tội, còn gọi là tính dục xấu xa (concupiscence). “Dục vọng xuất phát từ sự bất tuân của tội đầu tiên.Nó làm hỗn loạn các năng lực luân lý con người và, dù tự nó không phải là tội, nhưng nó hướng con người đến chỗ phạm tội” (GLCG 2515).

Một số tội có tính chất nghiêm trọng, hay còn gọi là tội trọng. Tội trọng liên quan đến việc từ chối hoàn toàn tình yêu của Thiên Chúa (để biết thêm, hãy xem GLCG từ số 1845). Một người chết trong tình trạng tội trọng sẽ đối mặt với hậu quả của sự tách rời hoàn toàn với Thiên Chúa. Đó chính là địa ngục.

Địa ngục không phải là một sáng tạo của Thiên Chúa. Thay vào đó, theo Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong một buổi diện kiến năm 1999, “Nó không phải là một hình phạt được áp đặt từ bên ngoài bởi Thiên Chúa mà là một sự phát triển từ những tiền đề đã được con người thiết lập trong cuộc sống này.”

Nói cách khác, địa ngục xuất phát từ bản chất của tội trọng. Thiên Chúa không đày người ta xuống địa ngục; đó là điều họ tự chọn.

Một phép ẩn dụ có thể giúp ích. Hãy tưởng tượng bạn đang ở trên một con tàu tìm kiếm những người sống sót từ một chiếc tàu chìm. Bạn thấy một hành khách đang vật lộn với những cơn sóng sau lưng bạn. Bạn ném một chiếc phao cứu sinh cho anh ta, nhưng anh ta từ chối cầm lấy nó. Bạn van xin anh ta nắm lấy chiếc phao cứu sinh, nhưng anh ta phớt lờ lời cầu xin của bạn. Cuối cùng, anh ta chìm xuống dưới sóng và chết đuối. Cái chết đuối của anh ta có chỉ ra rằng bạn thờ ơ không? Khi bạn van nài anh ta nắm lấy chiếc phao cứu sinh, bạn có thể hiện lòng thù hận không? Cái chết của anh ta có phải là lỗi của bạn không?

Câu trả lời cho tất cả những câu hỏi này là: không. Người trong nước, vì lý do nào đó, đã từ chối sự giúp đỡ của bạn. Việc anh ta chết đuối là hậu quả.

Điều này tương tự với tình yêu của Thiên Chúa. Ngài luôn ném những chiếc phao cứu sinh cho những người đã sa ngã vào tội trọng. Ngài thậm chí đã sai Con của mình đến để dạy họ cách nắm lấy chiếc phao cứu sinh và cảnh báo họ về những gì họ có thể mất nếu không làm vậy. Để giúp con người được cứu rỗi, Chúa Giêsu thậm chí sẵn lòng chết trên thập giá. Tuy nhiên, Ngài sẽ không ép buộc ai chấp nhận sự cứu rỗi. Ngài tôn trọng ý chí tự do của họ.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Thiên Chúa không bao giờ ngừng vươn tay đến chúng ta khi chúng ta còn trên trần gian. Giáo lý nói rõ điều này: “Dù con người có thể quên Thiên Chúa hoặc từ chối Ngài, Ngài không bao giờ ngừng kêu gọi mỗi người tìm kiếm Ngài, để tìm thấy sự sống và hạnh phúc” (số 30). Khi giải thích tại sao ai đó có thể rơi vào địa ngục, Giáo lý nhấn mạnh rằng: “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục; điều này đòi sự tự ý thù ghét Thiên Chúa (tội trọng) và cố chấp trong tình trạng đó đến cùng” (số 1037). Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá nhiều để ép buộc bất kỳ ai phải lên thiên đàng. Ngài tôn trọng tự do của chúng ta, và chúng ta có thể sử dụng tự do đó để từ chối tình bạn với Ngài mãi mãi.

Tóm lại: Thiên Chúa không đày ai xuống địa ngục. Con người tự chọn điều đó. Địa ngục không phải là một phần của sự sáng tạo ban đầu của Thiên Chúa. Thay vào đó, nó là kết quả của những lựa chọn mà con người (và thiên thần) đã đưa ra khi từ chối tình yêu của Thiên Chúa.

Nếu bạn lên thiên đàng, và tôi hy vọng bạn sẽ, câu hỏi đầu tiên của bạn khi ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa có thể là: “Làm sao ai đó có thể từ chối Tình yêu hoàn hảo đến vậy?” May mắn thay, sai lầm của người khác sẽ không ảnh hưởng đến hạnh phúc của bạn. Bởi vì, được lên thiên đàng theo định nghĩa là trở nên hạnh phúc nhất mà bạn có thể có được. (Nhân tiện, hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người đã qua đời; bạn không bao giờ biết ai còn cần sự giúp đỡ của bạn.)

Bạn nói rằng bạn từ chối tin rằng trái tim của bạn nhân hậu hơn Chúa của bạn. Tôi đồng ý. Không ai có thể vượt qua Chúa trong lòng nhân hậu và tình yêu. Hãy cùng cầu nguyện rằng mọi người đều đón nhận sự thật đó. Chúa chúc lành cho bạn.

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive