Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Để đánh bại cám dỗ

Có thể đôi lúc bạn cảm thấy một cám dỗ nào đó quá sức chịu đựng, nhưng đó là lừa phỉnh của Satan. Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đặt trên bạn gánh nặng vượt quá sức mạnh Ngài ban trong bạn để bạn đối phó với nó. Ngài không cho phép bất kỳ cám dỗ nào xảy ra mà bạn không thể đánh bại. Tuy nhiên, bạn phải góp phần bằng cách thực hành bốn bí quyết Kinh Thánh dạy để đối đầu với cám dỗ.

TẬP TRUNG SỰ CHÚ Ý CỦA BẠN VÀO MỘT ĐIỀU KHÁC. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi không nơi nào trong Kinh Thánh bảo chúng ta “chống lại cám dỗ”. Chúng ta chỉ được dạy hãy “chống lại ma quỷ” (Galát 5, 22-23)… Thay vào đó, chúng ta được khuyên hãy tập trung suy nghĩ một chuyện khác, bởi lẽ chống lại một ý nghĩ sẽ vô ích. Việc đó chỉ làm tăng sự chú ý vào điều sai trái, và chúng ta càng thấy nó quyến rũ hơn. Để tôi giải thích:

Mỗi khi bạn tìm cách ngăn chặn một ý tưởng khỏi tâm trí, bạn lại khiến nó đi sâu hơn vào ký ức mình. Thay vì chống, bạn lại củng cố nó. Điều này rất đúng đối với cám dỗ. Bạn không đánh bại cám dỗ bằng cách chống lại cảm xúc về nó. Càng chống lại cảm xúc, nó càng làm bạn tiêu hao và chế ngự bạn. Bạn làm cho nó mạnh thêm mỗi khi nghĩ đến nó.

Vì cám dỗ luôn bắt của bạn sẽ chiếm được con đầu từ một ý nghĩ, nên cách nhanh nhất để vô hiệu hoá sức quyến rũ của nó là hãy chú ý vào một chuyện khác. Đừng chống lại ý tưởng. Chỉ cần thay đổi dòng suy tư và để tâm đến một ý nghĩ khác. Đây là bước đầu tiên để đánh bại cám dỗ.

Cuộc chiến chống lại tội lỗi thắng hay bại là ở trong tâm trí. Điều gì chiếm sự chú ý của bạn sẽ chiếm được con người của bạn…

Đó là lý do tại sao việc lặp đi lặp lại “tôi phải ăn ít lại… Hoặc tôi phải bỏ hút thuốc… Hoặc tôi không thèm khát nữa” là chiến lược tự làm cho mình thất bại. Nó bắt bạn chú ý vào điều bạn không muốn. Cũng như tuyên bố, “tôi sẽ không bao giờ làm điều mẹ tôi đã làm”. Chính bạn đang tự đặt mình để làm lại chuyện đó.

Cám dỗ khởi sự bằng việc bắt lấy chú ý của bạn. Điều gì khiến bạn chú ý, điều ấy sẽ dấy lên cảm xúc nơi bạn. Tiếp đến, cảm xúc tác động đến hành vi và bạn lại hành động theo cảm xúc. Càng chú ý đến “tôi không muốn làm điều này”, nó càng mạnh mẽ kéo bạn vào trong lưới bẫy của nó.

Phớt lờ cám dỗ thì hiệu quả hơn so với việc chiến đấu với nó. Khi tâm trí bạn nghĩ đến một điều gì khác, cám dỗ sẽ tự mất tác dụng. Thế nên, khi cám dỗ gọi điện thoại cho bạn, đừng tranh cãi với nó, chỉ việc cúp máy!

Đôi khi điều này có ý nghĩa vật lý là lánh xa cám dỗ. Tẩu vi thượng sách. Chỗi dậy tắt ti vi. Rời khỏi nhóm bạn đang nói chuyện tầm phào. Hãy rời khỏi rạp, dù phim chưa xong. Để khỏi bị châm, hãy lánh xa đàn ong. Hãy làm bất cứ điều gì có thể để hướng sự chú ý của bạn vào một chuyện khác.

Về mặt thiêng liêng, tâm trí của bạn là một trong những nơi dễ bị tổn thương nhất. Để bớt bị cám dỗ, hãy để lời Chúa và những ý tưởng tốt lành chiếm hữu tâm trí bạn. Hãy đánh bại những ý nghĩ đen tối bằng cách nghĩ đến những gì thanh cao. Đây là nguyên tắc thay thế. Thắng điều dữ bằng điều lành (Rôma 12, 21). Satan không thể lôi kéo sự chú ý của bạn đang khi bạn bận tâm đến một điều khác. Đó là lý do tại sao Kinh Thánh lặp đi lặp lại với chúng ta rằng, hãy giữ lòng trí tập trung: “Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giêsu” (Híp-ri 3, 1). “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô” (2 Timôthê 2, 8 ). “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Philípphê 4, 8 ).

Nếu thật sự nghiêm túc muốn đánh bại cám dỗ, bạn phải quản trị tâm trí mình và giám sát nguồn thông tin đưa vào. Người khôn ngoan nhất đã từng sống trên đời cảnh báo rằng: “hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh” (Châm ngôn 4, 23). Đừng để rác rưởi đổ vào tâm trí bạn cách bừa bãi. Phải gạn lọc. Phải chọn lựa kỹ càng điều bạn suy nghĩ. Hãy noi gương thánh Phaolô, “chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cô-rintô 10, 5). Điều này đòi hỏi phải thực hành lâu dài suốt cả đời, nhưng với trợ giúp của Chúa thánh thần, bạn có thể thiết lập lại cách suy nghĩ của mình. -- Trích từ Sống theo đúng mục đích

Share:

Thuốc giải độc cho sự kiêu ngạo -- CN thứ XXX Mùa Thường niên, năm C

Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người Pha-ri-sêu thì không.(Luca 18:14)

Chúa Giêsu kể dụ ngôn này cách hài hước. Người Pharisiêu kiêu ngạo “cầu nguyện với chính mình.” Trong lời cầu nguyện của ông, ông chỉ nói về bản thân; thật ra, ông đang tự khen ngợi và thậm chí cầu nguyện cho chính mình! Người Pharisiêu đã lẫn lộn giữa chính mình và Thiên Chúa. Đó chính là bản chất của sự kiêu ngạo.

Ngược lại, người thu thuế chỉ đơn giản kêu xin Thiên Chúa thương xót, và ông đã được nhận lời. Lưu ý rằng điều này không có nghĩa là người thu thuế là “người tốt.” Nhiều người thu thuế là kẻ bất công, lạm quyền, lợi dụng người khác trong xã hội, kể cả người nghèo.

Dụ ngôn của Chúa Giêsu gây sốc cho người đương thời, bởi vì hầu hết người Do Thái đều chính đáng khi phẫn nộ trước việc những người thu thuế Do Thái cộng tác với chính quyền La Mã. Họ là những kẻ ký sinh trong xã hội, là tai họa xã hội — tương tự như cách chúng ta nhìn nhận những kẻ buôn ma túy ngày nay. Hãy tưởng tượng: “Một trùm ma túy lên đền cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’” Đó chính là mức độ gây kinh ngạc mà dụ ngôn này tạo ra nơi người Do Thái cùng thời Chúa Giêsu.

Điều Chúa Giêsu muốn nói không phải là cộng tác với chế độ áp bức hay lừa gạt người nghèo là điều tốt, cũng không phải ăn chay là xấu hay tham lam, gian dối và ngoại tình là điều tốt. Ý Chúa Giêsu là sự kiêu ngạo có thể che lấp mọi tội lỗi khác, và nếu chúng ta có được mọi nhân đức nhưng vẫn giữ lòng kiêu ngạo, thì chúng ta vẫn như người chưa bắt đầu đời sống thiêng liêng.

Đời sống thiêng liêng bắt đầu bằng việc nhận ra tội lỗi và sự nghèo túng của mình. Rồi, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta tiến bước trong sự thánh thiện, không bao giờ quên rằng “công trạng các việc lành của chúng ta là hồng ân do lòng nhân hậu của Thiên Chúa.” (GLCG #2009).

Điều này gợi nhớ đến một trích dẫn tôi yêu thích trong Sách Giáo Lý: “Các thánh luôn ý thức sâu sắc rằng mọi công trạng của họ đều là ân sủng thuần khiết.”

 “Sau cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng được vui hưởng nhan Chúa nơi quê thật trên trời. Con không muốn thu thập công trạng để được lên thiên đàng, con làm việc chỉ vì tình yêu Chúa mà thôi....Cuối cuộc đời này, con đến trình diện trước mặt Chúa với đôi bàn tay không, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi điều công chính của chúng con đều mang tì vết trước nhan Chúa. Con chỉ ao ước mặc lấy sự công chính của Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần gia nghiệp đời đời là chính Chúa. — Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (GLCG #2011)

Thuốc giải độc cho sự kiêu ngạo chính là phó thác hoàn toàn cho lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng tuyệt đối vào ân sủng của Ngài, Đấng ban cho chúng ta sức mạnh để từ bỏ tội lỗi và sống trong đức ái. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Lời cầu nguyện của người khiêm nhường xuyên thủng tầng mây

Thiên Chúa lắng nghe và đáp lại mọi lời cầu nguyện, kể cả những lời cầu xin tuyệt vọng và khẩn thiết nhất. Ngài không bất công hay vô tâm, cũng không điếc lác, hay bất lực. Ngài có lòng nhân hậu vô biên, khôn ngoan vô biên và quyền năng vô biên. Nếu điều đó không đúng, thì Thiên Chúa đã không còn là Thiên Chúa.

Ngài là Đấng công bình và cũng là Đấng đầy yêu thương. Ngài không lúc thế này lúc thế khác, không thiên vị ai. Ngài yêu thương mỗi người chúng ta vô hạn, như nhau. Nhưng chúng ta lại không tin, không phó thác, không vâng phục Ngài một cách vô hạn và bình đẳng như thế. Ngài luôn trung tín với chúng ta, nhưng chúng ta không phải lúc nào cũng trung tín với Ngài. Ngài luôn sẵn lòng phục vụ chúng ta, nhưng chúng ta không phải lúc nào cũng sẵn lòng phục vụ Ngài.

Điều ngăn cản lời cầu nguyện của chúng ta không nằm ở Thiên Chúa. Ngài luôn ban cho chúng ta điều tốt nhất. Sự cản trở luôn nằm trong chính chúng ta: trong sự thiếu khôn ngoan để nhận ra điều gì thực sự tốt cho mình về lâu dài; trong việc chúng ta không thấy rằng điều mình thật sự cần nhất không phải là điều mình đang cầu xin, mà là chính việc tiếp tục cầu nguyện – để gia tăng lòng tin và lòng tín thác, chứ không phải gia tăng tài khoản ngân hàng, sự an toàn nghề nghiệp hay sức khỏe thể lý, thậm chí cả sức khỏe tinh thần. Những điều đó tuy rất quan trọng, nhưng chính bản thân chúng ta còn quan trọng hơn. Thiên Chúa luôn ban cho ta điều ta cần, dù không phải lúc nào điều đó cũng trùng khớp với điều ta muốn.

Không phải tên lửa nào cũng bay đến mặt trăng, nhưng mọi lời cầu nguyện đều bay đến Thiên Đàng. Cầu nguyện giống như một cuộc gọi đường dài được bảo đảm và miễn phí. Bưu điện có thể làm thất lạc thư, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ.

Vì thế, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu nguyện:
“Lời cầu nguyện của người khiêm nhường xuyên thủng tầng mây;
nó không ngơi nghỉ cho đến khi đạt được mục đích,
cho đến khi Đấng Tối Cao đáp lời,
xét xử công minh và minh chứng lẽ phải.”

Lời cầu nguyện của chúng ta mạnh mẽ hơn ta tưởng. Cầu nguyện không làm thay đổi Thiên Chúa, nhưng làm thay đổi chính chúng ta. Và chúng ta thay đổi người khác.

Nếu chúng ta có thể nhìn thấy mọi sự khác biệt mà mình đã mang lại cho cuộc đời người khác, nếu Thiên Chúa cho ta thấy những khác biệt mà ngay cả những lời cầu nguyện nhỏ nhất của ta đã tạo nên trong đời sống của mình, của những người ta gặp gỡ, và của những người mà họ lại ảnh hưởng đến, lan tỏa qua bao thế hệ — nếu Thiên Chúa cho ta thấy tất cả điều đó, có lẽ chúng ta sẽ không thể rời khỏi đầu gối của mình nữa suốt phần đời còn lại. -- Dr. Peter Kreeft

Share:

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

Tín thác vào Chúa cách trọn vẹn là bí mật của các vị thánh

Tín thác vào Chúa cách trọn vẹn là bí mật của các vị thánh. Khi nhận ra Chúa muốn họ thực hiện một việc gì đó, tiền bạc để thi hành không là điều cản trở cho họ mà là sự thất tín vào Chúa.

Có một câu chuyện cụ thể kể về Mẹ Angelica, người thành lập EWTN: Mẹ Angelica đã đặt mua một vệ tinh trị giá 1,5 triệu đô la cho đài truyền hình Eternal Word Television Network (EWTN), trong khi tài khoản ngân hàng chỉ còn vỏn vẹn 200 đô la. Khi người giao hàng đến nói ông được lệnh là ông không được giao hàng cho đến khi Mẹ đặt cọc 600.000 đô la. Mẹ đi vào nhà nguyện cầu nguyện với Chúa: "Con tưởng Chúa muốn có cái vệ tinh này, nên con đã xoay xở đủ kiểu để có được nó cho Chúa. Và bây giờ con gặp một chút rắc rối — chúng con cần số tiền này, nếu không thì con sẽ phải từ chối cái vệ tinh của Chúa mất." Mẹ Angelica đứng đó, như thể đang chờ tiền từ trên trần nhà rơi xuống — nhưng không có gì xảy ra. Thế là Mẹ quyết định đứng dậy và ra ngoài để từ chối chiếc xe giao hàng. Nhưng ngay lúc đó, một nữ tu chạy từ tu viện ra và nói: "Mẹ ơi, có một người đàn ông gọi điện, ông ấy rất khẩn thiết, nói cần nói chuyện với Mẹ và nhất định không chịu cúp máy."

Mẹ trả lời: "Nhưng ngoài này Mẹ đang có chuyện lớn, chị à."

Nữ tu nói: "Con biết, nhưng ông ấy thật sự rất tha thiết."

Mẹ nói: "Thôi được, đưa Mẹ điện thoại."

Người gọi là một doanh nhân đang ở trên du thuyền của mình tại Bahamas. Ông ấy từng đọc một trong những cuốn sách nhỏ về đời sống thiêng liêng mà Mẹ viết từ nhiều năm trước — và cuốn sách ấy đã thay đổi cuộc đời ông, giúp ông làm hòa với gia đình. Giờ đây ông gọi để quyên góp cho sứ vụ phát hành sách của Mẹ — và số tiền là 600.000 đô la.

Mẹ hỏi: "Ông có thể gửi ngay bây giờ không?"

Và ông đã chuyển khoản ngay lập tức.

Một câu chuyện khác là về Chân phước James Alberione. Được gọi để rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thông, thời đó là qua in ấn, cha đã mua máy in rất tốn kém để thi hành ý Chúa. Cha thường nói: : “Những người muốn bắt đầu công việc của Chúa bằng tiền của là những kẻ ngây ngô,” vì “Chúa muốn chứng tỏ rằng Ngài là kẻ làm nên mọi sự.”Có lần cha nợ một chủ nợ số tiền lớn và ngày đó là ngày cuối cùng để trả nợ. Sáng hôm ấy, cha đã sai các nữ tu của mình tìm ân nhân xoay xở. Khi đang ở trong văn phòng thì có một phụ nữ lớn tuổi ăn mặc như một kẻ ăn xin đến nói muốn gặp cha. Cha loay hoay tìm xem có tiền không để bố thí cho bà nhưng bà lại đưa cho cha một phong thư rồi bỏ đi. Trong phong thư ấy có đúng số tiền cha cần để trả nợ. Khi gặp trắc trở, cha thường bắt mọi người đi xưng tội. Cha sợ tội hơn là sợ thiếu tiền.

Giêsu, xin cho biết sống tuân theo giới luật của Chúa. Giêsu, con tín thác vào Chúa.

Share:

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

Chúa quan tâm đến việc ta trở thành con người nào hơn là ta có gì -- CN thứ XXIX Mùa Thường niên, năm C

Mục đích của dụ ngôn Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay rất rõ ràng. Chính Chúa Giêsu đã giải thích: nếu ngay cả một vị quan tòa bất chính – người chẳng kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng tôn trọng con người – vẫn có thể đáp ứng lời thỉnh cầu chính đáng của một bà góa phiền toái, người không bao giờ bỏ cuộc mà cứ kiên trì nài nỉ, thì huống chi Thiên Chúa, Cha trên trời đầy yêu thương của chúng ta, lại chẳng ban cho chúng ta những điều tốt lành mà chúng ta cầu xin sao, miễn là chúng ta biết kiên trì trong lời cầu nguyện?

... Vậy tại sao Thiên Chúa lại trì hoãn trong việc đáp lời cầu nguyện của chúng ta? Thực ra, Ngài không trì hoãn — mà chính chúng ta mới là người chậm cầu nguyện.

Thiên Chúa luôn chờ đợi lời cầu nguyện của chúng ta. Ngài không ban cho chúng ta những điều tốt lành mà chúng ta muốn hay cần mà không có lời cầu nguyện, mặc dù Ngài hoàn toàn tự do để ban cho ta, bởi vì Ngài biết rằng chúng ta cần lời cầu nguyện và lòng tin thúc đẩy lời cầu nguyện ấy hơn là việc cần những điều mà ta đang xin.

Lý do Thiên Chúa không ban ngay cho chúng ta điều ta cầu xin cũng giống như việc Ngài không ban cho chúng ta điều ta những điều tốt lành chúng ta ước muốn cho tới khi chúng ta ra tay lao động. Cầu nguyện và lao động cùng dựa trên một nguyên tắc. Thiên Chúa đã thiết lập cả hai — lao động và cầu nguyện —cho cùng một mục đích. Thiên Chúa thấy rằng chúng ta không chỉ cần những điều ta phải lao động để có được, như thức ăn, chỗ ở, quần áo và sự an toàn, mà còn cần công việc nữa, một công việc có ý nghĩa.

Thiên Chúa đã thiết lập việc cầu nguyện vì cùng một lý do như khi Ngài thiết lập lao động: để ban cho chúng ta phẩm giá của kẻ thực sự dựng nên sự nghiệp, những người cộng tác và làm việc cùng Ngài.

Chúng ta chỉ trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, kiên nhẫn và bền bỉ nhờ lao động. Và người làm việc thì quan trọng hơn công việc. Điều mà chúng ta trở thành nhờ lao động quan trọng hơn chính công việc mà ta làm, bởi vì con người có giá trị nội tại, còn công việc — dù có quan trọng đến đâu — cũng chỉ là phương tiện dẫn đến một mục đích cao hơn.

Câu nói “Bạn không thể mang theo của cải khi chết” là đúng đối với mọi công việc, nhưng không đúng với chính bản thân ta. Chúng ta mang theo chính mình bất cứ nơi nào ta đi đến — kể cả đến thiên đàng.

Điều đúng với lao động cũng đúng với cầu nguyện. Thiên Chúa lập ra cầu nguyện để huấn luyện chúng ta thành những chiến binh cầu nguyện — kiên nhẫn, can đảm và mạnh mẽ. Ngài có thể ban cho ta mọi điều ta cần và muốn ngay lập tức — Ngài có thể làm phép lạ, vì Ngài đã tạo dựng cả vũ trụ! Nhưng nếu Ngài làm thế, chúng ta sẽ trở nên thụ động, như những đứa trẻ được đút ăn. Bạn từng nghe câu: “Cho ai đó con cá, bạn nuôi anh ta một ngày; dạy anh ta câu cá, bạn nuôi anh ta cả đời.” Đó chính là nguyên tắc của Thiên Chúa.

Ngài quan tâm nhiều hơn đến chúng ta ta đang trở thành thứ người nào, hơn là những gì ta nhận được, dù những thứ đó cũng cần thiết. Bởi vì con người ta sẽ đi cùng ta đến thiên đàng, còn của cải thì không. Ngài đang huấn luyện ta cho sự vĩnh cửu. Ngài nhìn theo tầm nhìn dài hạn, còn ta thì chỉ thấy ngắn hạn. Và mỗi khi quan điểm của ta khác với Thiên Chúa, thì Ngài luôn đúng, còn ta luôn sai.

Đó là lý do tại sao câu Kinh Thánh hợp lý nhất lại cũng là điều khó tin nhất: “Mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8:28). Rõ ràng, không phải mọi sự đều tốt, và Thiên Chúa — Đấng có quyền năng vô hạn và khôn ngoan hoàn hảo — có thể tiêu diệt mọi điều xấu nếu Ngài muốn, nhưng Ngài không làm thế, vì Ngài dùng chính những điều xấu, đau khổ và bất công ấy để làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn, thánh thiện hơn, và yêu thương hơn.

Tất nhiên, ta không nhìn thấy điều đó — vì ta chưa ở cuối hành trình. Ta không phải là Thiên Chúa. Như Thiên Chúa đã nói với Gióp: ta không phải là tác giả của vở kịch cuộc đời, ta chỉ là nhân vật trong đó. Nhưng có một Tác Giả — Ngài biết và kiểm soát mọi sự — và bản chất của Ngài là tình yêu, mà tình yêu thì muốn điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu.

Đức tin ấy, lòng tin tưởng ấy, hoàn toàn hợp lý. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu đó có trí tuệ vô hạn cùng với quyền năng vô hạn, thì tình yêu ấy đáng được tin tưởng tuyệt đối. Nhưng lòng tin ấy lại tùy thuộc vào chúng ta.

Vì thế, Chúa Giêsu kết thúc bằng câu hỏi: Khi Con Người đến — vào ngày tận thế, hay vào cuối đời bạn, hay trong khoảnh khắc tiếp theo khi bạn phải chọn giữa việc tin tưởng Ngài mà tiếp tục cầu nguyện, hoặc bỏ cuộc — liệu Ngài có còn thấy lòng tin trên mặt đất này không?

Câu trả lời cho câu hỏi đó không nằm trong tay Thiên Chúa, mà nằm trong tay mỗi một người chúng ta. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2025

Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài -- CN thứ XXIX Mùa Thường niên, năm C

Bài trích sách Xuất hành (17:8-13)

Hồi đó, quân A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê : “Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.” Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo : ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế ; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên. Nhờ vậy, tay ông Mô-sê cứ giơ lên được mãi, cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta.

Vậy ý nghĩa của câu chuyện này là gì? Câu chuyện ở đây không là về quyền năng kỳ diệu trong đôi tay của Môsê để giành chiến thắng miễn là ông giữ chúng giơ cao, bởi vì không có sức mạnh nào trong đôi tay ấy, mà chỉ có quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã tạm thời ban cho chúng sức mạnh.

Điều chủ yếu ở đây là khi Thiên Chúa thực hiện phép lạ, Ngài đôi khi muốn chúng ta cộng tác với Ngài — thật sự cùng làm việc với Ngài; Ngài tôn vinh những người phụng sự mình. Thiên Chúa đã không làm điều đó mà không dùng đến Môsê, mà chỉ làm với Môsê. Môsê phải làm phần việc của mình — giữ tay mình giơ lên.

Bài học thứ hai là: không ai trong chúng ta có thể làm được nhiều điều khi chỉ có một mình. Chúng ta hữu hạn. Nỗ lực của chúng ta cũng hữu hạn. Môsê không thể tự mình hoàn tất công việc của Thiên Chúa; ông không thể giữ tay mình giơ lên suốt cả ngày. Chúng ta cần đến nhau.

Vì vậy, Thiên Chúa ban cho chúng ta bạn bè. Điểm yếu của mỗi người — điều khiến ta cần bạn hữu — thật ra lại là một sức mạnh; “dấu trừ” ấy trở thành “dấu cộng”, và là một phúc lành. Bởi vì tình bạn chính là một sức mạnh và một ân phúc lớn lao. Chúng ta cần người khác không chỉ để hoàn thành công việc mà ta không thể làm một mình, mà còn cần họ cho chính họ — không chỉ vì công việc, mà vì tình bạn.

Chúng ta cần tình bạn của người khác hơn cả sự giúp đỡ của họ trong công việc. Nhu cầu được cộng tác chỉ là một phần của nhu cầu lớn hơn: được sống trong tình bạn. Tình bạn là phép thử của lòng khiêm nhường. Satan không có bạn bè, bởi kẻ kiêu ngạo thì oán ghét việc phải lệ thuộc vào người khác. Người khiêm nhường thì không. Kinh Thánh nói Môsê vĩ đại vì ông khiêm nhường: “Môsê là người rất khiêm nhường, hơn bất cứ ai trên mặt đất” (Ds 12:3).

Hiền lành và khiêm nhường là sức mạnh, vì chúng mở lòng ta ra với người khác và với sự trợ giúp của họ. Và “người khác” ấy bao gồm cả những kẻ thấp hơn lẫn cao hơn ta.
Aharon và Khua kém Môsê về nhiều mặt — Môsê là vị ngôn sứ vĩ đại nhất — nhưng vào ngày hôm đó, Môsê phụ thuộc vào họ, nhiều như họ phụ thuộc vào ông. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

Rửa sạch và chữa lành những tổn thương và bao bọc nó bằng Lời Chúa

Hôm qua Ad đọc một câu chuyện mà nó có ý nghĩa với mình hơn khi đọc lại lần thứ hai vì Ad nhận ra chính mình đang phải vật lộn với những lời dối trá của sự dữ.

Sự dữ lạm dụng những tổn thương trong cuộc sống, làm chúng ta quên đi chúng ta rất được yêu thương bởi Thiên Chúa chúng ta. Chú tâm vào cái đau, chúng ta bị giữ mãi lẩn quẩn trong vòng suy nghĩ không có lối thoát, như Phêrô đang đi trên biển tới với Chúa Giêsu, bị chìm vào biển khi để ý đến bão gió chung quang mình.

Cuối bài đọc, tác giả đưa ra ba câu hỏi giúp chúng ta nhận ra mình đang bị chiến thuật dối trá của sự dữ thao túng. Đây là ba câu hỏi đó:

Dấu hiệu cho thấy bạn đang bị ảnh hưởng bởi chiến thuật dối trá này:

  1. Những ý nghĩ tự kết án thường xuyên xuất hiện trong tâm trí bạn.
  2. Bạn dễ thấy mình cứ lặp đi lặp lại trong những thất bại, nhưng lại chẳng thấy lối thoát.
  3. Bạn cảm thấy tận sâu bên trong mình có gì đó không ổn, không đúng.

Làm sao để thoát khỏi sự tự kết án mình? Chúng ta phải lấy làm trọng Chúa nghĩ gì về ta và những gì người khác nghĩ về mình không quan trọng. Điều này đòi hỏi sự thả lỏng cái tôi và tin tưởng vào tình yêu của Chúa.

Làm sao để thoát khỏi việc lặp đi lặp lại trong những thất bại? Thưa thay đổi quan niệm. Thay đổi não trạng và bản thân không là một việc dễ làm. Nhưng khi chúng ta nhớ Chúa không gởi khó khăn đến để chúng ta kết án sự thất bại của mình,  Chúa không nhìn thấy sự yếu hèn của chúng ta là thất bại mà là cơ hội để chúng ta biết mình và tin tưởng vào Chúa hơn. Chúa đang cho mình một cơ hội để trưởng thành. Với tư tưởng đó, bạn sẽ thay đổi cách nhìn bản thân. Mỗi lần "thất bại", tôi có thêm kinh nghiệm về bản thân, về người khác, về Chúa.

Làm sao để đối ứng khi nghĩ bên trong mình có điều gì đó rất không ổn? Cảm giác không ổn là một nỗi đau đớn ta không nên phí nó. Chúa Giêsu cũng cảm thấy rất không ổn khi bị treo trên thập giá. Dâng nỗi đau ấy lên để cầu nguyện cho người khác. Ở đây chúng ta cũng có thể làm thêm một việc nữa. Không coi trọng những gì chính ta nghĩ về mình mà phải nhớ Lời của Chúa mới là quan trọng và bám chặt vào những lời đó.

ĐỨC CHÚA phán: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết ;có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông. (Isaia 1:18)
Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. (1 Gioan 4:16)

Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa. (Êphêsô 2:8)

Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. (Rôma 5:8)

Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có CHÚA đón nhận con. (Thánh vịnh 27:10).

Chúa Giêsu yêu tôi và hiến mạng mình vì tôi. (Ga-lát 2:20)

Chúng ta cần lượm nhặt và thuộc lòng những câu lời Chúa đã có lần tác động đến chúng ta.

Share:

Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

Hãy cầu nguyện như thể đã nhận được rồi

Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng : “Lạy thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !”  -- Luca 17:12-13

Dù chỉ có một trong mười người phong trở lại dâng lời ca tụng và tỏ lòng biết ơn cùng với đức tin của anh, cả mười người đều được chữa lành nhờ tin vào Chúa Giêsu. Đức tin ấy được thể hiện khi họ vượt qua thử thách mà Ngài đặt ra. Đức Giêsu không chữa họ ngay khi họ lớn tiếng cầu xin: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng con!”

Việc họ đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành thể hiện một mức độ đức tin. Việc họ gọi Ngài là “Thầy” thể hiện một mức độ đức tin cao hơn. Nhưng việc họ tất cả đều vâng lời Ngài và đi trình diện với các tư tế — những người sẽ xác nhận rằng họ đã được sạch — việc họ đã làm điều đó trước khi được sạch, việc chỉ khi đang trên đường thực thi điều đó, họ mới được chữa lành, tất cả cho thấy đức tin của họ ở một mức độ cao hơn nữa. Họ tin tưởng Đức Giêsu đến nỗi hành động như thể mình đã được chữa lành, dù việc chữa lành chưa xảy ra.

Đức tin của chúng ta cũng phải như thế. Khi chúng ta cầu xin một điều tốt mà chưa được, ít nhất là lúc ban đầu, Đức Giêsu nói với chúng ta: “Thầy nói với anh em : tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11,24). Nói cách khác, hãy cầu nguyện như thể chúng ta đã nhận được rồi. Hãy tạ ơn Thiên Chúa ngay cả trước khi nhận được điều ấy. Đó chính là điều Mẹ Maria đã làm tại tiệc cưới Cana, khi Mẹ đáp lại lời từ chối có vẻ cứng rắn của Đức Giêsu bằng cách nói với những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”, với lòng tin tưởng rằng Ngài sẽ hành động đúng đắn, ngay cả trước khi Ngài thực sự làm điều đó.

Tại sao? Không phải vì chúng ta đang tự lừa mình, như một số nhà tâm lý học nói, và dĩ nhiên không phải vì chúng ta có thể thao túng Thiên Chúa, mà vì chúng ta có thể chắc chắn rằng, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành và yêu thương, vô cùng khôn ngoan và quyền năng, nên chúng ta sẽ nhận được điều mình xin nếu điều đó thực sự tốt cho ta, như chúng ta nghĩ.

Chúng ta có thể tin tưởng trước rằng điều đó sẽ xảy ra, nếu chúng ta có được đức tin — thứ đức tin thật dễ lý giải nhưng lại khó để thực hành. Dễ lý giải, bởi vì nếu Thiên Chúa thực sự là Thiên Chúa, nếu Ngài vô cùng yêu thương, khôn ngoan và quyền năng, thì mọi sự, kể cả điều xấu, hiên Chúa — Đấng vô cùng yêu thương, khôn ngoan và quyền năng — thì mọi sự, kể cả những điều xấu, cuối cùng cũng sẽ góp phần mang lại điều tốt nhất cho chúng ta. Nhưng thật khó để tin điều đó; đó là một thử thách của đức tin. Chúng ta được mời gọi trở nên như mười người phong, những người hành động như thể mình đã được Đức Giêsu chữa lành và đi trình diện với các tư tế.

Tất nhiên, chúng ta có thể sai về điều gì là tốt nhất cho mình, vì tư tưởng của chúng ta có thể sai lầm. Nhưng Thiên Chúa thì không thể sai lầm. Chúng ta có thể sai lầm về điều tốt cho mình, còn Chúa, thì không bao giờ sai. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

Dành một giờ mỗi tuần để tạ ơn -- CN thứ XXVIII Mùa Thường niên, năm C

Tất cả mười người phong được chữa lành, nhưng chỉ có một người — người Samari — quay lại cảm tạ Đức Giêsu. “Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn.” — đó gần như là một hành vi thờ phượng. Chúng ta thấy trong cả bài Tin Mừng lẫn bài đọc thứ nhất, đều có những người ngoại bang (Ông Na-a-man người Syria và người Samari) được chữa khỏi bệnh phong, và phản ứng của họ là lòng biết ơn được thể hiện qua việc thờ phượng.

Những bài đọc này dẫn chúng ta đến chỗ hiểu rằng thờ phượng chính là cách biểu lộ lòng biết ơn. Điều này đặc biệt đúng với trung tâm của việc thờ phượng Công giáo — phụng vụ Thánh Thể — vì “Eucharistia” xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tạ ơn”. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta — phần lớn đều là những người ngoại bang — đã được chữa khỏi căn bệnh phong cùi thiêng liêng nơi linh hồn mình nhờ được tắm gội trong dòng nước khiêm tốn của bí tích Rửa Tội. Sau khi đã được chữa lành, phản ứng xứng đáng nhất của chúng ta là lòng biết ơn sâu sắc, được thể hiện qua việc thờ phượng.

Đời sống Kitô hữu dĩ nhiên không chỉ giới hạn trong việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật. Tuy nhiên, chắc chắn đời sống ấy phải bao gồm việc tham dự Thánh lễ Chúa nhật, vì nhiều lý do. Một trong những lý do đó là: Thánh lễ là biểu hiện cao nhất của lòng biết ơn và tạ ơn đối với những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong cuộc đời chúng ta.

Ngay cả khi không có mạc khải thần linh, không có Kinh Thánh, con người vẫn có thể (1) dùng lý trí để nhận ra rằng Thiên Chúa hiện hữu, và (2) nhận biết rằng về mặt luân lý, con người có bổn phận phải thờ phượng Thiên Chúa. Việc thờ phượng Thiên Chúa là một bổn phận luân lý cơ bản, hiển nhiên đối với lý trí được sử dụng đúng đắn. Và nếu không có tôn giáo mặc khải, con người vẫn có nghĩa vụ luân lý phải đưa ra những nghi thức nào đó để bày tỏ lòng biết ơn đối với Đấng đã dựng nên mình.

Huống hồ là khi Đấng ấy đã tỏ mình ra cho chúng ta, đã trở nên một người trong chúng ta, đã chịu chết vì tình yêu dành cho chúng ta, và đã sống lại để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống! Và trước tất cả những điều đó, mà chúng ta không thể dành nổi một giờ mỗi tuần để cảm tạ Ngài sao? -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Chúa Nhật thứ XXVIII Mùa Thường niên, năm C

Ông Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua nước A-ram, mắc bệnh phong hủi. Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch. -- 2 V 5:14

Bạn còn nhớ Êlisa là ai không? Điều này rất quan trọng để hiểu những gì đang diễn ra. Êlisa là người kế vị của ngôn sứ Êlia. Và nếu bạn nhớ, sau khi Êlia được cỗ xe lửa cất lên trời, thì người kế vị ông là Êlisa được ban cho gấp đôi thần khí của ông.

Điều đó có nghĩa là Êlisa thực sự mạnh mẽ hơn Êlia, người đi trước ông, và ông làm nhiều phép lạ lớn lao hơn Êlia. Vì thế, trong Cựu Ước, trong toàn bộ trình tự của lịch sử cứu độ, Êlisa — vị ngôn sứ đã chữa lành Naaman — được xem, theo một nghĩa nào đó, là người làm phép lạ vĩ đại nhất trong Cựu Ước. Nếu bạn muốn có một ví dụ về điều này, thì sau đó, trong sách Các Vua quyển thứ hai, chương 13, sau khi Êlisa qua đời và được chôn cất, có người bị ném vào mộ của ông, và khi chạm vào xương ông, người ấy liền sống lại. Đó là mức độ thánh thiện và quyền năng của Êlisa.

Giờ đây, lý do tất cả điều này quan trọng là vì nếu bạn nhìn sang Tân Ước, bạn sẽ nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, Đức Giêsu gọi Gioan Tẩy Giả là Êlia và Đức Giêsu lại là người kế vị Gioan Tẩy Giả. Cũng như Êlia là người đi trước Êlisa, thì Gioan Tẩy Giả là người đi trước Đức Giêsu. Vì vậy, nếu Gioan Tẩy Giả là Êlia mới, thì Đức Giêsu là Êlisa mới. Nhưng Ngài không chỉ là một Êlisa mới — Ngài còn vĩ đại hơn Êlisa.

Trong khi Êlisa chỉ chữa lành một người phong cùi trong Cựu Ước, thì Đức Giêsu, Êlisa mới, đã làm gì? Ngài chữa lành mười người phong cùi cùng một lúc, và họ không cần phải xuống sông Giođan tắm bảy lần. Ngài làm điều đó tức khắc. Tất cả những gì họ phải làm là vâng lời Ngài, lên đường đến Đền Thờ, và họ đều được sạch.

Câu chuyện này cho thấy hai điều về Đức Giêsu, và vì thế bài đọc Cựu Ước hôm nay kết hợp thật tuyệt vời với bài Tin Mừng. Thứ nhất, Đức Giêsu là Êlisa mới và cao cả hơn. Ngài làm những phép lạ lớn gấp mười lần — theo nghĩa đen — so với các phép lạ trong Cựu Ước. Nhưng hơn thế nữa, thứ hai, Ngài còn là Thiên Chúa Cứu Độ. Hãy suy nghĩ xem: trong Cựu Ước, người ta nói gì? Ai có thể chữa lành bệnh phong cách trực tiếp? Chỉ có Thiên Chúa, đúng không? “Há ta là Thiên Chúa mà có thể chữa người này khỏi bệnh phong sao?”

Thế thì Đức Giêsu đã làm gì trong Tân Ước? Không giống Êlisa, Ngài không cần sai người đó xuống sông tắm hay làm bất cứ nghi thức nào. Đức Giêsu chữa lành trực tiếp và tức thì. Và vì thế, ở đây có một điều — chỉ là một gợi ý thôi — một gợi ý về việc mặc khải thần tính của Đức Giêsu.

Nếu bạn biết Cựu Ước, bạn biết rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong, thì câu hỏi được đặt ra là: Đức Giêsu, Đấng chữa lành mười người phong cùng một lúc, là ai? Và câu trả lời được tỏ lộ khi người phong trở lại, phủ phục trước mặt Ngài, và dâng lời tạ ơn vì điều Ngài đã làm. -- Dr. Brant Pitre

Share:

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

Hai con đường, hai hướng đi -- Chúa nhật thứ XXVI Mùa Thường niên, năm C

Con đã nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. -- Luca 16:19-31

Điểm then chốt nằm ở câu cuối cùng. Nếu bạn không muốn ăn năn sám hối và tin vào Chúa, bởi vì điều đó có nghĩa là ta phải thay đổi lối sống tội lỗi của mình; nếu bạn quá cứng lòng và ích kỷ đến nỗi không chịu lắng nghe những mạc khải khác của Thiên Chúa, đặc biệt là Môsê và tất cả các ngôn sứ – những người đều nói cùng một điều (và ta có thể thêm vào đó một ngôn sứ khác trong chúng ta: chính là lương tâm sâu thẳm nhất của minh) – thì bạn cũng sẽ không chịu nghe ngay cả Đấng đã thực sự từ cõi chết sống lại. Đấng đang kể dụ ngôn này chính là Đấng mà dụ ngôn muốn nói đến; chính Chúa Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại, nhưng Ngài vẫn bị phớt lờ, từ chối, và không vâng phục. 

 Câu cuối đó đặt ra câu hỏi: Sao ta lại có thể ngu dại đến thế? Chúa Giêsu đã làm nhiều phép lạ, nhưng một số người chứng kiến vẫn không tin Ngài. Thậm chí có những người Pharisêu còn tố cáo Ngài dùng quyền lực ma quỷ để làm phép lạ. Chưa từng có ai làm nhiều phép lạ như thế, và cũng chưa từng có ai từ cõi chết sống lại; nhưng Chúa Giêsu đã làm, vậy mà người ta vẫn không tin vào Ngài.

Thánh Phaolô nói trong thư của ngài là vẫn còn năm trăm người ở Giêrusalem đã thấy Đức Giêsu phục sinh, nên bất cứ ai nghi ngờ Người thực sự đã sống lại có thể đến đó để phỏng vấn họ (1 Cr 15,6). Đó là những nhân chứng tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu phục sinh, và họ chẳng được lợi gì khi nói dối, trái lại họ mất tất cả khi tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô giữa một nền văn hóa sợ Ngài, hận thù và khước từ Ngài. Điều đó đúng cả với giới cầm quyền Rôma lẫn những nhà lãnh đạo Do thái giáo.

Với bằng chứng cụ thể và mạnh mẽ như thế, tại sao người ta vẫn không tin? Và bằng chứng ấy ngày nay ai cũng biết, vậy tại sao nhiều người vẫn từ chối tin?

Câu trả lời rõ ràng không phải vì thiếu bằng chứng. Câu trả lời là: họ không muốn tin. Vấn đề không phải là có xung đột giữa lý trí và đức tin, hay giữa khoa học và tôn giáo. “Cuộc chiến” đó hoàn toàn là hư cấu. Vì không có nạn nhân chiến tranh nào cả. Trong suốt lịch sử nhân loại, chưa có một tín điều nào của Kitô giáo bị bác bỏ bởi một phát minh khoa học nào. Vậy tại sao sách giáo khoa vẫn nói về “cuộc chiến” giả tạo ấy như thể nó là chìa khóa của lịch sử hiện đại? Tại sao những kẻ không tin lại không nhìn vào bằng chứng?

Bởi vì họ không muốn vâng phục sự thật. Sự thật đòi hỏi chúng ta đáp trả. Nếu Đức Giêsu thực sự đã sống lại từ cõi chết, thì Ngài chính là Thiên Chúa và có thẩm quyền tuyệt đối trên đời sống chúng ta – toàn bộ đời sống, kể cả ba thứ mà chúng ta tôn thờ như thần linh: sắc, tiền, tài – tức là cái gọi là “tự chủ”, hay tự do muốn làm gì thì làm với đời mình, như thể chúng ta có quyền trên Thiên Chúa thay vì Thiên Chúa có quyền trên chúng ta.

Đó chính là câu trả lời Chúa Giêsu đưa ra ở cuối dụ ngôn người phú hộ và anh Ladarô nghèo khó: “Nếu họ không nghe Môsê và các ngôn sứ, thì dù có ai từ cõi chết sống lại, họ cũng chẳng tin đâu.”

Tất cả các ngôn sứ của Thiên Chúa, bắt đầu từ Môsê, xuyên suốt Cựu Ước và kết thúc nơi Đức Giêsu, đều cảnh cáo chúng ta cùng một điều: họ không cho phép ta tự phong mình làm Chúa, làm chủ đời mình; không cho ta lặp lại tội của Ađam và Evà trong vườn Địa Đàng, tức là bất tuân thánh ý Thiên Chúa vì nghi ngờ Ngài – nghi ngờ quyền năng Ngài thi hành luật, nghi ngờ sự khôn ngoan của Ngài biết điều gì thực sự tốt nhất cho ta, và nhất là nghi ngờ tình yêu vô vị lợi của Ngài khi đòi hỏi ta vâng phục luật Ngài, như thể việc vâng phục đó chỉ để ích lợi cho Ngài chứ không phải cho chúng ta, như thể Ngài là một ông chủ nô lệ chứ không phải là một người Cha đầy yêu thương.

Ngày nay, ít nhiều thì trong tiềm thức, ta vẫn nghĩ theo cách đó; ta bị lừa bởi quảng cáo khéo léo của ma quỷ rằng sự thánh thiện là gánh nặng, còn tội lỗi mới vui, rằng các thánh là kẻ yếu đuối.

Hãy thật sự tự do. Hãy tự suy nghĩ. Đừng bị lừa bởi quảng cáo cổ xưa nhất mà ma quỷ đã phát minh trong Vườn Địa Đàng. Đừng tin vào lòng tham, dục vọng, và kiêu ngạo của chính mình. Hãy tin vào thánh ý Thiên Chúa. Sau cùng, ai mới thật sự là Cha của bạn? Bạn cầu nguyện “Lạy Cha chúng con” cùng với ai? Chính Ngài là Đấng đã trao nộp Mình và Máu Con Một Ngài cho bạn, để cứu độ bạn.

Khi còn sống ở đời này, thực tế dường như là bằng chứng thiên về quảng cáo của ma quỷ, vì chẳng có tỉ lệ gì giữa sự đạo đức và sự giàu có. Dụ ngôn của Chúa Giêsu rất thực tế: trong đời này, người hiền lành thường như thua thiệt giống Ladarô, còn kẻ ác thì lại như thắng thế giống người phú hộ ích kỷ. Nhưng sự bất công đó chỉ là tạm thời; còn công lý của đời sau thì vĩnh cửu.

Nhưng ngay trong đời này cũng có quá nhiều bằng chứng cho thấy quảng cáo của ma quỷ là dối trá. Những kẻ giàu có, nổi tiếng và quyền lực thường tự sát nhiều hơn những người nghèo. Các thánh vĩ đại thì hạnh phúc hơn những tội nhân lớn. Hãy gặp gỡ giới tinh hoa Hollywood, hay những kẻ cầm đầu các tập đoàn buôn ma túy, buôn người. Rồi hãy đến thăm các Nữ tu Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêsa. Hãy nhìn bằng chứng. 

Hãy là người sống theo thực tế. Hãy thực dụng. Hãy kiểm chứng các “quảng cáo”. Một bên, đây là lối sống bạn có thể đạt được nếu bạn đủ khôn khéo để thỏa mãn lòng tham, dục vọng, và kiêu ngạo của mình. Còn bên kia, đây là Đức Giêsu và các thánh của Người, những người sống tinh thần siêu thoát khỏi lòng tham và của cải, ngay cả khi họ giàu có; những người sống trong tình yêu chứ không phải dục vọng; những người sống trong khiêm nhường vui tươi, quên mình, chứ không phải trong kiêu căng, tự đề cao bản thân. Hai lối sống, hai con đường, hai hướng đi. Mà mục đích của con đường là đưa bạn đến một nơi nào đó. Vậy hai con đường này đưa đến đâu? Như Chúa Giêsu nói trong dụ ngôn, có một vực thẳm lớn ngăn cách giữa hai đích đến. Bạn đang đi trên con đường nào? Nó sẽ đưa bạn về đâu? -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

Tìm kiếm kho tàng trên trời -- Chúa nhật thứ XXV Mùa Thường niên năm C

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được (Luca 16:1-13).

Bạn có quản lý giỏi kho tàng của bạn trên trời không? Và tận lực làm giàu kho tàng đó không?

“Ở đây, Chúa Giê-su dạy chúng ta rằng của cải vật chất – nhìn từ cõi đời đời, không có chút gì quan trọng cả ngoài việc được dùng như một “nơi thử nghiệm.” Việc quản lý cách trung tín với của cải vật chất — bao gồm sự rộng lượng đối với người nghèo — chiếm được cho chúng ta sự ưu ái của Chúa và nhận được sự chúc phúc của cõi đời đời. Và ngược lại, việc sử dụng của cải vật chất để tìm sự dễ dãi cho cuộc sống này, làm tổn hại đến sự tiến triển của đời sống tâm linh. ‘Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.’ Nếu sự giàu có, niềm vui hay quyền lực trong cuộc sống này là thứ bạn đang theo đuổi, thì bạn đã theo nhầm tôn giáo rồi!” – Dr. John Bergsma

-----

“Đây là những gì thánh Augustinô đã nói:

‘Tại sao Chúa Giêsu Kitô trình bày dụ ngôn này cho chúng ta? Chắc chắn Ngài không tán thành trò gian lận của người đầy tớ lừa chủ, ăn trộm từ chủ, và không bù đặp lại từ túi của chính mình.’

Hãy tạm ngưng ở đây. Lưu ý, thánh Augustinô hiểu rõ sự bất công về mặt kinh tế trong dụ ngôn. Ngài nhận ra rằng người quản lý này đang ăn cắp của chủ của mình, thay đổi sổ nợ. Augustine tiếp tục:

‘Hơn thế nữa, anh ta còn ăn cắp vặt nữa. Anh ta đã khiến người chủ của mình mất mát thêm nữa để chuẩn bị cho bản thân một tổ ấm nhỏ yên tĩnh và an ninh khi anh ta mất việc. Tại sao Chúa lại đặt điều này trước mắt chúng ta? Không phải vì người đầy tớ đó [giỏi tài] lừa dối mà bởi vì anh ta đã biết lo liệu trước cho tương lai. Khi ngay cả một kẻ gian lận cũng được khen ngợi về sự khéo léo, thì những Kitô hữu không có gì lưu trữ cho mình phải đỏ mặt. Chúa còn nói, ’Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.’ Họ lừa đảo để đảm bảo tương lai của họ. Người quản gia đó đã tự bảo hiểm kiếp sống nào cho bản thân? ...Anh ta đang tự bảo đảm cho mình một cuộc sống mà sẽ có ngày kết thúc. Bạn sẽ không tìm cách bảo đảm cuộc sống vĩnh cửu cho mình sao?’

Đó là điểm quan trọng. Vì vậy, hãy lưu ý rằng những gì thánh Augustinô nói ở đây là người đầy tớ không được khen ngợi vì sự gian ác của anh ta, anh ta được khen ngợi vì tầm nhìn xa của mình. Điều Chúa Giêsu đang nói là nếu mọi người trên thế giới này đi đến những biện pháp cực đoan để nghĩ đến việc chu cấp cho tương lai của bản thân, thậm chí đến mức ăn cắp, thì các Kitô hữu, cần có những biện pháp cực đoan đến mức nào để chuẩn bị và bảo đảm cho sự sống đời đời của chúng ta, để chúng ta được chào đón vào chốn ở vĩnh cửu, vào vương quốc thiên đàng?

... Bạn đã gửi những khoản tiền nào vào tài khoản ngân hàng trên thiên đàng? Bạn đã nghĩ bao nhiêu về tương lai vĩnh cửu của mình và bạn đang làm gì với của cải thiêng liêng được giao phó cho bạn? Đó là ý của dụ ngôn này. Vì vậy, hình ảnh của người quản lý bất công này là một ấn tượng đáng nhớ để chúng ta biết thức tỉnh và thực sự suy nghĩ đắn đó, không để cho “con cái đời này” thông minh hơn về tương lai trần thế hơn chúng ta là môn đồ của Chúa Giêsu.” – Dr. Brant Pitre

Share:

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

Dùng của cải để có được con người: Chúa Nhật thứ XXV Mùa Thường niên năm C

Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.

Đây có lẽ là giáo huấn then chốt của cả đoạn Tin Mừng này. Thế gian khuyến khích thái độ dùng người để đạt được của cải. Đức Giêsu thì đảo ngược: hãy dùng của cải để có được con người. Nếu việc tiêu tiền và chia sẻ của cải có thể mở lòng người ta đến tình bạn với Hội Thánh và sau cùng là với chính Đức Kitô, thì hãy tiêu tiền, hãy chia sẻ.

Tôn giáo đa thần trong thế giới cổ thường mang tính “nửa ma thuật” để thao túng cõi thiêng (cõi của “các thần”) nhằm có được của cải vật chất. Kitô giáo thì hoàn toàn ngược lại: đó là tôn giáo mà ta hy sinh của cải vật chất để đạt được sự giàu có trong nước trời. Đó cũng là lý do vì sao “thần học phồn vinh” (health and wealth Gospel) là một sự lệch lạc. Thờ phượng Chúa, đọc kinh cầu nguyện để có đời sống an nhàn, sung túc là quay về với ngoại giáo, coi vật chất quan trọng hơn sự giàu có ân sủng. Nó không dẫn đến sự hoán cải thật, bởi chừng nào Đức Giêsu vẫn chỉ là phương tiện để đạt đến mục đích chứ không phải là chính mục đích, thì người đó chưa thực sự là Kitô hữu.

“Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; còn ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải gian dối, thì ai sẽ giao phó cho anh em của cải chân thật? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ giao cho anh em của cải dành riêng cho anh em?”

Việc nhỏ” thường chẳng nhỏ chút nào vì hậu quả có thể rất lớn. Nhiều năm trước, con tàu thăm dò khí hậu sao Hỏa trị giá 136 triệu đô-la (Mars Climate Orbiter) đã bị mất ngay trong chuyến bay đầu tiên vì sự cố kỹ thuật. Nguyên nhân? Nhà thầu Lockheed Martin đã chế tạo thiết bị dùng đơn vị đo lường Anh, trong khi NASA vận hành chỉ bằng hệ mét. Một chi tiết nhỏ — inch so với centimet — đã gây hậu quả to lớn về vật chất, và cũng thế trong đời sống thiêng liêng. Thánh Giusemaría Escrivá từng nói: ngài có thể nhận biết tình trạng linh hồn của một người chỉ bằng cách nhìn bàn làm việc hoặc tủ quần áo của họ. Nội tâm con người được phản ánh nơi những hành động nhỏ nhất. 

Đức Giêsu dạy ở đây rằng của cải vật chất — theo viễn cảnh vĩnh cửu thì chẳng có mấy giá trị — chính là “trường thử thách.” Việc chúng ta trung thành trong quản lý của cải vật chất — bao gồm cả lòng quảng đại với người nghèo — làm đẹp lòng Thiên Chúa và mang lại phúc lành thiêng liêng. Ngược lại, việc hưởng thụ ích kỷ của cải vật chất sẽ làm hại đời sống thiêng liêng.

“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của.”

Người Kitô hữu muốn theo Đức Kitô nhưng vẫn cố gắng đạt cho được “giấc mơ được giàu có” hay “cuộc sống sung túc” thì sẽ chỉ tự đẩy mình vào thất vọng. Nếu mục tiêu của bạn trong đời này là của cải, khoái lạc hay quyền lực, thì bạn đã chọn sai tôn giáo!

Thật đáng buồn, chẳng hạn, khi có những Kitô hữu từng dấn thân làm công tác truyền giáo lúc trẻ, rồi đến trung niên lại cay đắng hoặc bất mãn khi nhận ra mình không có sự giàu sang hay tiện nghi như bạn bè cùng lứa đã đi vào thương trường ngay từ khi tốt nghiệp trung học hay đại học. Thất vọng sẽ xuất hiện khi Kitô hữu đánh mất ao ước lấy Đức Kitô làm trọng tâm của đời mình và bắt đầu khao khát những thú vui hay sự nghiệp xem ra ngoài tầm với hoặc không phù hợp với ơn gọi của đời mình. Cách duy nhất để chữa trị sự thất vọng này là ăn năn sám hối: nhớ lại mình đang phục vụ ai và vì sao, rồi tái cam kết phục vụ Chúa với trọn cả đời mình.

Share:

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Đức Maria: Evà Mới và Mẹ của nhân loại

Đức Maria đã sinh ra Người Con Đầu Lòng của mình cách nhẹ nhàng trong hang Bethlehem; giờ đây Mẹ sinh ra người con thứ hai, Gioan, trong cơn đau đớn của cây Thánh giá. Giờ đây, Mẹ Maria đang chịu đựng những cơn đau khi sinh nở, không chỉ cho người con thứ hai của mình, tức Gioan, mà còn cho hàng triệu người sẽ được sinh ra cho Mẹ trong thời đại Kitô giáo với tư cách là "Những đứa con của Mẹ Maria". Giờ đây, chúng ta có thể hiểu tại sao Chúa Kitô được gọi là "Người Con Đầu Lòng của Mẹ". Không phải vì Mẹ sẽ có những đứa con khác bằng máu thịt, mà vì Mẹ sẽ có những đứa con khác bằng máu của trái tim mình. Thật vậy, Thiên Chúa đã kết án Evà giờ đây lại được tái diễn cho Evà Mới, Đức Maria, vì Mẹ đang sinh ra con cái mình trong đau khổ.

Vì thế, Đức Maria không chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu và là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, mà còn là Mẹ của chúng ta. Và điều này không phải bằng một danh hiệu lịch sự, không phải bằng một sự hư cấu hợp pháp, không phải bằng một cách nói ẩn dụ, mà bằng quyền sinh ra chúng ta trong đau khổ dưới chân Thập Giá. Chính vì sự yếu đuối và bất tuân dưới chân cây biết lành và biết dữ mà Evà đã mất đi danh hiệu mẹ của các sinh linh; chính vì dưới chân cây Thánh giá, Đức Maria đã hy sinh và vâng phục để giành lại cho chúng ta danh hiệu Mẹ của loài người. Thật là một tuyệt vời không thể tưởng khi có Mẹ Thiên Chúa làm Mẹ tôi và Chúa Giêsu làm Anh tôi! – ĐTGM Fulton Sheen, The Seven Last Words

Share:

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Lễ Suy Tôn Thánh Giá: Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống

Lễ Suy Tôn Thánh Giá: Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Dân số 21:4b-9)   

Trong cái nhìn của Kitô giáo, những khó khăn trong cuộc hành trình nơi hoang địa – vốn luôn cám dỗ dân Israel phạm tội – trở thành một dụ ngôn cho đời sống thiêng liêng: chúng ta trên còn đường về trời. Chúng ta biết chắc chắn chúng ta sẽ đi đến nơi, nhưng chúng ta vẫn đối diện với nhiều khó khăn và cám dỗ trên con đường hành trình. Gương xấu của dân Israel mang lại nhiều bài học cảnh tỉnh, những lời cảnh báo chống lại sự bất trung hay thiếu kiên trì trong cuộc chiến rèn luyện thân xác chúng ta.

Tân Ước nhiều lần ám chỉ đến các biến cố trong sách Dân Số. Trong Gioan 6, bài diễn từ về Bánh Hằng Sống, dân chúng “kêu trách” Đức Giêsu, gợi lại cuộc hành trình nơi hoang địa của Israel. Các cuộc nổi loạn tại Massa và Meribah, được nhắc trong Thánh vịnh 95, cũng được nhắc đến ở nhiều nơi khác nhau. Tin Mừng của Thánh lễ hôm này cũng đề cập đến sự kiện trong sách Dân số.
Xét riêng bài đọc hôm nay, ta thấy tội chủ yếu của dân Israel là vô ơn. Dù họ đã được giải thoát khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập và đang được Chúa dưỡng nuôi trong sa mạc trên đường đến miền đất tuyệt vời, họ vẫn than trách về những khó khăn hiện tại: hành trình vất vả, manna thì đơn điệu. Người Kitô hữu chúng ta cũng vậy: dù đã có các bí tích và niềm hy vọng lớn lao được chia sẻ sự sống đời đời với Thiên Chúa, ta vẫn dễ buông theo thói phàn nàn vì những khó chịu trước mắt: tôi cần nhiều tiền hơn, sức khỏe tốt hơn, một hoàn cảnh chính trị khác, v.v. Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ việc thiếu cái nhìn toàn diện, không thấy được bức tranh lớn và sự nhân lành của Thiên Chúa đối với ta từ viễn tượng vĩnh cửu. 

Hình phạt mà Thiên Chúa giáng xuống là sai những rắn lửa đến giữa họ: saraph nghĩa là “cháy bỏng,” giống như các thiên thần rực lửa vây quanh Thiên Chúa và hát ngợi khen Ngài, tức các seraphim. Ta không biết chắc vì sao chúng được gọi là saraph—có lẽ vì vết cắn của chúng bỏng rát, hoặc có lẽ do màu sắc. Dù thế nào đi nữa, chúng nhắc nhớ ta về con rắn trong Vườn Địa Đàng và sức mạnh của sự dữ. Khi ta than trách, ta đánh mất sự bảo vệ của Thiên Chúa và phơi bày mình trước quyền lực của ác thần. 

Dân đã ăn năn, và ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo trên cột, để ai nhìn lên đó thì được chữa lành. Đồng là kim loại sáng lấp lánh, có thể trông giống như ngọn lửa khi ánh mặt trời chiếu vào. Dân nhìn lên hình ảnh chính sự khốn khổ của mình, và hành động ấy lại trở thành ơn cứu độ cho họ. Chúng ta sẽ bàn thêm về nghịch lý này trong phần chú giải Tin Mừng. 

Con rắn đồng mà Môsê làm sau này lại trở thành đối tượng của sự thờ ngẫu tượng và được nhắc đến trong sách Các Vua quyển thứ 2 chương 18:4. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Mass Readings for Solemnities and Feasts

Share:

Trong mọi sự, bạn hãy suy tưởng và kêu cầu Đức Ma-ri-a

 Trích bài giảng ngợi khen Trinh Nữ Ma-ri-a của thánh Bê-na-đô Viện Phụ. 

 Tác giả Tin Mừng nói : Tên của Trinh Nữ là Ma-ri-a. Chúng ta hãy nói đôi lời về danh này, danh được giải thích là “sao biển” và vô cùng thích hợp với Thánh Mẫu Nữ Trinh. Thật vậy, Người được so sánh cách rất hợp lý với một tinh tú, vì cũng như tinh tú phát ra ánh sáng mà bản thân không bị hư hoại, thì Đức Trinh Nữ sinh Con cũng không bị tổn thương gì. Ánh sáng không làm giảm bớt vẻ rạng ngời của tinh tú, thì Người Con cũng không làm giảm bớt sự vẹn tuyền của Đức Trinh Nữ. Vậy chính Người là ngôi sao cao quý xuất hiện từ Gia-cóp, ánh sáng của Người chiếu soi cả vũ trụ, vẻ rạng ngời toả sáng trên trời, thấu tận âm phủ ; khi sáng soi cõi đất và khi sưởi nóng tâm hồn hơn thể xác, ánh sáng này hun đúc nhân đức và tiêu trừ thói xấu. Vâng, chính Người là ngôi sao rạng ngời và xinh đẹp, phải được nâng cao trên đại dương mênh mông này, ngôi sao sáng chói về công trạng và rực rỡ về gương sáng.

Ôi, bất cứ bạn là ai, bạn hiểu rằng bạn đang chao đảo trên biển đời này, giữa phong ba bão táp, chứ không phải là đi trên đất liền, bạn đừng rời mắt không nhìn ánh sáng của ngôi sao này, nếu không muốn bị phong ba vùi dập ! Nếu những cơn cám dỗ như gió bão nổi lên, nếu bạn gặp gian nguy ngàn nỗi, bạn hãy nhìn lên ngôi sao, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Nếu bạn bị lắc lư bởi những làn sóng kiêu ngạo, ham hố, vu khống, ghen tuông, bạn hãy nhìn lên ngôi sao, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Nếu tính giận dữ hay hà tiện, hay bả xác thịt làm chao đảo con thuyền tâm trí bạn, bạn hãy nhìn lên Đức Ma-ri-a. Nếu bị xao xuyến vì những tội ác tầy trời, bị xấu hổ vì sự hôi thối của lương tâm, bị kinh hoàng vì khiếp sợ sự phán xét, mà bạn bắt đầu bị chìm ngập trong hố sâu buồn phiền và vực thẳm thất vọng, thì bạn hãy tưởng nhớ Đức Ma-ri-a. 

Trong gian nguy, trong lo sợ, trong nghi nan, bạn hãy tưởng nhớ Đức Ma-ri-a, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Chớ gì Người không rời khỏi miệng, không rời khỏi lòng bạn và, để bạn được lời cầu nguyện của Người trợ giúp, bạn đừng bỏ qua tấm gương đời sống của Người. Khi theo Người, bạn không trệch đường, khi cầu xin Người, bạn không thất vọng, khi tưởng nhớ đến Người, bạn không lầm lạc ; nếu có Người cầm tay, bạn không vấp ngã, có Người che chở, bạn không sợ hãi, có Người dẫn đường, bạn không vất vả, có Người hỗ trợ, bạn sẽ tới bến, và như vậy, nơi chính mình, bạn sẽ cảm nghiệm cách chí lý biết bao câu nói : Tên của Trinh Nữ là Ma-ri-a.

Share:

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

32 Câu Nói Truyền Cảm Hứng của Thánh Pier Giorgio Frassati

Pier Giorgio Frassati là một vị thánh trẻ của thời đại chúng ta, đã sống một đời sống đầy cảm hứng. Dưới đây là một số những câu nói của thánh nhân. 

Bác ái / Việc từ thiện

1. Trong một thế giới lạc xa Thiên Chúa thì không có bình an, mà cũng thiếu vắng lòng bác ái, tức là tình yêu chân thật và hoàn hảo.

2. Không gì đẹp hơn tình yêu. Thật vậy, đức tin và niềm hy vọng sẽ chấm dứt khi ta chết, còn tình yêu – nghĩa là bác ái – sẽ tồn tại mãi mãi; thậm chí, tôi nghĩ nó sẽ còn sống động hơn nữa trong đời sau!

Giáo Hội

3. Thời đại chúng ta đang trải qua thật khó khăn vì Giáo Hội đang bị bách hại dữ dội. Nhưng các bạn trẻ can đảm và tốt lành đừng sợ điều nhỏ nhặt này; hãy nhớ rằng Giáo Hội là một tổ chức thiêng liêng và không thể chấm dứt. Giáo Hội sẽ tồn tại cho đến ngày tận thế. Cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội.

4. Tôi hy vọng nhờ ơn Chúa, tôi sẽ tiếp tục theo đuổi những lý tưởng Công Giáo này, để một ngày nào đó, theo ý Chúa muốn, tôi có thể bảo tồn và quảng bá những chân lý ấy.

Thánh Thể

5. Chúa Giêsu, vì tình yêu vô biên dành cho nhân loại, đã muốn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, như Đấng An Ủi chúng ta và như Bánh nuôi linh hồn.

6. Khi bạn được bừng cháy hoàn toàn bởi lửa Thánh Thể, bạn sẽ có thể ý thức hơn để tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã gọi bạn trở thành thành viên trong gia đình Ngài.

7.Chúa Giêsu ở cùng tôi. Tôi chẳng có gì phải sợ.

Lời Đàm Tiếu

8. Không cần để tâm đến chuyện đàm tiếu, càng không nên tự làm khổ mình vì những kẻ có lẽ chưa bao giờ biết sự thật là gì.

Hạnh Phúc

9. Hạnh phúc đích thực không nằm trong những thú vui trần thế hay của cải vật chất, mà ở trong bình an lương tâm – điều ta chỉ có được khi tâm hồn và trí óc trong sạch.

10. Mỗi ngày trôi qua, tôi lại say mê núi non hơn nữa… Tôi ngày càng quyết tâm leo núi, chinh phục những đỉnh cao hùng vĩ, để cảm nhận niềm vui trong sáng chỉ có thể tìm thấy trên núi cao.

11. Mỗi ngày tình yêu của tôi dành cho núi non càng lớn mạnh. Nếu việc học cho phép, tôi sẽ dành cả ngày ở núi để chiêm ngắm sự vĩ đại của Đấng Tạo Hóa trong bầu không khí tinh khiết ấy.

12. Thật dại dột cho ai chạy theo thú vui trần thế, bởi chúng luôn chóng qua và mang lại nhiều đau khổ. Niềm vui đích thực duy nhất là niềm vui phát xuất từ đức tin.

13. Một người Công Giáo không thể không vui mừng; sự buồn sầu phải bị loại trừ khỏi tâm hồn. Đau khổ không phải là buồn sầu – vì buồn sầu vốn là căn bệnh tệ hại nhất. Căn bệnh này hầu như luôn bắt nguồn từ vô thần; nhưng cùng đích mà ta được dựng nên dẫn dắt ta trên đường đời, dù có đầy gai góc, nhưng không buồn bã. Ngay cả trong đau khổ, niềm vui vẫn hiện hữu.

Sự Thánh Thiện

14. Chung quanh người bệnh và người nghèo, tôi thấy một ánh sáng đặc biệt mà chúng ta không có.

15, Thật giàu có biết bao khi chúng ta có sức khỏe! Chúng ta có bổn phận đặt sức khỏe của mình để phục vụ cho những người không có nó.

16. Hãy học để mạnh mẽ trong tinh thần hơn là trong cơ bắp. Nếu được như vậy, bạn sẽ là những tông đồ đích thực của niềm tin vào Thiên Chúa.

17. Đức tin mà tôi nhận lãnh khi chịu phép Rửa nói rõ ràng với tôi rằng: một mình bạn sẽ chẳng làm được gì, nhưng nếu bạn lấy Thiên Chúa làm trung tâm mọi hành động của bạn, bạn sẽ đạt được mục đích.

18. Chúng ta phải hy sinh tất cả / mọi sự để có tất cả (theo nghĩa có Chúa là có tất cả): tham vọng của ta, thậm chí toàn bộ bản thân ta, cho lý tưởng của Đức Tin.

19. Sống mà không có đức tin, không có gia sản để bảo vệ, không ngừng chiến đấu cho sự thật – thì chẳng phải là sống, mà chỉ là đi theo dòng đời; ta không bao giờ được phép chỉ đi theo dòng đời.

20. Xin cho bình an ngự trị trong tâm hồn bạn… bất cứ món quà nào khác mà ta sở hữu trong đời này chỉ là phù vân, cũng như tất cả những sự vật trần gian đều phù vân.

Niềm Hy Vọng

21. Khi Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ta chẳng phải sợ bất cứ điều gì.

22. Tôi nghĩ hòa bình còn lâu mới đến. Nhưng đức tin dạy ta rằng ta luôn phải hy vọng rằng một ngày nào đó ta sẽ được tận hưởng nó.

23. Mỗi ngày qua đi, tôi càng xác tín hơn sự xấu xí của thế giới, càng thấy nhiều đau khổ, và thật đáng buồn, người tốt lại thường chịu khổ nhiều nhất. Trong khi đó, chúng ta – những người đã nhận lãnh bao ơn lành của Thiên Chúa – lại đền đáp Chúa cách rất tệ bạc. Thực tại kinh khủng này ám ảnh tâm trí tôi; khi học hành, đôi lúc tôi tự hỏi: liệu tôi có tiếp tục đi đúng đường không? Liệu tôi có đủ sức bền chí đến cùng không? Đối diện với nỗi nghi ngờ này, đức tin mà tôi đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội trấn an tôi: tự sức mình, tôi sẽ chẳng làm được gì, nhưng nếu đặt Thiên Chúa làm trọng tâm mọi hành động, tôi sẽ đạt tới đích.

Cầu Nguyện

24. Trong lời cầu nguyện, linh hồn vượt lên trên những nỗi buồn sầu của cuộc sống.

25. Tôi khẩn xin bạn hãy cầu nguyện cho tôi một chút, để Thiên Chúa ban cho tôi một ý chí sắt đá, không lung lay và không thất bại trong các công trình của Ngài.

Sự quan phòng của Chúa

26. Trong kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa, sự Quan Phòng thần linh thường dùng cả những cành cây nhỏ bé nhất để thực hiện những công việc tốt lành.

Mục Đích

27. Chúng ta, nhờ ơn Thiên Chúa là người Công Giáo, không được phung phí những năm tháng đẹp nhất của đời mình như bao bạn trẻ bất hạnh khác, những người chỉ lo hưởng thụ những điều gọi là tốt đẹp của đời, nhưng thật ra lại là nguồn gốc của sự suy đồi trong xã hội hôm nay.

28. Xã hội hiện đại đang chết chìm trong nỗi đau khổ của đam mê con người và đang xa dần mọi lý tưởng của tình yêu và hòa bình. Người Công Giáo – chúng ta và cả bạn – phải mang lại làn gió tốt lành mà chỉ có thể phát xuất từ niềm tin vào Đức Kitô.

29. Đây là một cuộc chiến khó khăn, nhưng chúng ta phải nỗ lực để chiến thắng và để tìm lại con đường Đa-mát nhỏ bé của mình, hầu tiến bước về đích đến mà tất cả chúng ta phải tới.

Đau Khổ

30. Điều rõ ràng là đức tin là chiếc neo duy nhất của ơn cứu độ và chúng ta phải bám chặt lấy nó: nếu không có đức tin, đời ta sẽ ra sao? Chẳng là gì cả, hay đúng hơn là uổng phí, bởi vì trong đời chỉ có đau khổ, và đau khổ mà không có đức tin thì không thể chịu đựng nổi. Nhưng đau khổ được nuôi dưỡng bởi ngọn lửa đức tin thì trở nên điều tuyệt đẹp, vì nó tôi luyện linh hồn để đối diện với đau khổ.

31. Đời sống chúng ta, để thực sự Kitô hữu, phải là một sự từ bỏ liên lỉ, một sự hy sinh liên lỉ. Nhưng điều này không khó, nếu ta nghĩ rằng những năm ngắn ngủi chịu đau khổ ở đời này chẳng đáng gì so với hạnh phúc vĩnh cửu, nơi niềm vui sẽ không đo lường được và không bao giờ cùng tận, nơi ta sẽ có sự bình an khôn lường.

32. Đức tin giúp chúng ta chịu đựng những gai góc đan xen trong đời sống mình.

Nguồn The Diocese of Westminster Youth Ministry

Share:

Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

Đòi hỏi của người môn đệ của Chúa Giêsu -- Chúa Nhật thứ XXIII Mùa Thường niên, năm C

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Luca 14:25-33)

Nhiều người Kitô hữu sẽ cảm thấy đoạn Phúc âm này quá cực đoan; Chúa Giêsu không cho phép chúng ta thỏa hiệp chút nào. Ngài không cho phép tồn tại hai cấp độ Kitô hữu — những người sẵn sàng từ bỏ và khước từ tất cả, kể cả những điều thân yêu nhất vì danh Đức Ki-tô, không chỉ là toàn bộ tài sản của họ mà còn chính bản thân họ và những người họ yêu thương nhất, gia đình của họ và những người không sẵn sàng. Chúa Giêsu đang nói điều này với người Do Thái — dân tộc trong mọi dân tộc trên thế gian vốn có lòng kính trọng sâu sắc nhất đối với sự thánh thiêng của gia đình và đã từng nhận được mạc khải thiêng liêng về điều đó từ chính Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải rõ ràng về điều này, cũng như người Do Thái và người Hồi giáo. Lời cầu nguyện căn bản nhất của người Do Thái là Shema: “Hỡi Israel, hãy nghe đây! Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, Đức Chúa là duy nhất” (Đnl 6,4). Lời cầu nguyện căn bản nhất của người Hồi giáo, phần đầu của Shahadah (tín điều Hồi giáo), là: “Không có thần linh nào ngoài Thiên Chúa.” Chúa Giêsu cũng nói điều tương tự: rằng điều răn thứ nhất và lớn nhất chính là điều răn thứ nhất và lớn nhất: phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực của bạn; rằng tội đầu tiên và tội tệ hại nhất chính là tội thờ ngẫu tượng — tức là tôn vinh bất cứ điều gì khác ngoài chính Thiên Chúa lên hàng đầu trong đời sống chúng ta, dù điều đó có tốt đẹp, cao cả hay thánh thiện đến đâu.

Trong tâm trí của con người hiện đại, điều này bị coi là “cuồng tín tôn giáo.” Kiểu suy nghĩ này cho rằng: “Tôn giáo là một điều tốt, nhưng đừng làm quá lên.” Nhưng đó chính là điều ma quỷ mong muốn: một chút tôn giáo, nhưng đừng quá nhiều; một liều nhẹ, đủ để trở thành một loại vắc-xin để cho là tôi có tôn giáo. Người theo chủ nghĩa vô thần chân thành, mãnh liệt, là một mối nguy đối với ma quỷ, vì họ đặt câu hỏi về Thiên Chúa vào trọng tâm, dù câu trả lời có thể là sai. Những người vô thần có tỷ lệ hoán cải rất cao. Những tội nhân lớn cũng vậy, vì đam mê của họ, khi được hoán cải, có thể khiến họ trở thành những vị thánh vĩ đại. Việc quay đầu một chiếc xe đang chạy nhanh sai hướng còn dễ hơn là khởi động một chiếc xe đang kẹt cứng.

Bệnh đậu bò là một loại virus rất giống với bệnh đậu mùa, và nó hoạt động như một loại vắc-xin chống lại đậu mùa. Chỉ muốn một chút tôn giáo thì cũng giống như vắc-xin chống lại điều gây chết ngạt cho ma quỷ: vắc-xin chống lại sự trung thành tuyệt đối, vô hạn, không giới hạn, không thương lượng đối với Đức Giêsu Kitô như là Chúa, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ của chúng ta — và là ý nghĩa toàn vẹn của đời sống chúng ta, là niềm hy vọng trọn vẹn cho hạnh phúc và niềm vui của chúng ta.

Chúa Kitô cảnh báo chúng ta chống lại thứ tôn giáo dạng “tiêm phòng”. Lời quảng cáo của Ngài không phải là: “Hãy có thêm Ta vào cuộc sống của con, thêm Ta vào danh sách bạn bè trên Facebook của con.” Nhưng là: “Nếu con muốn theo Ta, con phải sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, bất cứ điều gì vì Ta. Ta chỉ có thể là tất cả hoặc không là gì đối với con, chứ không thể là một điều gì đó giữa các điều.”

Tất nhiên, nếu bạn chọn Ngài làm Chúa tuyệt đối, Ngài sẽ gửi bạn trở về với gia đình bằng tình yêu lớn lao hơn, và có thể trở về với của cải của bạn với sự biết ơn sâu sắc hơn — nhưng cũng với một thái độ dứt bỏ, sẵn sàng từ bỏ chúng nếu Ngài muốn. Bởi vì của cải có thể trở thành thần tượng của bạn, và ngay cả gia đình bạn cũng có thể trở thành thần tượng của bạn (nếu họ chống lại sự hoán cải và lương tâm của bạn, và bạn vâng lời họ thay vì vâng lời Thiên Chúa); và điều đó sẽ làm tổn hại mối quan hệ của bạn với họ, bởi vì nó sẽ trở thành sự lệ thuộc. Thờ ngẫu tượng là một dạng nghiện.

Thật ra, việc bạn từ chối đặt gia đình làm vị thần trên hết của bạn sẽ giải thoát bạn để bạn yêu họ nhiều hơn. Bởi vì mọi sự nghiện ngập, mọi sự thờ ngẫu tượng, mọi sự tôn thờ bất cứ điều gì như Thiên Chúa mà không phải là Thiên Chúa, sẽ luôn tự phá vỡ và hủy hoại chính nó. Nếu bạn đặt điều thứ hai lên trước, bạn sẽ đánh mất không chỉ điều thứ nhất — là Thiên Chúa — mà còn cả điều thứ hai khi bạn biến nó thành thần tượng. Việc tìm kiếm khoái lạc trong ma túy sẽ hủy diệt khoái lạc; nghiện rượu sẽ hủy hoại niềm vui uống rượu; lòng tham sẽ phá hủy niềm vui nhỏ nhoi mà tiền có thể mua; dục vọng ích kỷ sẽ hủy hoại niềm vui lớn lao hơn của tình yêu vô vị lợi; và việc thần tượng hóa bất kỳ người phàm nào, kể cả gia đình, sẽ khiến cái chết của họ trở thành cái chết của Thiên Chúa, cái chết của mọi hy vọng, ý nghĩa và hạnh phúc đối với bạn.

Chúa Giêsu không phải là một bạo chúa; Ngài là nhà tâm lý học vĩ đại nhất thế gian. Ngài biết bí quyết của hạnh phúc và đau khổ, của tự do và nô lệ. Vì lợi ích của chúng ta, Ngài cảnh báo chúng ta đừng thờ lạy các ngẫu tượng, mà ngẫu tượng phổ biến và ẩn giấu nhất chính là bản thân chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thờ chính mình; Ngài tôn thờ Chúa Cha. Các ngôi vị trong Ba Ngôi hoàn toàn vô vị lợi, và Thiên Chúa chỉ yêu cầu chúng ta thực hành những gì chính Ngài thực hành: tình yêu quên mình, tình yêu hiến thân. Chúa Giêsu chỉ giảng điều mà chính Ngài đã thực hành, và Ngài chỉ yêu cầu chúng ta thực hành điều mà chúng ta giảng dạy. Nếu chúng ta rao giảng Chúa Giêsu, nếu chúng ta nói rằng mình là Kitô hữu — thì đây là thỏa thuận: Hãy trao cho Ngài mọi sự. Hãy tin tưởng Ngài trong mọi sự.

Cả đời sống bạn, cái chết, sự tỉnh táo của bạn, hạnh phúc của bạn, hy vọng của bạn cho cuộc đời này và đời sau, đời sống tình dục, tài chính, gia đình, giải trí của bạn, thân xác, trí tuệ bạn, linh hồn, cảm xúc của bạn, tự do, quyền lợi của bạn, thời gian của bạn, quá khứ, hiện tại và tương lai của bạn — hãy trao cho Ngài ngay bây giờ, không điều kiện, không ràng buộc, không chú thích với chữ nhỏ hay chữ in bé. Hãy nói và thực sự muốn rằng: “Xin cho ý Cha được thể hiện,” và sau đó đừng né tránh. Hãy làm điều đó ngay bây giờ, trong vòng sáu mươi giây tới. Tôi thách bạn. Chúa Giêsu cũng thách thức bạn.-- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2025

Các thánh nói: Đừng lãng phí những đau khổ trong đời mình

Mặc dù đau khổ không phải là điều chúng ta mong muốn, nhưng nó có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta khỏi tội lỗi, kết hiệp chúng ta với Chúa Giêsu, và chúng ta có thể dâng hiến nó cho ơn cứu rỗi các linh hồn.

Khi chịu nạn và chịu chết trên thánh giá, Đức Kitô đã đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ: đau khổ giúp chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và liên kết chúng ta với cuộc khổ nạn cứu độ của Người. – GLCG 1505

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lần nói, “Đừng lãng phí những đau khổ trong đời mình”.

Đây là 10 câu nói của các thánh để khích lệ bạn trong những lúc gian nan.

“Đau đớn và sầu khổ đã đến trong đời bạn, nhưng hãy nhớ rằng đau đớn, buồn sầu, khổ cực chỉ là nụ hôn của Chúa Giêsu –  dấu chỉ rằng bạn đã đến gần Ngài đến mức Ngài có thể hôn bạn.” — Thánh Têrêsa Calcutta

Và Chúa nói với tôi: “Con của Cha, con làm Cha hài lòng nhất khi chịu đau khổ. Trong cả thể xác lẫn tinh thần, hỡi con gái Cha, đừng tìm sự cảm thông nơi loài thụ tạo. Cha muốn hương thơm của đau khổ nơi con phải tinh tuyền và không pha tạp. Cha muốn con tách mình ra, không chỉ khỏi loài thụ tạo, mà còn khỏi chính bản thân mình… Con càng yêu mến đau khổ, hỡi con gái Cha, tình yêu của con dành cho Cha càng tinh ròng hơn.” — Nhật ký Thánh Faustina Kowalska: Lòng Thương Xót Chúa trong Linh Hồn Tôi

“Khi tôi chùn bước trước đau khổ, Chúa Giêsu trách tôi và nói rằng Ngài đã không từ chối đau khổ. Khi đó tôi thưa: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin theo ý Chúa chứ không phải ý con’. Cuối cùng tôi xác tín rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm tôi hạnh phúc, và nơi Ngài tôi đặt trọn niềm hy vọng…” — Thánh Gemma Galgani

“Những ai cầu nguyện và chịu đau khổ, cho người khác, sẽ không rực sáng ở trần gian; nhưng trên thiên quốc, biết bao triều thiên huy hoàng họ sẽ đội! ‘Việc tông đồ chịu đau khổ; thật là có phúc!” — Thánh Josemaria Escrivá

“Một thập giá được vác cách đơn sơ, không xen lẫn những quyến luyến bản thân vốn làm phóng đại nỗi khổ, thì không còn là thập giá nữa. Bình an trong đau khổ an thì không còn là đau khổ. Chúng ta than phiền vì đau khổ! Nhưng khi không có sự hiện diện của đau khổ, chúng ta cân phải than phiền nhiều hơn, bởi không gì làm chúng ta giống Chúa hơn là mang Thánh Giá của Ngài. Ôi, biết bao sự hiệp nhất tuyệt đẹp của linh hồn với Chúa Giêsu Kitô nhờ tình yêu và thánh giá Ngài!” — Thánh Gioan Vianney

Những thử thách và gian truân cho chúng ta cơ hội đền bù những lỗi lầm và tội lỗi quá khứ. Trong những dịp ấy, Chúa đến với ta như một lương y để chữa lành các vết thương do tội gây nên. Gian truân chính là liều thuốc thiêng liêng. — Thánh Augustinô thành Hippo

“Đừng nghĩ rằng người đang đau khổ thì không cầu nguyện. Họ đang dâng đau khổ của mình lên Thiên Chúa, và nhiều khi họ cầu nguyện nhiều, cầu nguyện thật, hơn cả người tách mình ra một chỗ để suy niệm, vắt óc suy nghĩ, và nếu có rơi vài giọt lệ thì tưởng như đó là cầu nguyện.” — Thánh Têrêsa Avila

“Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với mình; tôi chỉ biết chắc một điều, rằng Chúa sẽ chẳng bao giờ thất hứa. ‘Đừng sợ, Ta sẽ làm con đau khổ, nhưng Ta cũng sẽ ban cho con sức mạnh để chịu đau khổ,’ Chúa Giêsu liên tục nói với tôi. ‘Ta muốn linh hồn con được thanh luyện và thử thách bằng một cuộc tử đạo âm thầm hằng ngày’… ‘Biết bao lần,’ Chúa Giêsu vừa mới nói với tôi, ‘con sẽ bỏ rơi Ta, con của Ta, nếu Ta đã không đóng đinh con.’” — Thánh Piô Pietrelcina

Niềm hy vọng vào Vương Quốc Thiên Chúa gắn liền với vinh quang khởi nguồn từ Thập Giá Đức Kitô. Chính sự Phục Sinh đã tỏ bày vinh quang ấy – vinh quang cánh chung. … Những ai được thông phần trong đau khổ của Đức Kitô cũng được mời gọi, nhờ đau khổ của chính họ, mà thông phần trong vinh quang.” — Thánh Gioan Phaolô II, Salvifici Doloris

“Con muốn chịu đau khổ và thậm chí vui mừng vì tình yêu, bởi đó là cách tôi rải hoa. Không một bông hoa nào tôi gặp mà cánh hoa của nó lại không được rải cho Chúa; và suốt thời gian ấy con sẽ hát; vâng, luôn hát, ngay cả khi hái hoa hồng giữa những gai góc; gai càng dài, càng nhọn, thì khúc hát của con càng ngọt ngào hơn!” — Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Chuyện Một Tâm Hồn

Nguồn: ChurchPop.com

Share:

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

Điểm mù của lòng đạo đức con người

Hôm nọ nghe bài đọc về ông Gíp-tác đã giữ lời ông hứa với Chúa: “Hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về ĐỨC CHÚA, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Thủ lãnh 11:30-31) vì ông đã được thắng trận. Chẳng may cho ông, người đầu tiên ra đón ông là đứa con gái độc nhất ông có. Lời hứa có vẻ đạo đức đã là một bài học Chúa dùng để dạy ông và dân Chúa: ông đã giết chính đứa con gái duy nhất của ông, nghĩa là Chúa muốn lòng nhân của ta với những người chung quanh. Chúa cần một thời gian rất dài để làm cho dân Chúa có thể hiểu “Ta muốn tình yêu/lòng nhân chứ không cần hy lễ” như Chúa đã phán trong sách ngôn sứ Hô-sê 6:6, khoảng 200 năm sau khi sách Thủ lãnh đã được viết.

Trong Cựu Ước, Chúa không ngay lập tức phán quyết về hành động của ai đó. Chỉ qua một thời gian dài chúng ta nhìn thấy hệ quả của hành động của họ trước đây. Đó là điều hữu ích mình nghe được từ Tiến sĩ Brant Pitre và John Bergsma.

Dr. Brant Pitre đưa ra một ví dụ: khi Chúa gọi Ápbraham, ông đem theo ông Lót vì ông không hoàn toàn tin vào sự tốt lành của Chúa. Chúa thinh lặng và chỉ khi hai người đã chia tay, Chúa lại xuất hiện. Khi Chúa hứa sẽ trao ban cho ông một người con nối dõi, ông lại ăn ở với người đầy tớ của bà Xa-rai và đối xử không công bằng khi đuổi Ha-ga và đứa con trai của bà là Ishmael. Ông “lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt đứa bé lên vai Ha-ga và bắt nàng phải đi” (St 21:14). Ishmael là tổ phụ của người Hồi giáo!

Như ông Gíp-tác, chúng ta cũng có rất nhiều điểm mù trong đời sống thiêng liêng của mình. Điều ông nghĩ là làm vinh danh Chúa, lại là điều làm Chúa buồn lòng.

Như người cha phải dần dần dạy dỗ con mình, Chúa sẽ huấn luyện chúng ta trong cuộc sống. Và hai nhân đức mà sẽ giúp chúng ta vững bước trên con đường huấn luyện này là khiêm nhường và tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Chúa.

Share:

Người được cứu thoát thì nhiều hay ít? Hãy cộng một vào con số đó -- đó là bạn -- CN thứ XXI Mùa Thường niên năm C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (13:22-30)

Khi ấy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26 Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’

“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

 

Các môn đệ có lẽ đã nghĩ thế này: “Chúng ta rất muốn biết cơ hội được lên thiên đàng của mình. Và nếu có ai biết, thì chính là Thầy Giêsu. Hãy hỏi Người ngay kẻo muộn. Biết đâu ta có thể lấy chút ‘thông tin nội bộ’ về tỷ lệ dân số thiên đàng và hỏa ngục. Nếu Người nói 90% được cứu, ta sẽ yên tâm. Nếu Người nói chỉ 10%, ta sẽ lo sợ. Còn nếu Người nói 50%, thì ta sẽ cần cố gắng một chút.”

Thế Đức Giêsu có trả lời câu hỏi đó không? Có phải Người nói rằng phần đông sẽ xuống hỏa ngục và chỉ một số ít lên thiên đàng không? Không. Tại sao vậy? Người có thêm chút thông tin nào về tỷ lệ người thiên đàng hay hoả ngục không? Cũng không. Thực ra, Người không hề trả lời câu hỏi của họ, mà lại chất vấn chính câu hỏi ấy. Người đảo ngược thế cờ, như Người vẫn thường làm khi bị chất vấn. Người nhận ra rằng vấn đề không nằm ở câu hỏi, mà ở chính người hỏi. Các môn đệ đang né tránh câu hỏi thực sự. Câu hỏi thực sự là câu mà người cai ngục thành Philípphê đã hỏi thánh Phaolô: “Tôi phải làm gì để được cứu?” (Cv 16,30). Còn họ lại hỏi một câu khác, một câu về người khác, về “số đông.”

Vậy khi Đức Giêsu nói rằng cửa hẹp và nhiều người muốn vào mà không vào được, Người không đưa ra “thống kê dân số,” vì Người không phải là nhà khoa học, Ngài yêu thương, là bạn hữu, là dung mạo đích thực của Chúa Cha. Khi một người cha mất một trong hai mươi đứa con trong tai nạn, thì một cũng đã là quá nhiều, còn mười chín đứa còn lại cũng là quá ít. Khi kể dụ ngôn con chiên lạc, Đức Giêsu cho thấy mục tử sẵn sàng bỏ lại 99 con chiên tốt để đi tìm 1 con lạc, vì 99 con được cứu là quá ít, và một con mất đi là quá nhiều.

Chúng ta thật sự không biết bao nhiêu người sẽ được cứu. Nhưng mỗi người có thể thay đổi con số đó thêm một, chính mình. Đó là điều Đức Giêsu muốn hướng sự chú ý đến khi nói: “Hãy chiến đấu.” Vì không phải tất cả sẽ được cứu. Có thiên đàng và cũng có hỏa ngục. Giáo huấn của Đức Giêsu về điểm này rất rõ ràng. Chủ trương “mọi người đều sẽ được cứu” (universalism) trái ngược hẳn với lời Người. Để được cứu độ đòi hỏi nỗ lực. Đức tin, cậy, mến đều cần nỗ lực, sự chọn lựa, và việc làm. Sự được cứu độ không là tự động. Bạn không được cấp vé lên thiên đàng chỉ vì bạn chào đời với một khuôn mặt dễ thương và cái nhãn “Made in Heaven” dán sau lưng.

Để nhấn mạnh rằng chúng ta không biết trước “thống kê dân số” đời sau, Đức Giêsu kết thúc bằng lời: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” Ai ngờ được một tên trộm cả đời, có lẽ còn là kẻ sát nhân, lại được Đức Giêsu hứa cho ở cùng Người trên thiên đàng? Ai ngờ được một trong Nhóm Mười Hai lại nghe Đức Giêsu nói: “Thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26,24)? Người đang nói về Giuđa Ítcariốt, vị giám mục Công giáo đầu tiên… nhận tài trợ từ chính quyền.

Vậy nếu bạn tự hỏi người này người kia có được lên thiên đàng không, thì câu trả lời của Đức Giêsu là: “Lo chuyện của mình đi.” Hãy bước cho vững trên con đường chính là con đường của Người. Hãy nhìn lên, đừng nhìn ngang. Nhìn ngang dễ khiến ta ngã khỏi đường hẹp. Đừng đóng vai Thiên Chúa. Bạn không phải là thẩm phán. Hãy tạ ơn Chúa vì bạn không phải là thẩm phán, tôi cũng không, Jonathan Edwards cũng không là thầm phán, Oprah Winfrey cũng không. Điều quan trọng là bạn biết Đấng sẽ xét xử bạn. Bởi vì để được vào nơi ấy, cũng như một số nơi trần gian, điều quan trọng không phải là bạn biết gì mà là bạn quen ai.

Hậu bút: Khi Đức Giêsu nói với những người không được vào: “Ta không biết các ngươi từ đâu đến,” Người muốn nói: “Ta không thấy sự sống của Ta trong linh hồn các ngươi. Các ngươi chưa được tái sinh từ trời cao. Các ngươi chưa trở nên con nuôi của Cha trên trời. Các ngươi chỉ mới được sinh ra một lần, và thế là chưa đủ. Chỉ là con cái cha mẹ dưới đất thì chưa đủ; phải là con cái Cha trên trời nữa. Chỉ có sự sống tự nhiên thì chưa đủ để chịu đựng thiên đàng; cần có sự sống từ trời trong linh hồn. Nếu những gì trong linh hồn ngươi không đến từ trời, thì cũng không thể về trời. Chỉ là một quả trứng tốt thì không đủ. Quả trứng ấy phải nở ra để có cánh và rồi bay.

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive