Thứ Năm, 13 tháng 10, 2022

Lời tiên đoán của Chúa về việc Đền thờ Giêrusalem bị tiêu hủy để cứu Giáo hội nhỏ bé thời sơ khai

Chuyển ngữ từ một đoạn của Rapture: The End-Times Error That Leaves the Bible Behind by Dr. David Currie

Chúa đã cảnh cáo các Pharisêu và kinh sư với những lời “Khốn thay...” nhưng họ đã không hoán cải và cuối cùng là họ đã kết án Chúa Giêsu và đóng đanh Ngài vào thập giá. Trong đoạn này, Dr. Currie đang nói về Diễn giải trên Núi Ô-liu của Chúa Giêsu và việc nó đã được ứng nghiệm theo như lời Chúa đã tiên đoán trong  Mát-thêu 24 25, Mác-cô 13, and Luca 21. Đến thời Chúa xét xử thành Giêrusalem vì đã không nhận ra Chúa khi Ngài đã đến giữa họ, Chúa đã nói trước những dấu hiệu để các môn đệ của Ngài biết mà thoát khỏi thời điểm Chúa kết án thành Giêrusalem. Đoạn này nói lên sự trung tín của Chúa với những ai tin theo Người và cơn thịnh nộ của Chúa thật là kinh hoàng cho những ai không ăn năn, không đón nhận ơn cứu độ của Con Ngài.

-------------

... Bảy dấu hiệu đầu tiên: sự xuất hiện của những mêsia giả; chiến tranh và tin đồn về chiến tranh; nạn đói; động đất; cuộc đàn áp tôn giáo do nhà nước bảo trợ; sự sa ngã của một số Kitô hữu; và việc Phúc âm được rao giảng trên toàn thế giới. Những dấu hiệu này không có mối liên hệ chặt chẽ với khi nào Đền thờ bị phá hủy. Các môn đệ chỉ biết điều đó sẽ xảy ra trong khi Đền thờ vẫn đứng vững, vì chúng là những lời cảnh báo về sự sụp đổ của Đền thờ… Ngược lại, dấu hiệu thứ tám: sự xúc phạm làm Đền thờ trở nên tan hoang từ sách Đa-ni-en (dân ngoại bao quanh Giê-ru-sa-lem) – được kèm theo với lời cảnh báo nguy cấp là phải chạy trốn ngay lập tức khi dấu hiệu thứ tám xuất hiện. Chúa Giêsu nhấn mạnh, “Các con đừng để sự gì làm các con chậm trễ khi thấy dấu hiệu cuối cùng này.”

Sự bị phá tan hoang được ứng nghiệm

Vậy lịch sử cho chúng ta biết điều gì về tám dấu hiệu này? Vào mùa hè năm 66 A.D., tướng quân La Mã Cestius Gallus tấn công Giê-ru-sa-lem để phản ứng lại việc ngừng hiến tế cho Hoàng đế Nero trong Đền thờ. Ông đã thực sự dẫn binh lính của mình đến cổng của Đền thờ, và nhiều người Do Thái nghĩ rằng người La Mã đã thắng trận. Đền thờ sắp sụp đổ. Tuy nhiên, vì một số lý do không rõ, Cestius bất ngờ rút lui.

 Trước dấu hiệu suy yếu này, người Do Thái đã truy đuổi đội quân đang rút lui và giết hàng trăm binh lính La Mã trong khi thu được một lượng lớn vật liệu chiến tranh. Các đơn vị đồn trú của La Mã, hiện là một hòn đảo trong vùng biển có lãnh thổ rất thù địch, đã được hứa là họ có thể tiến hành an toàn, nhưng những người lính La Mã đã đầu hàng vũ khí của mình. Sự đẩy lùi này của quân đội La Mã để lại cho Giê-ru-sa-lem ấn tượng rằng Thiên Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ Đền thờ của Ngài, và rằng họ có thể đánh bại La Mã khi ra trận (WJ, II, 17–19).

Nero nổi điên lên khi được thông báo về sự thất bại này. Ông ngay lập tức tuyên chiến và cử vị tướng giỏi nhất của La Mã đến Israel vào tháng 2 năm 67 A.D. Tướng Vespasian bắt đầu chinh phục Galilê và vùng nông thôn Giuđêa. Ông ấy không muốn phạm phải sai lầm mà Cestius đã làm. Vespasian tham gia một chiến dịch vào mùa hè năm 67 A.D., và sau đó một lần nữa vào mùa hè năm sau. Sau khi hoàn thành các chiến dịch này, ông đã lên kế hoạch đưa toàn bộ quân đội của mình đến bao vây Giê-ru-sa-lem.

Đột nhiên mọi thứ thay đổi. Nero tự sát vào tháng 6 năm 68 A.D. Vespasian ngay lập tức rút khỏi chiến trường. Vì một điều quan trọng hơn: ngôi hoàng đế ở Rôma. Mặc dù cho như ông đã thành công trong cuộc chiến đó, ông đã phải rời bỏ Giê-ru-sa-lem trong lúc này. Vespasian đã ra trận trong chiến dịch thứ ba, rất ngắn ngủi vào mùa hè năm 69 A.D. Lúc đó, đối thủ thứ nhất của ông là Galba, đã bị sát hại (tháng 1 năm 69 A.D.), và đối thủ thứ hai của ông, Ortho, đã bị đánh bại và tự sát (tháng 4 năm 69 A.D.).  Đối thủ thứ ba của ông, Vitellius, đến Rôma vào tháng bảy. Các quân đoàn phía đông tuyên bố Vespasian là hoàng đế, và Vitellius bị giết vào mùa thu năm 69 A.D bởi chính quân đội của mình. Con trai của Vespasian, Titus, cuối cùng đã trở về Giê-ru-sa-lem vào năm 70 A.D. để hoàn thành công việc mà cha ông đã chưa hoàn thành.

Điều này có liên quan gì đến việc các Kitô hữu có thể an toàn trốn chạy khỏi Giêrusalem? Trong lần rút quân ban đầu khi có tin Nero tự sát, có vẻ như người La Mã đã rời khỏi Giê-ru-sa-lem, và Giêrusalem không còn bị bao vây nữa. Lỗi này nhanh chóng được khắc phục, nhưng có một khoảng thời gian ngắn mà không có quân đội La Mã nào bao vây Giê-ru-sa-lem.

Sự rút lui của Vespasian không ngăn cản những người của các nhóm nhiệt thành (Zealots) sống ngoài vòng pháp luật tiến hành chiến tranh chống lại nhau. Một nhóm trong số họ đã ẩn náu ở Giê-ru-sa-lem vì sự an toàn tương đối mà nó mang lại. Những người trong thành phố Giê-ru-sa-lem sẽ không cho phép bất cứ ai rời đi vì sợ rằng họ sẽ giúp những người bên ngoài thành. Nhóm Zealots sống ngoài vòng pháp luật bên ngoài thành phố sẽ không cho phép bất kỳ ai rời đi vì sợ họ là gián điệp.

Khi Vespasian đã đảm bảo được thành Rôma và ngai vàng cho mình, Titus có thể tập trung toàn bộ vào Giê-ru-sa-lem. Titus sẽ không bỏ dở dang công việc mà cha ông đã bị dụ dỗ từ bỏ sau cái chết của Nero. Vào thời điểm này, phần còn lại của Giuđêa hoặc đã kiện đòi hòa bình hoặc đã bị chinh phục, và Titus giờ đây có thể tự do tập trung toàn bộ sự chú ý của mình vào thành  Giê-ru-sa-lem nổi loạn này (WJ, IV, 10: 5).

Ông tạm dừng để các phe phái của người Do Thái trong thành phố tiếp tục tàn sát lẫn nhau. Đền thờ lúc này đang được một trong những nhóm Zealot sống ngoài vòng pháp luật kiểm soát bởi, chiến đấu với tầng lớp tư tế và cư dân thành phố. Người Idumeans, là hậu duệ của Esau, đã xâm nhập được vào thành phố và đang hoành hành khắp thành phố. Và một nhóm người Zealots vô luật pháp, những người đã bị bao vây bên ngoài các bức tường, cuối cùng đã vào thành và tham gia vào cuộc chiến (WJ, IV, 6: 2).

Người La Mã đã xây thành lũy để phá tường thành, đúng như lời Chúa Giêsu tiên đoán. “Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm.” (Lu-ca 19: 43–44).

Nhiều người Do Thái đã cố gắng thoát khỏi thành Giêrusalem khi cuộc bao vây cuối cùng của Titus đang được tiến hành, nhưng cơ hội để chạy trốn đã không còn nữa. Có vẻ như cơ hội duy nhất là trong cuộc rút lui ngắn ngủi và cuộc đuổi theo Cestius, hoặc trong thời điểm Vespasian quyết định chiếm ngai vàng sau khi Nero tự sát. Ngay lúc đó Vespasian đã kéo toàn bộ quân đội của mình khỏi Giê-ru-sa-lem. Sau đó, ông nghĩ lại và gởi một nhóm binh sĩ trở về Giêrusalem.

Chúa Giêsu biết rằng khoảng thời gian để trốn rất ngắn ngủi. “Ai ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, ai ở ngoài đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình.  Khốn cho những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!  Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát.”(Mat 24: 17–20). Các Kitô hữu đã phải thoát khỏi thành, không chút do dự khi có cơ hội.

Cestius xuất hiện vào năm 66 A.D. Vespasian đến vào năm 67, 68 và 69 A.D. Sau đó Titus chiếm thành vào năm 70 A.D. Trong mỗi biến cố, dân Do thái làm điều họ đã luôn làm khi bị xâm chiếm bởi quân lính ngoại bang. Họ chạy vào thành Giê-ru-sa-lem và tạ ơn Chúa vì sự khá an toàn của nó. Đó là một thành kiên cố và đã chịu đựng được các cuộc tấn công trong suốt lịch sử.

Vì vậy, lời khuyên của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Ngài trong Bài giảng Núi Ô-liu hoàn toàn trái ngược với bản năng của mọi người Israel. Ngài ra lệnh cho các môn đệ của Ngài “chạy trốn lên núi” ngay lập tức khi họ quan sát thấy cảnh tượng tàn ác ghê tởm của Đa-ni-ên, mà Lu-ca xác định là những đội quân bao quanh Giê-ru-sa-lem. Các Kitô hữu phải chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem! Lời khuyên này thách thức đức tin của ngay cả những Kitô hữu sùng đạo nhất và đáng tin cậy nhất của Giê-ru-sa-lem. Có phải các Kitô hữu đã tin theo những xét đoán hay nhất của chính họ và trốn trong các bức tường thành; hay họ đã vâng lời Chúa của họ và chạy xa khỏi Giê-ru-sa-lem khi có cơ hội?

Eusebius ghi lại rằng các Kitô hữu chạy trốn hàng loạt vì lời tiên tri của Chúa Giêsu, có thể là vào năm 68 A.D. “Tuy nhiên, toàn bộ các tín hữu của cộng đoàn tại Giê-ru-sa-lem, đã được chỉ huy bởi một sự mặc khải của Chúa, mặc khải được giao cho những người có lòng mộ đạo được cộng đoàn chứng nhận trước khi chiến tranh xảy ra, đã rời khỏi thành, và cư ngụ tại một thị trấn nào đó bên ngoài sông Giođan, tên là Pella.… Và khi những người tin vào Chúa Giêsu Kitô đã từ Giê-ru-sa-lem đến đó… sự phán xét của Chúa sau một thời gian dài đã được thực hiện… và hoàn toàn tiêu diệt thế hệ cứng đầu đó.” (EH, III, 5:86).

 Khu vực này trên khắp sông Jordan trước hết là một vùng đất của dân ngoại, dưới sự bảo hộ của Vua Agrippa. Hầu hết những người Kitô hữu đã trốn đến Pella ở Transjordan, nhưng một số đi xuống Alexandria ở Ai Cập, và một số ít trốn đến Tiểu Á.

Josephus (một lịch sử gia Do thái giáo chẳng chút thân thiện với Kitô giáo) nói với chúng ta rằng nhiều người Do Thái đã bỏ trốn khỏi Giê-ru-sa-lem ngay sau khi Tướng Cestius thất bại vào năm 66 A.D. Có phải là những người Do Thái tin vào Chúa Giêsu không? Eusebius đặt sự trốn chạy này vào tháng 6 năm 68 A.D., khi Vespasian tạm thời rút quân khỏi vòng vây của Giê-ru-sa-lem.

Nó thực sự không quan trọng các Kitô hữu đã thoát khỏi thành lúc nào. Trong cả hai trường hợp, sẽ có một khoảng thời gian rất ngắn để trốn thoát. Tất nhiên, cả hai đều vào đúng thời điểm mà bất kỳ Kitô hữu nào có suy nghĩ sáng suốt sẽ không bị thuyết phục rằng họ cần phải chạy trốn.

Nhưng các Kitô hữu đã không nhìn các sự kiện mà không có sự hỗ trợ của tầm nhìn siêu nhiên. Họ đã nhớ những lời của Chúa Kitô. Thánh Athanasius cho chúng ta biết rằng mặc khải mà Eusebius đề cập đến, chính là những lời của Chúa Kitô mà chúng ta đang xem xét. Sau khi trích dẫn lời cảnh báo của Chúa Giêsu, Athanasius mô tả các hành động của cộng đoàn ở Giuđêa “Biết được những điều này, các vị thánh của Chúa đã điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp” (DHF). Không hề nghĩ đến của cải, họ chạy trốn để cứu mạng sống của họ.

Hầu như không một ai sống sót thoát khỏi quân đội La Mã một khi cuộc bao vây được tổ chức một cách nghiêm túc. Những người cố gắng trốn thoát khỏi thành Giê-ru-sa-lem đã bị người La Mã bắt, đánh roi, và sau đó bị đóng đinh trên thập tự giá: năm trăm người trở lên bị đóng đanh mỗi ngày. Titus “hy vọng rằng người Do Thái có thể nhún nhường trước cảnh tượng đó, vì sợ hãi.… Những người Do thái bị đóng đanh rất đông, họ không có chỗ để đóng đanh và cây không đủ để treo người ta.” (WJ, V, 11: 1). Eusebius ghi lại rằng không một Kitô hữu nào bị bắt trong Giê-ru-sa-lem khi Titus thành công trong việc bao vây thành (EH, III, V)! Giáo hội sơ khai đã thấy những dấu hiệu về sự ứng nghiệm lời tiên tri của Chúa Giêsu. Đức tin của họ vào lời của Chúa Kitô đã cứu Giáo hội Giuđêa non trẻ khỏi sự diệt vong.

Share:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét