Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Đức Maria: Evà Mới và Mẹ của nhân loại

Đức Maria đã sinh ra Người Con Đầu Lòng của mình cách nhẹ nhàng trong hang Bethlehem; giờ đây Mẹ sinh ra người con thứ hai, Gioan, trong cơn đau đớn của cây Thánh giá. Giờ đây, Mẹ Maria đang chịu đựng những cơn đau khi sinh nở, không chỉ cho người con thứ hai của mình, tức Gioan, mà còn cho hàng triệu người sẽ được sinh ra cho Mẹ trong thời đại Kitô giáo với tư cách là "Những đứa con của Mẹ Maria". Giờ đây, chúng ta có thể hiểu tại sao Chúa Kitô được gọi là "Người Con Đầu Lòng của Mẹ". Không phải vì Mẹ sẽ có những đứa con khác bằng máu thịt, mà vì Mẹ sẽ có những đứa con khác bằng máu của trái tim mình. Thật vậy, Thiên Chúa đã kết án Evà giờ đây lại được tái diễn cho Evà Mới, Đức Maria, vì Mẹ đang sinh ra con cái mình trong đau khổ.

Vì thế, Đức Maria không chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu và là Đấng Cứu Rỗi của chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, mà còn là Mẹ của chúng ta. Và điều này không phải bằng một danh hiệu lịch sự, không phải bằng một sự hư cấu hợp pháp, không phải bằng một cách nói ẩn dụ, mà bằng quyền sinh ra chúng ta trong đau khổ dưới chân Thập Giá. Chính vì sự yếu đuối và bất tuân dưới chân cây biết lành và biết dữ mà Evà đã mất đi danh hiệu mẹ của các sinh linh; chính vì dưới chân cây Thánh giá, Đức Maria đã hy sinh và vâng phục để giành lại cho chúng ta danh hiệu Mẹ của loài người. Thật là một tuyệt vời không thể tưởng khi có Mẹ Thiên Chúa làm Mẹ tôi và Chúa Giêsu làm Anh tôi! – ĐTGM Fulton Sheen, The Seven Last Words

Share:

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Lễ Suy Tôn Thánh Giá: Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống

Lễ Suy Tôn Thánh Giá: Ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Dân số 21:4b-9)   

Trong cái nhìn của Kitô giáo, những khó khăn trong cuộc hành trình nơi hoang địa – vốn luôn cám dỗ dân Israel phạm tội – trở thành một dụ ngôn cho đời sống thiêng liêng: chúng ta trên còn đường về trời. Chúng ta biết chắc chắn chúng ta sẽ đi đến nơi, nhưng chúng ta vẫn đối diện với nhiều khó khăn và cám dỗ trên con đường hành trình. Gương xấu của dân Israel mang lại nhiều bài học cảnh tỉnh, những lời cảnh báo chống lại sự bất trung hay thiếu kiên trì trong cuộc chiến rèn luyện thân xác chúng ta.

Tân Ước nhiều lần ám chỉ đến các biến cố trong sách Dân Số. Trong Gioan 6, bài diễn từ về Bánh Hằng Sống, dân chúng “kêu trách” Đức Giêsu, gợi lại cuộc hành trình nơi hoang địa của Israel. Các cuộc nổi loạn tại Massa và Meribah, được nhắc trong Thánh vịnh 95, cũng được nhắc đến ở nhiều nơi khác nhau. Tin Mừng của Thánh lễ hôm này cũng đề cập đến sự kiện trong sách Dân số.
Xét riêng bài đọc hôm nay, ta thấy tội chủ yếu của dân Israel là vô ơn. Dù họ đã được giải thoát khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập và đang được Chúa dưỡng nuôi trong sa mạc trên đường đến miền đất tuyệt vời, họ vẫn than trách về những khó khăn hiện tại: hành trình vất vả, manna thì đơn điệu. Người Kitô hữu chúng ta cũng vậy: dù đã có các bí tích và niềm hy vọng lớn lao được chia sẻ sự sống đời đời với Thiên Chúa, ta vẫn dễ buông theo thói phàn nàn vì những khó chịu trước mắt: tôi cần nhiều tiền hơn, sức khỏe tốt hơn, một hoàn cảnh chính trị khác, v.v. Tất cả những điều này đều bắt nguồn từ việc thiếu cái nhìn toàn diện, không thấy được bức tranh lớn và sự nhân lành của Thiên Chúa đối với ta từ viễn tượng vĩnh cửu. 

Hình phạt mà Thiên Chúa giáng xuống là sai những rắn lửa đến giữa họ: saraph nghĩa là “cháy bỏng,” giống như các thiên thần rực lửa vây quanh Thiên Chúa và hát ngợi khen Ngài, tức các seraphim. Ta không biết chắc vì sao chúng được gọi là saraph—có lẽ vì vết cắn của chúng bỏng rát, hoặc có lẽ do màu sắc. Dù thế nào đi nữa, chúng nhắc nhớ ta về con rắn trong Vườn Địa Đàng và sức mạnh của sự dữ. Khi ta than trách, ta đánh mất sự bảo vệ của Thiên Chúa và phơi bày mình trước quyền lực của ác thần. 

Dân đã ăn năn, và ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo trên cột, để ai nhìn lên đó thì được chữa lành. Đồng là kim loại sáng lấp lánh, có thể trông giống như ngọn lửa khi ánh mặt trời chiếu vào. Dân nhìn lên hình ảnh chính sự khốn khổ của mình, và hành động ấy lại trở thành ơn cứu độ cho họ. Chúng ta sẽ bàn thêm về nghịch lý này trong phần chú giải Tin Mừng. 

Con rắn đồng mà Môsê làm sau này lại trở thành đối tượng của sự thờ ngẫu tượng và được nhắc đến trong sách Các Vua quyển thứ 2 chương 18:4. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Mass Readings for Solemnities and Feasts

Share:

Trong mọi sự, bạn hãy suy tưởng và kêu cầu Đức Ma-ri-a

 Trích bài giảng ngợi khen Trinh Nữ Ma-ri-a của thánh Bê-na-đô Viện Phụ. 

 Tác giả Tin Mừng nói : Tên của Trinh Nữ là Ma-ri-a. Chúng ta hãy nói đôi lời về danh này, danh được giải thích là “sao biển” và vô cùng thích hợp với Thánh Mẫu Nữ Trinh. Thật vậy, Người được so sánh cách rất hợp lý với một tinh tú, vì cũng như tinh tú phát ra ánh sáng mà bản thân không bị hư hoại, thì Đức Trinh Nữ sinh Con cũng không bị tổn thương gì. Ánh sáng không làm giảm bớt vẻ rạng ngời của tinh tú, thì Người Con cũng không làm giảm bớt sự vẹn tuyền của Đức Trinh Nữ. Vậy chính Người là ngôi sao cao quý xuất hiện từ Gia-cóp, ánh sáng của Người chiếu soi cả vũ trụ, vẻ rạng ngời toả sáng trên trời, thấu tận âm phủ ; khi sáng soi cõi đất và khi sưởi nóng tâm hồn hơn thể xác, ánh sáng này hun đúc nhân đức và tiêu trừ thói xấu. Vâng, chính Người là ngôi sao rạng ngời và xinh đẹp, phải được nâng cao trên đại dương mênh mông này, ngôi sao sáng chói về công trạng và rực rỡ về gương sáng.

Ôi, bất cứ bạn là ai, bạn hiểu rằng bạn đang chao đảo trên biển đời này, giữa phong ba bão táp, chứ không phải là đi trên đất liền, bạn đừng rời mắt không nhìn ánh sáng của ngôi sao này, nếu không muốn bị phong ba vùi dập ! Nếu những cơn cám dỗ như gió bão nổi lên, nếu bạn gặp gian nguy ngàn nỗi, bạn hãy nhìn lên ngôi sao, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Nếu bạn bị lắc lư bởi những làn sóng kiêu ngạo, ham hố, vu khống, ghen tuông, bạn hãy nhìn lên ngôi sao, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Nếu tính giận dữ hay hà tiện, hay bả xác thịt làm chao đảo con thuyền tâm trí bạn, bạn hãy nhìn lên Đức Ma-ri-a. Nếu bị xao xuyến vì những tội ác tầy trời, bị xấu hổ vì sự hôi thối của lương tâm, bị kinh hoàng vì khiếp sợ sự phán xét, mà bạn bắt đầu bị chìm ngập trong hố sâu buồn phiền và vực thẳm thất vọng, thì bạn hãy tưởng nhớ Đức Ma-ri-a. 

Trong gian nguy, trong lo sợ, trong nghi nan, bạn hãy tưởng nhớ Đức Ma-ri-a, hãy kêu cầu Đức Ma-ri-a. Chớ gì Người không rời khỏi miệng, không rời khỏi lòng bạn và, để bạn được lời cầu nguyện của Người trợ giúp, bạn đừng bỏ qua tấm gương đời sống của Người. Khi theo Người, bạn không trệch đường, khi cầu xin Người, bạn không thất vọng, khi tưởng nhớ đến Người, bạn không lầm lạc ; nếu có Người cầm tay, bạn không vấp ngã, có Người che chở, bạn không sợ hãi, có Người dẫn đường, bạn không vất vả, có Người hỗ trợ, bạn sẽ tới bến, và như vậy, nơi chính mình, bạn sẽ cảm nghiệm cách chí lý biết bao câu nói : Tên của Trinh Nữ là Ma-ri-a.

Share:

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

32 Câu Nói Truyền Cảm Hứng của Thánh Pier Giorgio Frassati

Pier Giorgio Frassati là một vị thánh trẻ của thời đại chúng ta, đã sống một đời sống đầy cảm hứng. Dưới đây là một số những câu nói của thánh nhân. 

Bác ái / Việc từ thiện

1. Trong một thế giới lạc xa Thiên Chúa thì không có bình an, mà cũng thiếu vắng lòng bác ái, tức là tình yêu chân thật và hoàn hảo.

2. Không gì đẹp hơn tình yêu. Thật vậy, đức tin và niềm hy vọng sẽ chấm dứt khi ta chết, còn tình yêu – nghĩa là bác ái – sẽ tồn tại mãi mãi; thậm chí, tôi nghĩ nó sẽ còn sống động hơn nữa trong đời sau!

Giáo Hội

3. Thời đại chúng ta đang trải qua thật khó khăn vì Giáo Hội đang bị bách hại dữ dội. Nhưng các bạn trẻ can đảm và tốt lành đừng sợ điều nhỏ nhặt này; hãy nhớ rằng Giáo Hội là một tổ chức thiêng liêng và không thể chấm dứt. Giáo Hội sẽ tồn tại cho đến ngày tận thế. Cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi Giáo Hội.

4. Tôi hy vọng nhờ ơn Chúa, tôi sẽ tiếp tục theo đuổi những lý tưởng Công Giáo này, để một ngày nào đó, theo ý Chúa muốn, tôi có thể bảo tồn và quảng bá những chân lý ấy.

Thánh Thể

5. Chúa Giêsu, vì tình yêu vô biên dành cho nhân loại, đã muốn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, như Đấng An Ủi chúng ta và như Bánh nuôi linh hồn.

6. Khi bạn được bừng cháy hoàn toàn bởi lửa Thánh Thể, bạn sẽ có thể ý thức hơn để tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã gọi bạn trở thành thành viên trong gia đình Ngài.

7.Chúa Giêsu ở cùng tôi. Tôi chẳng có gì phải sợ.

Lời Đàm Tiếu

8. Không cần để tâm đến chuyện đàm tiếu, càng không nên tự làm khổ mình vì những kẻ có lẽ chưa bao giờ biết sự thật là gì.

Hạnh Phúc

9. Hạnh phúc đích thực không nằm trong những thú vui trần thế hay của cải vật chất, mà ở trong bình an lương tâm – điều ta chỉ có được khi tâm hồn và trí óc trong sạch.

10. Mỗi ngày trôi qua, tôi lại say mê núi non hơn nữa… Tôi ngày càng quyết tâm leo núi, chinh phục những đỉnh cao hùng vĩ, để cảm nhận niềm vui trong sáng chỉ có thể tìm thấy trên núi cao.

11. Mỗi ngày tình yêu của tôi dành cho núi non càng lớn mạnh. Nếu việc học cho phép, tôi sẽ dành cả ngày ở núi để chiêm ngắm sự vĩ đại của Đấng Tạo Hóa trong bầu không khí tinh khiết ấy.

12. Thật dại dột cho ai chạy theo thú vui trần thế, bởi chúng luôn chóng qua và mang lại nhiều đau khổ. Niềm vui đích thực duy nhất là niềm vui phát xuất từ đức tin.

13. Một người Công Giáo không thể không vui mừng; sự buồn sầu phải bị loại trừ khỏi tâm hồn. Đau khổ không phải là buồn sầu – vì buồn sầu vốn là căn bệnh tệ hại nhất. Căn bệnh này hầu như luôn bắt nguồn từ vô thần; nhưng cùng đích mà ta được dựng nên dẫn dắt ta trên đường đời, dù có đầy gai góc, nhưng không buồn bã. Ngay cả trong đau khổ, niềm vui vẫn hiện hữu.

Sự Thánh Thiện

14. Chung quanh người bệnh và người nghèo, tôi thấy một ánh sáng đặc biệt mà chúng ta không có.

15, Thật giàu có biết bao khi chúng ta có sức khỏe! Chúng ta có bổn phận đặt sức khỏe của mình để phục vụ cho những người không có nó.

16. Hãy học để mạnh mẽ trong tinh thần hơn là trong cơ bắp. Nếu được như vậy, bạn sẽ là những tông đồ đích thực của niềm tin vào Thiên Chúa.

17. Đức tin mà tôi nhận lãnh khi chịu phép Rửa nói rõ ràng với tôi rằng: một mình bạn sẽ chẳng làm được gì, nhưng nếu bạn lấy Thiên Chúa làm trung tâm mọi hành động của bạn, bạn sẽ đạt được mục đích.

18. Chúng ta phải hy sinh tất cả / mọi sự để có tất cả (theo nghĩa có Chúa là có tất cả): tham vọng của ta, thậm chí toàn bộ bản thân ta, cho lý tưởng của Đức Tin.

19. Sống mà không có đức tin, không có gia sản để bảo vệ, không ngừng chiến đấu cho sự thật – thì chẳng phải là sống, mà chỉ là đi theo dòng đời; ta không bao giờ được phép chỉ đi theo dòng đời.

20. Xin cho bình an ngự trị trong tâm hồn bạn… bất cứ món quà nào khác mà ta sở hữu trong đời này chỉ là phù vân, cũng như tất cả những sự vật trần gian đều phù vân.

Niềm Hy Vọng

21. Khi Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ta chẳng phải sợ bất cứ điều gì.

22. Tôi nghĩ hòa bình còn lâu mới đến. Nhưng đức tin dạy ta rằng ta luôn phải hy vọng rằng một ngày nào đó ta sẽ được tận hưởng nó.

23. Mỗi ngày qua đi, tôi càng xác tín hơn sự xấu xí của thế giới, càng thấy nhiều đau khổ, và thật đáng buồn, người tốt lại thường chịu khổ nhiều nhất. Trong khi đó, chúng ta – những người đã nhận lãnh bao ơn lành của Thiên Chúa – lại đền đáp Chúa cách rất tệ bạc. Thực tại kinh khủng này ám ảnh tâm trí tôi; khi học hành, đôi lúc tôi tự hỏi: liệu tôi có tiếp tục đi đúng đường không? Liệu tôi có đủ sức bền chí đến cùng không? Đối diện với nỗi nghi ngờ này, đức tin mà tôi đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội trấn an tôi: tự sức mình, tôi sẽ chẳng làm được gì, nhưng nếu đặt Thiên Chúa làm trọng tâm mọi hành động, tôi sẽ đạt tới đích.

Cầu Nguyện

24. Trong lời cầu nguyện, linh hồn vượt lên trên những nỗi buồn sầu của cuộc sống.

25. Tôi khẩn xin bạn hãy cầu nguyện cho tôi một chút, để Thiên Chúa ban cho tôi một ý chí sắt đá, không lung lay và không thất bại trong các công trình của Ngài.

Sự quan phòng của Chúa

26. Trong kế hoạch tuyệt vời của Thiên Chúa, sự Quan Phòng thần linh thường dùng cả những cành cây nhỏ bé nhất để thực hiện những công việc tốt lành.

Mục Đích

27. Chúng ta, nhờ ơn Thiên Chúa là người Công Giáo, không được phung phí những năm tháng đẹp nhất của đời mình như bao bạn trẻ bất hạnh khác, những người chỉ lo hưởng thụ những điều gọi là tốt đẹp của đời, nhưng thật ra lại là nguồn gốc của sự suy đồi trong xã hội hôm nay.

28. Xã hội hiện đại đang chết chìm trong nỗi đau khổ của đam mê con người và đang xa dần mọi lý tưởng của tình yêu và hòa bình. Người Công Giáo – chúng ta và cả bạn – phải mang lại làn gió tốt lành mà chỉ có thể phát xuất từ niềm tin vào Đức Kitô.

29. Đây là một cuộc chiến khó khăn, nhưng chúng ta phải nỗ lực để chiến thắng và để tìm lại con đường Đa-mát nhỏ bé của mình, hầu tiến bước về đích đến mà tất cả chúng ta phải tới.

Đau Khổ

30. Điều rõ ràng là đức tin là chiếc neo duy nhất của ơn cứu độ và chúng ta phải bám chặt lấy nó: nếu không có đức tin, đời ta sẽ ra sao? Chẳng là gì cả, hay đúng hơn là uổng phí, bởi vì trong đời chỉ có đau khổ, và đau khổ mà không có đức tin thì không thể chịu đựng nổi. Nhưng đau khổ được nuôi dưỡng bởi ngọn lửa đức tin thì trở nên điều tuyệt đẹp, vì nó tôi luyện linh hồn để đối diện với đau khổ.

31. Đời sống chúng ta, để thực sự Kitô hữu, phải là một sự từ bỏ liên lỉ, một sự hy sinh liên lỉ. Nhưng điều này không khó, nếu ta nghĩ rằng những năm ngắn ngủi chịu đau khổ ở đời này chẳng đáng gì so với hạnh phúc vĩnh cửu, nơi niềm vui sẽ không đo lường được và không bao giờ cùng tận, nơi ta sẽ có sự bình an khôn lường.

32. Đức tin giúp chúng ta chịu đựng những gai góc đan xen trong đời sống mình.

Nguồn The Diocese of Westminster Youth Ministry

Share:

Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

Đòi hỏi của người môn đệ của Chúa Giêsu -- Chúa Nhật thứ XXIII Mùa Thường niên, năm C

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Luca 14:25-33)

Nhiều người Kitô hữu sẽ cảm thấy đoạn Phúc âm này quá cực đoan; Chúa Giêsu không cho phép chúng ta thỏa hiệp chút nào. Ngài không cho phép tồn tại hai cấp độ Kitô hữu — những người sẵn sàng từ bỏ và khước từ tất cả, kể cả những điều thân yêu nhất vì danh Đức Ki-tô, không chỉ là toàn bộ tài sản của họ mà còn chính bản thân họ và những người họ yêu thương nhất, gia đình của họ và những người không sẵn sàng. Chúa Giêsu đang nói điều này với người Do Thái — dân tộc trong mọi dân tộc trên thế gian vốn có lòng kính trọng sâu sắc nhất đối với sự thánh thiêng của gia đình và đã từng nhận được mạc khải thiêng liêng về điều đó từ chính Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải rõ ràng về điều này, cũng như người Do Thái và người Hồi giáo. Lời cầu nguyện căn bản nhất của người Do Thái là Shema: “Hỡi Israel, hãy nghe đây! Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, Đức Chúa là duy nhất” (Đnl 6,4). Lời cầu nguyện căn bản nhất của người Hồi giáo, phần đầu của Shahadah (tín điều Hồi giáo), là: “Không có thần linh nào ngoài Thiên Chúa.” Chúa Giêsu cũng nói điều tương tự: rằng điều răn thứ nhất và lớn nhất chính là điều răn thứ nhất và lớn nhất: phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực của bạn; rằng tội đầu tiên và tội tệ hại nhất chính là tội thờ ngẫu tượng — tức là tôn vinh bất cứ điều gì khác ngoài chính Thiên Chúa lên hàng đầu trong đời sống chúng ta, dù điều đó có tốt đẹp, cao cả hay thánh thiện đến đâu.

Trong tâm trí của con người hiện đại, điều này bị coi là “cuồng tín tôn giáo.” Kiểu suy nghĩ này cho rằng: “Tôn giáo là một điều tốt, nhưng đừng làm quá lên.” Nhưng đó chính là điều ma quỷ mong muốn: một chút tôn giáo, nhưng đừng quá nhiều; một liều nhẹ, đủ để trở thành một loại vắc-xin để cho là tôi có tôn giáo. Người theo chủ nghĩa vô thần chân thành, mãnh liệt, là một mối nguy đối với ma quỷ, vì họ đặt câu hỏi về Thiên Chúa vào trọng tâm, dù câu trả lời có thể là sai. Những người vô thần có tỷ lệ hoán cải rất cao. Những tội nhân lớn cũng vậy, vì đam mê của họ, khi được hoán cải, có thể khiến họ trở thành những vị thánh vĩ đại. Việc quay đầu một chiếc xe đang chạy nhanh sai hướng còn dễ hơn là khởi động một chiếc xe đang kẹt cứng.

Bệnh đậu bò là một loại virus rất giống với bệnh đậu mùa, và nó hoạt động như một loại vắc-xin chống lại đậu mùa. Chỉ muốn một chút tôn giáo thì cũng giống như vắc-xin chống lại điều gây chết ngạt cho ma quỷ: vắc-xin chống lại sự trung thành tuyệt đối, vô hạn, không giới hạn, không thương lượng đối với Đức Giêsu Kitô như là Chúa, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ của chúng ta — và là ý nghĩa toàn vẹn của đời sống chúng ta, là niềm hy vọng trọn vẹn cho hạnh phúc và niềm vui của chúng ta.

Chúa Kitô cảnh báo chúng ta chống lại thứ tôn giáo dạng “tiêm phòng”. Lời quảng cáo của Ngài không phải là: “Hãy có thêm Ta vào cuộc sống của con, thêm Ta vào danh sách bạn bè trên Facebook của con.” Nhưng là: “Nếu con muốn theo Ta, con phải sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, bất cứ điều gì vì Ta. Ta chỉ có thể là tất cả hoặc không là gì đối với con, chứ không thể là một điều gì đó giữa các điều.”

Tất nhiên, nếu bạn chọn Ngài làm Chúa tuyệt đối, Ngài sẽ gửi bạn trở về với gia đình bằng tình yêu lớn lao hơn, và có thể trở về với của cải của bạn với sự biết ơn sâu sắc hơn — nhưng cũng với một thái độ dứt bỏ, sẵn sàng từ bỏ chúng nếu Ngài muốn. Bởi vì của cải có thể trở thành thần tượng của bạn, và ngay cả gia đình bạn cũng có thể trở thành thần tượng của bạn (nếu họ chống lại sự hoán cải và lương tâm của bạn, và bạn vâng lời họ thay vì vâng lời Thiên Chúa); và điều đó sẽ làm tổn hại mối quan hệ của bạn với họ, bởi vì nó sẽ trở thành sự lệ thuộc. Thờ ngẫu tượng là một dạng nghiện.

Thật ra, việc bạn từ chối đặt gia đình làm vị thần trên hết của bạn sẽ giải thoát bạn để bạn yêu họ nhiều hơn. Bởi vì mọi sự nghiện ngập, mọi sự thờ ngẫu tượng, mọi sự tôn thờ bất cứ điều gì như Thiên Chúa mà không phải là Thiên Chúa, sẽ luôn tự phá vỡ và hủy hoại chính nó. Nếu bạn đặt điều thứ hai lên trước, bạn sẽ đánh mất không chỉ điều thứ nhất — là Thiên Chúa — mà còn cả điều thứ hai khi bạn biến nó thành thần tượng. Việc tìm kiếm khoái lạc trong ma túy sẽ hủy diệt khoái lạc; nghiện rượu sẽ hủy hoại niềm vui uống rượu; lòng tham sẽ phá hủy niềm vui nhỏ nhoi mà tiền có thể mua; dục vọng ích kỷ sẽ hủy hoại niềm vui lớn lao hơn của tình yêu vô vị lợi; và việc thần tượng hóa bất kỳ người phàm nào, kể cả gia đình, sẽ khiến cái chết của họ trở thành cái chết của Thiên Chúa, cái chết của mọi hy vọng, ý nghĩa và hạnh phúc đối với bạn.

Chúa Giêsu không phải là một bạo chúa; Ngài là nhà tâm lý học vĩ đại nhất thế gian. Ngài biết bí quyết của hạnh phúc và đau khổ, của tự do và nô lệ. Vì lợi ích của chúng ta, Ngài cảnh báo chúng ta đừng thờ lạy các ngẫu tượng, mà ngẫu tượng phổ biến và ẩn giấu nhất chính là bản thân chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu cũng không thờ chính mình; Ngài tôn thờ Chúa Cha. Các ngôi vị trong Ba Ngôi hoàn toàn vô vị lợi, và Thiên Chúa chỉ yêu cầu chúng ta thực hành những gì chính Ngài thực hành: tình yêu quên mình, tình yêu hiến thân. Chúa Giêsu chỉ giảng điều mà chính Ngài đã thực hành, và Ngài chỉ yêu cầu chúng ta thực hành điều mà chúng ta giảng dạy. Nếu chúng ta rao giảng Chúa Giêsu, nếu chúng ta nói rằng mình là Kitô hữu — thì đây là thỏa thuận: Hãy trao cho Ngài mọi sự. Hãy tin tưởng Ngài trong mọi sự.

Cả đời sống bạn, cái chết, sự tỉnh táo của bạn, hạnh phúc của bạn, hy vọng của bạn cho cuộc đời này và đời sau, đời sống tình dục, tài chính, gia đình, giải trí của bạn, thân xác, trí tuệ bạn, linh hồn, cảm xúc của bạn, tự do, quyền lợi của bạn, thời gian của bạn, quá khứ, hiện tại và tương lai của bạn — hãy trao cho Ngài ngay bây giờ, không điều kiện, không ràng buộc, không chú thích với chữ nhỏ hay chữ in bé. Hãy nói và thực sự muốn rằng: “Xin cho ý Cha được thể hiện,” và sau đó đừng né tránh. Hãy làm điều đó ngay bây giờ, trong vòng sáu mươi giây tới. Tôi thách bạn. Chúa Giêsu cũng thách thức bạn.-- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2025

Các thánh nói: Đừng lãng phí những đau khổ trong đời mình

Mặc dù đau khổ không phải là điều chúng ta mong muốn, nhưng nó có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta khỏi tội lỗi, kết hiệp chúng ta với Chúa Giêsu, và chúng ta có thể dâng hiến nó cho ơn cứu rỗi các linh hồn.

Khi chịu nạn và chịu chết trên thánh giá, Đức Kitô đã đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ: đau khổ giúp chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và liên kết chúng ta với cuộc khổ nạn cứu độ của Người. – GLCG 1505

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II có lần nói, “Đừng lãng phí những đau khổ trong đời mình”.

Đây là 10 câu nói của các thánh để khích lệ bạn trong những lúc gian nan.

“Đau đớn và sầu khổ đã đến trong đời bạn, nhưng hãy nhớ rằng đau đớn, buồn sầu, khổ cực chỉ là nụ hôn của Chúa Giêsu –  dấu chỉ rằng bạn đã đến gần Ngài đến mức Ngài có thể hôn bạn.” — Thánh Têrêsa Calcutta

Và Chúa nói với tôi: “Con của Cha, con làm Cha hài lòng nhất khi chịu đau khổ. Trong cả thể xác lẫn tinh thần, hỡi con gái Cha, đừng tìm sự cảm thông nơi loài thụ tạo. Cha muốn hương thơm của đau khổ nơi con phải tinh tuyền và không pha tạp. Cha muốn con tách mình ra, không chỉ khỏi loài thụ tạo, mà còn khỏi chính bản thân mình… Con càng yêu mến đau khổ, hỡi con gái Cha, tình yêu của con dành cho Cha càng tinh ròng hơn.” — Nhật ký Thánh Faustina Kowalska: Lòng Thương Xót Chúa trong Linh Hồn Tôi

“Khi tôi chùn bước trước đau khổ, Chúa Giêsu trách tôi và nói rằng Ngài đã không từ chối đau khổ. Khi đó tôi thưa: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin theo ý Chúa chứ không phải ý con’. Cuối cùng tôi xác tín rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm tôi hạnh phúc, và nơi Ngài tôi đặt trọn niềm hy vọng…” — Thánh Gemma Galgani

“Những ai cầu nguyện và chịu đau khổ, cho người khác, sẽ không rực sáng ở trần gian; nhưng trên thiên quốc, biết bao triều thiên huy hoàng họ sẽ đội! ‘Việc tông đồ chịu đau khổ; thật là có phúc!” — Thánh Josemaria Escrivá

“Một thập giá được vác cách đơn sơ, không xen lẫn những quyến luyến bản thân vốn làm phóng đại nỗi khổ, thì không còn là thập giá nữa. Bình an trong đau khổ an thì không còn là đau khổ. Chúng ta than phiền vì đau khổ! Nhưng khi không có sự hiện diện của đau khổ, chúng ta cân phải than phiền nhiều hơn, bởi không gì làm chúng ta giống Chúa hơn là mang Thánh Giá của Ngài. Ôi, biết bao sự hiệp nhất tuyệt đẹp của linh hồn với Chúa Giêsu Kitô nhờ tình yêu và thánh giá Ngài!” — Thánh Gioan Vianney

Những thử thách và gian truân cho chúng ta cơ hội đền bù những lỗi lầm và tội lỗi quá khứ. Trong những dịp ấy, Chúa đến với ta như một lương y để chữa lành các vết thương do tội gây nên. Gian truân chính là liều thuốc thiêng liêng. — Thánh Augustinô thành Hippo

“Đừng nghĩ rằng người đang đau khổ thì không cầu nguyện. Họ đang dâng đau khổ của mình lên Thiên Chúa, và nhiều khi họ cầu nguyện nhiều, cầu nguyện thật, hơn cả người tách mình ra một chỗ để suy niệm, vắt óc suy nghĩ, và nếu có rơi vài giọt lệ thì tưởng như đó là cầu nguyện.” — Thánh Têrêsa Avila

“Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với mình; tôi chỉ biết chắc một điều, rằng Chúa sẽ chẳng bao giờ thất hứa. ‘Đừng sợ, Ta sẽ làm con đau khổ, nhưng Ta cũng sẽ ban cho con sức mạnh để chịu đau khổ,’ Chúa Giêsu liên tục nói với tôi. ‘Ta muốn linh hồn con được thanh luyện và thử thách bằng một cuộc tử đạo âm thầm hằng ngày’… ‘Biết bao lần,’ Chúa Giêsu vừa mới nói với tôi, ‘con sẽ bỏ rơi Ta, con của Ta, nếu Ta đã không đóng đinh con.’” — Thánh Piô Pietrelcina

Niềm hy vọng vào Vương Quốc Thiên Chúa gắn liền với vinh quang khởi nguồn từ Thập Giá Đức Kitô. Chính sự Phục Sinh đã tỏ bày vinh quang ấy – vinh quang cánh chung. … Những ai được thông phần trong đau khổ của Đức Kitô cũng được mời gọi, nhờ đau khổ của chính họ, mà thông phần trong vinh quang.” — Thánh Gioan Phaolô II, Salvifici Doloris

“Con muốn chịu đau khổ và thậm chí vui mừng vì tình yêu, bởi đó là cách tôi rải hoa. Không một bông hoa nào tôi gặp mà cánh hoa của nó lại không được rải cho Chúa; và suốt thời gian ấy con sẽ hát; vâng, luôn hát, ngay cả khi hái hoa hồng giữa những gai góc; gai càng dài, càng nhọn, thì khúc hát của con càng ngọt ngào hơn!” — Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Chuyện Một Tâm Hồn

Nguồn: ChurchPop.com

Share:

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

Điểm mù của lòng đạo đức con người

Hôm nọ nghe bài đọc về ông Gíp-tác đã giữ lời ông hứa với Chúa: “Hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về ĐỨC CHÚA, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu” (Thủ lãnh 11:30-31) vì ông đã được thắng trận. Chẳng may cho ông, người đầu tiên ra đón ông là đứa con gái độc nhất ông có. Lời hứa có vẻ đạo đức đã là một bài học Chúa dùng để dạy ông và dân Chúa: ông đã giết chính đứa con gái duy nhất của ông, nghĩa là Chúa muốn lòng nhân của ta với những người chung quanh. Chúa cần một thời gian rất dài để làm cho dân Chúa có thể hiểu “Ta muốn tình yêu/lòng nhân chứ không cần hy lễ” như Chúa đã phán trong sách ngôn sứ Hô-sê 6:6, khoảng 200 năm sau khi sách Thủ lãnh đã được viết.

Trong Cựu Ước, Chúa không ngay lập tức phán quyết về hành động của ai đó. Chỉ qua một thời gian dài chúng ta nhìn thấy hệ quả của hành động của họ trước đây. Đó là điều hữu ích mình nghe được từ Tiến sĩ Brant Pitre và John Bergsma.

Dr. Brant Pitre đưa ra một ví dụ: khi Chúa gọi Ápbraham, ông đem theo ông Lót vì ông không hoàn toàn tin vào sự tốt lành của Chúa. Chúa thinh lặng và chỉ khi hai người đã chia tay, Chúa lại xuất hiện. Khi Chúa hứa sẽ trao ban cho ông một người con nối dõi, ông lại ăn ở với người đầy tớ của bà Xa-rai và đối xử không công bằng khi đuổi Ha-ga và đứa con trai của bà là Ishmael. Ông “lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga. Ông đặt đứa bé lên vai Ha-ga và bắt nàng phải đi” (St 21:14). Ishmael là tổ phụ của người Hồi giáo!

Như ông Gíp-tác, chúng ta cũng có rất nhiều điểm mù trong đời sống thiêng liêng của mình. Điều ông nghĩ là làm vinh danh Chúa, lại là điều làm Chúa buồn lòng.

Như người cha phải dần dần dạy dỗ con mình, Chúa sẽ huấn luyện chúng ta trong cuộc sống. Và hai nhân đức mà sẽ giúp chúng ta vững bước trên con đường huấn luyện này là khiêm nhường và tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu Chúa.

Share:

Người được cứu thoát thì nhiều hay ít? Hãy cộng một vào con số đó -- đó là bạn -- CN thứ XXI Mùa Thường niên năm C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (13:22-30)

Khi ấy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

“Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26 Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’

“Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

 

Các môn đệ có lẽ đã nghĩ thế này: “Chúng ta rất muốn biết cơ hội được lên thiên đàng của mình. Và nếu có ai biết, thì chính là Thầy Giêsu. Hãy hỏi Người ngay kẻo muộn. Biết đâu ta có thể lấy chút ‘thông tin nội bộ’ về tỷ lệ dân số thiên đàng và hỏa ngục. Nếu Người nói 90% được cứu, ta sẽ yên tâm. Nếu Người nói chỉ 10%, ta sẽ lo sợ. Còn nếu Người nói 50%, thì ta sẽ cần cố gắng một chút.”

Thế Đức Giêsu có trả lời câu hỏi đó không? Có phải Người nói rằng phần đông sẽ xuống hỏa ngục và chỉ một số ít lên thiên đàng không? Không. Tại sao vậy? Người có thêm chút thông tin nào về tỷ lệ người thiên đàng hay hoả ngục không? Cũng không. Thực ra, Người không hề trả lời câu hỏi của họ, mà lại chất vấn chính câu hỏi ấy. Người đảo ngược thế cờ, như Người vẫn thường làm khi bị chất vấn. Người nhận ra rằng vấn đề không nằm ở câu hỏi, mà ở chính người hỏi. Các môn đệ đang né tránh câu hỏi thực sự. Câu hỏi thực sự là câu mà người cai ngục thành Philípphê đã hỏi thánh Phaolô: “Tôi phải làm gì để được cứu?” (Cv 16,30). Còn họ lại hỏi một câu khác, một câu về người khác, về “số đông.”

Vậy khi Đức Giêsu nói rằng cửa hẹp và nhiều người muốn vào mà không vào được, Người không đưa ra “thống kê dân số,” vì Người không phải là nhà khoa học, Ngài yêu thương, là bạn hữu, là dung mạo đích thực của Chúa Cha. Khi một người cha mất một trong hai mươi đứa con trong tai nạn, thì một cũng đã là quá nhiều, còn mười chín đứa còn lại cũng là quá ít. Khi kể dụ ngôn con chiên lạc, Đức Giêsu cho thấy mục tử sẵn sàng bỏ lại 99 con chiên tốt để đi tìm 1 con lạc, vì 99 con được cứu là quá ít, và một con mất đi là quá nhiều.

Chúng ta thật sự không biết bao nhiêu người sẽ được cứu. Nhưng mỗi người có thể thay đổi con số đó thêm một, chính mình. Đó là điều Đức Giêsu muốn hướng sự chú ý đến khi nói: “Hãy chiến đấu.” Vì không phải tất cả sẽ được cứu. Có thiên đàng và cũng có hỏa ngục. Giáo huấn của Đức Giêsu về điểm này rất rõ ràng. Chủ trương “mọi người đều sẽ được cứu” (universalism) trái ngược hẳn với lời Người. Để được cứu độ đòi hỏi nỗ lực. Đức tin, cậy, mến đều cần nỗ lực, sự chọn lựa, và việc làm. Sự được cứu độ không là tự động. Bạn không được cấp vé lên thiên đàng chỉ vì bạn chào đời với một khuôn mặt dễ thương và cái nhãn “Made in Heaven” dán sau lưng.

Để nhấn mạnh rằng chúng ta không biết trước “thống kê dân số” đời sau, Đức Giêsu kết thúc bằng lời: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” Ai ngờ được một tên trộm cả đời, có lẽ còn là kẻ sát nhân, lại được Đức Giêsu hứa cho ở cùng Người trên thiên đàng? Ai ngờ được một trong Nhóm Mười Hai lại nghe Đức Giêsu nói: “Thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26,24)? Người đang nói về Giuđa Ítcariốt, vị giám mục Công giáo đầu tiên… nhận tài trợ từ chính quyền.

Vậy nếu bạn tự hỏi người này người kia có được lên thiên đàng không, thì câu trả lời của Đức Giêsu là: “Lo chuyện của mình đi.” Hãy bước cho vững trên con đường chính là con đường của Người. Hãy nhìn lên, đừng nhìn ngang. Nhìn ngang dễ khiến ta ngã khỏi đường hẹp. Đừng đóng vai Thiên Chúa. Bạn không phải là thẩm phán. Hãy tạ ơn Chúa vì bạn không phải là thẩm phán, tôi cũng không, Jonathan Edwards cũng không là thầm phán, Oprah Winfrey cũng không. Điều quan trọng là bạn biết Đấng sẽ xét xử bạn. Bởi vì để được vào nơi ấy, cũng như một số nơi trần gian, điều quan trọng không phải là bạn biết gì mà là bạn quen ai.

Hậu bút: Khi Đức Giêsu nói với những người không được vào: “Ta không biết các ngươi từ đâu đến,” Người muốn nói: “Ta không thấy sự sống của Ta trong linh hồn các ngươi. Các ngươi chưa được tái sinh từ trời cao. Các ngươi chưa trở nên con nuôi của Cha trên trời. Các ngươi chỉ mới được sinh ra một lần, và thế là chưa đủ. Chỉ là con cái cha mẹ dưới đất thì chưa đủ; phải là con cái Cha trên trời nữa. Chỉ có sự sống tự nhiên thì chưa đủ để chịu đựng thiên đàng; cần có sự sống từ trời trong linh hồn. Nếu những gì trong linh hồn ngươi không đến từ trời, thì cũng không thể về trời. Chỉ là một quả trứng tốt thì không đủ. Quả trứng ấy phải nở ra để có cánh và rồi bay.

Share:

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

Khiêm nhường để quên mình trong tình yêu: Chúa Nhật thứ XXII Mùa Thường niên, năm C

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (14:1;7-14)

Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa : họ cố dò xét Người.

Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc : vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”

-------------

Có phải Chúa Giêsu có đang đưa ra một lời khuyên về cách leo cầu thang danh vọng trong xã hội không? Đây là lời khuyên hay, nhưng tại sao Người lại làm như vậy? Tại sao Người lại khuyến khích sự leo cao trong xã hội? Đó là một hình thức của tính ích kỷ tự cao, mà Chúa Giêsu thì không đề cao cái tôi—Người đề cao sự khiêm nhường.

... Người Pharisêu đã mời Chúa có lẽ là một kẻ đầy kiêu ngạo và tự cao, một kẻ duy luật, giống như người Pharisêu trong dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Vậy Chúa Giêsu đang làm gì ở đây? Người hạ mình xuống tận mức của người Pharisêu ấy và chỉ ra rằng ngay cả trên cái mức thấp kém, vị kỷ, toan tính và ích kỷ đó, thì sự khiêm nhường vẫn nâng con người lên, còn kiêu ngạo thì dẫn đến sụp đổ.

Vậy thực sự có bốn cấp độ khôn ngoan trong câu chuyện này.

  • Thấp nhất là người Pharisêu ngu dại, kẻ tự cao phô bày lòng mình bằng cách chọn chỗ cao nhất.
  • Kế đến là người Pharisêu khôn khéo, toan tính, cũng đầy tự cao, nhưng che giấu lòng mình, giả vờ khiêm nhường chỉ để được phần thưởng lớn hơn và chỗ cao hơn ở đời này.
  • Thứ ba là người Pharisêu còn khôn khéo và toan tính hơn, cũng giả vờ khiêm nhường, nhưng không phải để được thưởng ở đời này, mà để được thưởng ở đời sau. Điều đó tốt hơn nhưng chưa phải tốt nhất; khôn ngoan hơn nhưng chưa phải khôn ngoan nhất.

- Cấp độ thấp nhất là làm điều sai (ích kỷ) vì lý do sai (ích kỷ).
- Cấp độ hai là làm điều đúng (vị tha) nhưng vì lý do sai (ích kỷ).
- Cấp độ ba cũng là làm điều đúng vì lý do sai, nhưng ở đây cái lý do sai là ích kỷ, không phải trong đời này mà trong đời sau.
- Và cấp độ bốn là làm điều đúng vì lý do đúng.

Thiên Chúa hiểu chúng ta đang ở đâu và muốn đưa tất cả chúng ta tiến lên, thường là từng bước một. Người muốn đưa ta đến mức cao nhất, vì Người thật sự yêu thương ta và muốn ta hưởng niềm vui cao cả nhất, vốn chỉ có trên mức cao nhất đó. Nếu đó là điều ta thực sự tìm kiếm, Người hứa rằng ta sẽ gặp được: “Phúc thay ai khao khát và đói khát sự công chính [sự công chính thật, tức tình yêu thật, tình yêu vị tha], vì họ sẽ được no thỏa.” Đó cũng là lý do có luyện ngục: để biến ta thành các thánh có khả năng chứa đựng nhiều niềm vui hơn.

Tình yêu của Thiên Chúa là công bằng: Người đáp lại tình yêu bằng tình yêu. Nơi Người hoàn toàn không có sự khác biệt giữa công bằng và tình yêu.

... Nhưng Thiên Chúa luôn thấy thấu lòng bạn, và luôn ban cho ta phần thưởng xứng hợp. Nếu điều ta khao khát là chính Người, và là chính điều Người là—tức tình yêu vị tha—thì ta sẽ nhận được điều đó. Nếu điều ta khao khát không phải là Thiên Chúa mà chỉ là chính mình, ta cũng sẽ nhận được điều ấy. Nếu ta quên mình trong tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân, ta sẽ tìm thấy chính mình và niềm vui của mình. Nhưng nếu ta quên Thiên Chúa và tìm cách tìm lại bản thân mình, ta sẽ chẳng tìm thấy cả hai. Bí mật của căn tính chúng ta nằm nơi Đấng Tạo Hóa và Thiết Kế chúng ta. Làm sao Hamlet có thể tìm thấy căn tính của mình ngoài Shakespeare?

Sự khác biệt giữa quên mình và quên Thiên Chúa chính là sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Đức Maria: gương mẫu cho hành trình đức tin

Người phải chịu đau khổ nhiều, bị loại bỏ, bị giết, và sống lại, như Người đã nói với các môn đệ sau lời tuyên xưng của Phêrô.” (x. Mác-cô 8:31).

“Ngay từ giờ phút ban đầu này, Đức Giêsu đã bị ràng buộc bởi chữ ‘phải’: Người phải ở cùng Chúa Cha, và nhờ vậy điều tưởng như bất tuân hay tự do không thích hợp đối với cha mẹ Người, thực ra lại là biểu hiện đích thực của sự vâng phục con thảo. Người ở trong Đền Thờ không phải như một kẻ chống lại cha mẹ mình, nhưng chính là với tư cách của người con vâng phục, diễn tả cùng một sự vâng phục sẽ dẫn đến Thập giá và Phục sinh. Thánh Luca mô tả phản ứng của Maria và Giuse trước lời Chúa Giêsu bằng hai câu: ‘Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói’ và ‘mẹ Người thì ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Luca 2:19;50-51). Lời Chúa Giêsu lúc ấy vượt quá tầm hiểu biết cho thời điểm đó.

Ngay cả đức tin của Đức Maria cũng là một đức tin đang trong một cuộc “hành trình”, một đức tin nhiều lần chìm trong bóng tối và phải trưởng thành nhờ kiên vững đi qua bóng tối ấy. Mẹ Maria không hiểu lời Chúa Giêsu nói, nhưng Mẹ ghi nhớ trong lòng và để cho lời ấy dần dần lớn lên và chín mùi nơi đó.

Hết lần này đến lần khác, lời Chúa Giêsu vượt quá sức hiểu của lý trí chúng ta. Hết lần này đến lần khác, chúng vượt quá khả năng lĩnh hội của chúng ta. Cám dỗ để thu nhỏ, uốn nắn những lời ấy theo tiêu chuẩn riêng của ta là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, một sự giải thích Kinh Thánh đúng đắn đòi hỏi nơi ta lòng khiêm nhường để giữ nguyên sự cao cả ấy, vốn thường làm ta quá sức, chứ không thu hẹp lời Chúa Giêsu bằng cách hỏi rằng chúng ta có thể tin Người đến mức nào. Chính Người tin chúng ta hoàn toàn. Tin có nghĩa là chấp nhận sự cao cả ấy và từ từ lớn lên trong đó.

Trong đoạn này, Luca đã rất ý thức khi trình bày Đức Maria như mẫu gương của người tin: ‘Phúc cho em là kẻ đã tin rằng những gì Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện’, như bà Êlisabét đã nói (Lc 1:45). Với chi tiết được nhắc lại hai lần trong các trình thuật thời thơ ấu—rằng Đức Maria ghi nhớ mọi điều trong lòng (x. Lc 2:19.51)—Luca muốn chỉ ra nguồn mà ngài đã dựa vào để viết tường thuật của mình. Đồng thời, Đức Maria không chỉ hiện lên như người tín hữu vĩ đại, mà còn như hình ảnh của Hội Thánh, Đấng giữ Lời Chúa trong lòng và trao ban cho người khác.” – ĐTC Benedictô XVI, Giêsu Thành Nazareth, Tập 2

Share:

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Mầu nhiệm các thánh thông công: Chúng ta không cô đơn

Thưa anh em, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. (Híp-ri 12:1-2)

Chương 11 của thư gửi tín hữu Do Thái là một bản tóm tắt về các anh hùng đức tin trong lịch sử Cựu Ước, khởi đầu với tổ phụ Ápraham. Đây giống như phiên bản “Hạnh Các Thánh” trong Công giáo trong Do thái giáo. Và giờ đây, sau câu chuyện đầy ấn tượng ấy, chúng ta được nói rằng câu chuyện ấy vẫn tiếp tục với chính chúng ta, rằng chúng ta đang ở trong cùng một câu chuyện, và rằng những anh hùng đã qua đời ấy thật ra không hề chết, mà đang sống và dõi theo chúng ta! Chúng ta đang được “bao quanh bởi đám mây nhân chứng lớn lao,” như những vận động viên thi đấu trên sân vận động, được hàng ngàn khán giả theo dõi và cổ vũ. Hãy tưởng tượng cảm giác của bạn sẽ thế nào nếu đang chạy một mình trên đường đua trong sân vận động, rồi bất ngờ thấy hàng ngàn khán giả trên khán đài reo hò cổ vũ bạn. Đó chính là cảm giác chúng ta nên có khi đọc câu Kinh Thánh này. Chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng chúng ta đang được bao quanh bởi đám đông các nhân chứng đang dõi theo. Họ là các thánh, bao gồm cả tổ tiên trung tín của chúng ta. Cha mẹ và ông bà chúng ta đang ở hàng ghế đầu, tự hào về từng bước tốt lành chúng ta đi, và cầu nguyện cho chúng ta. Các thánh mà chúng ta cầu khẩn thực sự nghe lời chúng ta và thật sự cầu thay cho chúng ta. Đây không chỉ là một ý tưởng an ủi dễ thương, mà là một tín điều của đức tin Công giáo.

Sự hiệp thông của các thánh / Mầu nhiệm các thánh thông công là một trong mười hai điều khoản đức tin được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Các Thánh Tông Đồ. Chúng ta đang tương tác không chỉ với những người đương thời, những người còn sống cùng chúng ta trên trần gian, mà còn với những người đã “qua đời” nhưng thực ra đang sống trên thiên đàng. Khi bạn lên thiên đàng, bạn có nghĩ rằng mình sẽ thôi quan tâm đến gia đình và bạn bè còn ở trần gian không? Và sự quan tâm đó chẳng phải cũng sẽ vượt ra ngoài phạm vi gia đình, bạn bè thân thiết, để đến với mọi người trong Thân Thể Đức Kitô sao?

Trong Chúa tể các chiếc nhẫn, hai người hobbit anh hùng là Frodo và Sam đang gánh vác nhiệm vụ nguy hiểm mang chiếc nhẫn đầy gian ác đi tiêu hủy, và họ suy ngẫm về các anh hùng trong lịch sử của mình – những người từng trải qua những cuộc hành trình đầy hiểm nguy tương tự – rồi họ nhận ra rằng mình đang sở hữu một báu vật từ thuở xa xưa: một lọ ánh sáng từ buổi bình minh của thời đại họ, ánh sáng soi đường và chống lại bóng tối.. Và bất chợt, họ nhận ra rằng mình đang ở trong cùng một câu chuyện với các bậc tiền nhân vĩ đại, rằng quá khứ không chết, rằng họ đang tiếp tục chuyến chạy tiếp sức của những anh hùng xưa. Thay vì nhìn lịch sử như một câu chuyện đã chết, chỉ còn để đọc trong sách, họ nhận ra rằng mình đang ở trong cuốn sách, đang sống trong câu chuyện ấy. Không còn ranh giới giữa câu chuyện của quá khứ và câu chuyện của hiện tại: đó chỉ là một câu chuyện duy nhất.

Hãy giả sử bạn bất ngờ nhìn thấy nhiều đôi mắt đang nhìn bạn qua khung cửa sổ căn phòng bạn đang ở. Điều đó có khiến bạn cảm thấy khác đi và hành động khác đi không? Chắc chắn là có. Và đôi mắt của đức tin có thể nhìn thấy những ánh mắt ấy. Chúng có thật. Chúng ta không cô đơn.

Vậy thì sao? Vậy thì hãy kiên trì, hãy chạy hết đường đua, đừng bỏ cuộc, đừng làm thất vọng người cha, người mẹ, ông, bà, người bạn quý mến, những người đang cổ vũ bạn từ thiên đàng như họ đã làm khi còn ở trần thế. Và đừng làm thất vọng Cha trên trời, Đấng cũng là Cha của bạn thật sự và trọn vẹn không kém gì những người cha trần thế. Hãy nhớ ai đang dõi theo bạn: tất cả những người từng biết bạn, cùng toàn thể thiên thần và các thánh, cũng như Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Thật là một khán giả hùng hậu! Bạn đang có sự vinh quang, danh dự, và tiếng tăm nơi đó còn hơn bất kỳ ai có thể có ở đời này. Đừng quên những ánh mắt ngoài cửa sổ, đừng quên những tiếng reo hò từ khán đài. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2025

Thầy không đến để ban hoà bình, nhưng là đem sự chia rẽ: CN XX Mùa thường niên, năm C

Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. (câu 51 của đoạn Luca 12:49-53)

Tin Mừng hôm nay thật gây sốc. Đức Giêsu, Hoàng Tử Bình An, lại nói rằng Ngài đến trần gian không phải để mang bình an, mà là đem sự chia rẽ và chiến tranh, thậm chí ngay trong gia đình. Một trong những điều Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ sau khi sống lại là Ngài để lại cho họ món quà bình an của Ngài. Bình an và chiến tranh là hai điều trái ngược. Làm sao Đức Giêsu lại là cội nguồn của cả hai thực tại ấy?

Lời giải thích cho sự mâu thuẫn bề ngoài này thật đơn giản: có hai loại bình an rất khác nhau, và chúng đối nghịch nhau. Có thứ bình an mà thế gian ban tặng, và chính Đức Giêsu đã nói rõ với các Tông Đồ rằng Ngài không đến để ban cho họ loại bình an đó. Vậy bình an mà thế gian ban là gì?

Ở mức tốt nhất, đó là thứ bình an chấm dứt chiến tranh – ít nhất là tạm thời – bằng một loại hiệp ước hay thỏa hiệp nào đó. Đó là loại bình an con người khi không tin theo tôn giáo nào vẫn mong muốn, vẫn làm việc để đạt được, và đôi khi đạt được.

Nguyên nhân phổ biến nhất của thứ bình an này là sức mạnh: chiến thắng trong một cuộc chiến và áp đặt hòa bình, như chúng ta từng làm trong mọi cuộc chiến mà mình thắng. Nhưng thứ bình an đó mong manh và tạm bợ, và quan trọng hơn cả là nó không phải là bình an của tâm trí, trái tim, và linh hồn. Nó chỉ là một sự yên ổn bên ngoài, mang tính thực dụng, sự ngừng bạo lực của bên ngoài, và phương tiện hiệu quả nhất của nó chính là bạo lực tỏ lộ ra bên ngoài của kẻ chiến thắng.

Loại bình an mà Đức Giêsu không đến để trao ban là sự hòa thuận với những kẻ thù thiêng liêng của chúng ta trong nội tâm mình: thế gian, xác thịt, và ma quỷ. Ngài đến để tuyên chiến với những kẻ thù này.

Vậy ba kẻ thù này là gì? “Thế gian” ở đây không phải là hành tinh trái đất – vì nó là công trình tốt lành của Thiên Chúa, và Ngài đã tuyên bố nó là tốt lành. Thế gian ở đây là nền văn hóa, nền văn minh con người tạo ra, trật tự thế giới mà ở đó phần thưởng dành cho sự khôn khéo và quyền lực chứ không phải nhân đức, và sự trừng phạt không nhắm vào tội lỗi mà nhắm vào sự không tuân theo các chuẩn mực của nó, kể cả sự không tuân theo về mặt tôn giáo.

Kitô giáo luôn luôn đi ngược dòng văn hóa ở những khía cạnh quan trọng, ngay cả trong một xã hội vốn tự nhận là Kitô giáo, và điều này lại càng đúng hôm nay, khi chúng ta sống trong một nền văn hóa không còn là Kitô giáo và ngày càng trở nên chống Kitô giáo, vì nó khuyến khích tham lam, dục vọng, và kiêu ngạo như những con đường dẫn tới thành công và hạnh phúc.

Chắc chắn đây không phải là một nền văn hóa có thể hiểu hay trân trọng những nhân đức của sự nghèo khó, nhất là sự nghèo khó thiêng liêng đòi hỏi tách mình khỏi của cải; hay đức khiết tịnh, vốn bị chế giễu; hay sự khiêm nhường, vốn bị nhầm lẫn với sự hèn hạ; hay sự hiền lành, vốn bị lẫn lộn với yếu đuối.

Kẻ thù thứ hai, “xác thịt”, không phải là thân xác – vốn là tạo vật của Thiên Chúa – mà là toàn bộ bản tính con người sa ngã, ích kỷ, và yếu đuối của chúng ta, cả linh hồn lẫn thân xác. Sự ích kỷ của chúng ta làm bại hoại mọi điều tốt lành, đặc biệt là những đam mê và ước muốn của chúng ta. Chúng ta yêu thích sự khoái lạc của mình hơn là yêu thương người khác, và không chỉ trong tình dục – tình dục chỉ là hình thức rõ rệt và mãnh liệt nhất.

Chúng ta dùng người khác để phục vụ hạnh phúc của mình, thay vì dùng bản thân để phục vụ hạnh phúc của họ. Dục vọng không phải là đam mê tình dục, mà là đam mê tình dục lệch lạc, ích kỷ, “tình dục theo ý tôi muốn.” Hãy nhớ câu nói nổi tiếng của John F. Kennedy: “Đừng hỏi đất nước có thể làm gì cho bạn; hãy hỏi bạn có thể làm gì cho đất nước.” Bây giờ hãy thay từ trừu tượng “đất nước” bằng từ cụ thể “người lân cận” và đảo ngược nó, bạn sẽ hiểu ý nghĩa của “xác thịt” hay bản tính sa ngã. Bản tính đó khiến chúng ta không hỏi “Tôi có thể làm gì cho người lân cận?” mà hỏi “Người lân cận có thể làm gì cho tôi?”.

Kẻ thù thứ ba của chúng ta là ma quỷ, và điều duy nhất cần phải nói về nó là: ma quỷ là có thật (Đức Giêsu không bịa ra những kẻ thù tưởng tượng, cũng như Ngài không bịa ra những “người bạn tưởng tượng” như một đứa trẻ bốn tuổi), và nó còn đáng gờm hơn nhiều so với hình ảnh nhân vật hoạt hình với sừng, móng guốc, và da đỏ đen ghê gớm mà con người nghĩ ra.

Tham lam là tội đặc trưng mà thế gian cám dỗ chúng ta. Dục vọng là tội đặc trưng mà xác thịt cám dỗ chúng ta. Kiêu ngạo là tội đặc trưng mà ma quỷ cám dỗ chúng ta, và đó là tội nặng nhất vì nó mang tính thiêng liêng và hoàn toàn tự do – không phải là tội do yếu đuối.

Đức Giêsu đến để đem lại bình an với Thiên Chúa, chứ không phải với ma quỷ; với chính con người thật của chúng ta, chứ không phải với xác thịt yếu đuối; và với tha nhân, chứ không phải với trật tự thế gian vốn thường xúi giục chúng ta chống lại tha nhân.

Đức Giêsu đến để tuyên chiến với ma quỷ, vì ma quỷ đang tuyên chiến với Thiên Chúa. Ngài đến để tuyên chiến với xác thịt, vì xác thịt đang tuyên chiến với Thần Khí, Chúa Thánh Thần (không phải với linh hồn; linh hồn cũng là một phần của xác thịt). Và Ngài đến để tuyên chiến với thế gian, vì thế gian đang tuyên chiến với Hội Thánh, tức là sự hiệp thông của các thánh. Điều này rõ ràng đến mức trong mọi nền văn hóa, các thánh đều bị tử đạo – dù là đỏ rực, hay qua màu trắng đen, dù là bằng máu, hay bằng chữ nghĩa.

Đây là cuộc chiến duy nhất không cho phép thái độ “chủ hòa”. Đức Giêsu đã nói: “Ai không đi với Ta là chống lại Ta” (Mt 12,30). Nếu bạn từ chối chiến đấu chống lại những kẻ thù này, bạn chính là điều mà những kẻ thù gọi là “những kẻ ngu ngốc hữu dụng” mà họ có thể lợi dụng và điều khiển cho mục đích riêng của họ.

Chủ đề chiến tranh thiêng liêng xuất hiện gần như trên mọi trang của Kinh Thánh. Hội Thánh chưa bao giờ định tín về vấn đề “chủ hòa” trong chiến tranh vật chất. Hội Thánh chưa bao giờ chính thức chấp thuận hay phản đối. Nhưng Hội Thánh luôn dạy rằng kẻ thù thực sự của chúng ta không phải là phàm nhân mà là “những quyền lực và thế lực gian ác ở chốn trời cao”—nói cách khác là ma quỷ, những thiên thần sa ngã, những thần dữ cám dỗ con người. Nếu chúng không có thật, thì không chỉ Hội Thánh mà cả chính Đức Giêsu Kitô cũng là kẻ nói dối hoặc kẻ dại khờ, vì Ngài đã dạy rõ ràng rằng chúng có thật. Ngài không chỉ dạy điều đó, mà còn trực tiếp chiến đấu với chúng: Ngài đã trừ quỷ nhiều lần. Rất ít người trong chúng ta thực sự bị quỷ ám và cần được trừ quỷ, nhưng tất cả chúng ta, kể cả chính Đức Kitô, đều bị chúng cám dỗ.

Vì đời sống là một cuộc chiến thiêng liêng, nên khí giới thiêng liêng quan trọng nhất của chúng ta là vâng phục vị Chỉ Huy Trưởng, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Khi bị cám dỗ, điều đầu tiên và quan trọng nhất là hãy quay ánh nhìn khỏi sự cám dỗ và khỏi chính bản thân mình, mà hướng về Chúa với lời “Xin cho ý Ngài được thực hiện.” Sẽ rất hữu ích nếu bạn làm dấu thánh giá như một nghi thức kính chào vị Chỉ Huy Trưởng của mình: dấu thánh giá nhắc nhở bạn thuộc về ai. Và đó cũng là một lời chứng mạnh mẽ cho thế gian biết bạn đang đứng về phía nào. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

Hình ảnh Thiên Chúa trong tâm trí bạn cần được thanh luyện

Chúa mạnh mẽ, uy nghi khiến ta khiếp sợ; Chúa yêu ta đến nỗi điên rồ

Ông Mô-sê giơ tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần ; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và súc vật uống. Bấy giờ Đức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron : “Bởi vì các ngươi đã không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái Ít-ra-en, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng.” (Dân số 20:11-12)

Ai trong chúng ta đều nhớ có lần bị phạt và cảm nghiệm bị phạt của chúng ta rất hiếm lúc là tích cực. Chúng ta thường có cảm nghiệm “phạt cho đã tức.”

Suy cho cùng, chúng ta thực sự không hiểu tình yêu vô điều kiện như Chúa yêu có nghĩa là gì. Thuở bé thì... học giỏi lên thì sẽ được ba mẹ yêu hơn; lớn lên thì... cư xử tốt lành sẽ được bạn bè quý mến hơn. Cách nào đó, có lẽ việc thường xuyên đi xưng tội đem lại cho chúng ta chút hình bóng của tình yêu vô điều kiện: tội phạm đi phạm lại, đôi khi cả sự ác trong trái tim mình ngóc đầu lộ diện, nhưng cứ đến toà giải tội là được tha và còn hơn nữa, được ơn hoán cải.

Kinh Thánh ghi lại sự thiếu đức tin của Môsê để chúng ta nhìn thấy Môsê tuy là một người lãnh đạo vĩ đại của Israel, có giới hạn của riêng ông vì ông chỉ là con người. Với giới hạn đó, ông sẽ không là người xứng hợp để dẫn dân Israel, một dân cứng đầu cứng cổ, đi vào Đất Hứa mà là ông Giosuê, người đã rất trung thành với Môsê. Có thể nói sự thiếu đức tin trong hành động lấy gậy đánh trên hòn đá hai lần, Chúa đã phạt ông Môsê. Nhưng chúng ta phải hiểu từ phạt ấy cách đúng đắn và thanh luyện từ ấy để chúng ta không vô tình làm ô danh Chúa. Chúa không giống con người.

Đừng nhanh chóng ụp lên Thiên Chúa cảm giác “phạt cho đã tức” của loài người. Người cha mẹ yêu thương con cái nào cũng biết họ không hề muốn làm con cái đau đớn, huống chi là Thiên Chúa, “nơi Người, không có một chút bóng tối nào” (1 Gioan 1:5).

Kinh thánh dùng từ phạt nhiều lần: Nếu con cái Người (Đa-vít) bỏ không giữ luật Ta, chẳng sống theo điều Ta quyết định, vi phạm những thánh chỉ Ta ban xuống, chẳng tuân cứ mệnh lệnh Ta truyền, thì Ta sẽ dùng roi sửa phạt lầm lỗi, chúng gây nên tội, Ta phải đánh đòn. – Thánh vịnh 89:31-33

Có thể với những ân sủng Chúa đã ban cho Môsê, việc ông lấy gậy đập hai lần vào hòn đá là một yếu đuối của đức tin. Nhưng Chúa đã dùng chính sự yếu đuối đó để làm vẻ vang Danh Chúa Giêsu.

Dân Do thái chờ đợi một Môsê mới. Môsê cũ không dẫn Dân Chúa vào Đất Hứa, nhưng Môsê Mới, và chỉ một mình Ngài mà thôi, mới có đủ khả năng để dẫn đưa Dân Chúa an toàn về Đất Hứa. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Đấng Cứu chuộc.

“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định (Rôma 8:28). Chúa đã dùng sự yếu đuối của Môsê để mặc khải về Chúa Giêsu và Môsê rất vui mừng để được Chúa huấn luyện và dùng để là hình bóng của Chúa Giêsu, rất vui mừng để nhường chỗ cho Chúa Giêsu khi Ngài đến trong lòng dân Israel.

Chúng ta luôn cần thanh luyện suy nghĩ, cảm tưởng của chúng ta về Thiên Chúa. Ngài mạnh mẽ khiến ta khiếp sợ nhưng yêu thương vượt xa khả năng đón nhận của chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu.

Share:

Chúa Giêsu là giải pháp cho mọi vấn đề của ta

MÔSÊ: Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa. Đừng để con thấy mình phải khổ nữa (Dân số 11:11;15).

CHÚA GIÊSU: Tất cả hãy đến cùng Ta vì gánh của Ta thì êm ái và gánh của Ta nhẹ nhàng. (Mt 11:28).

Một hôm bài đọc cho Thánh lễ là bài đọc từ Dân số và giáo xứ thì đọc bài đọc riêng cho lễ thánh Gioan Vianey. Cảm thấy hơi bị hụt 😇. Nhưng các bài đọc của ngày thường cũng rất trùng hợp với tinh thần của thánh Gioan Vianey.

Trong bài đọc một, Chúa giao phó chức vụ cưu mang dân Israel, như người cha chăm sóc con cái mình, cho ông Mô-sê và cũng là để huấn luyện ông. Nhưng Mô-sê không thể thi hành chức vụ đó và ông biết rõ điều này: “Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng Ngài! Đừng để con thấy mình phải khổ nữa!” (Dân số 11:11-15)

Trong bài đọc Phúc âm, Chúa Giêsu nuôi đám đông ăn no nê vì Chúa động lòng thương họ. Chúa động lòng thương chúng ta và cho chúng ta được ăn no nê trong bí tích Thánh Thể.

Điều Mô-sê không thể làm được, Chúa Giêsu có thể làm. Vì Ngài là Thiên Chúa.

Những người muốn làm mục tử cho dân Chúa, những người muốn dẫn đưa người khác đến cùng Chúa, họ có thể là giáo lý viên, cha mẹ, những người loan truyền Tin Mừng qua phương tiện truyền thông,... họ chỉ có thể làm việc rao giảng Tin Mừng có sức cứu độ này nhờ lãnh nhận mọi sự từ Chúa Kitô, được Chúa Kitô huấn luyện và sống gắn bó với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhìn thấy thân phận của mình và xin cho con cảm nhận được tình yêu và sức mạnh của Chúa vì chỉ những gì Chúa làm mới là quan trọng.

Share:

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2025

Truyền đạt đức tin

“Anh chị em thân mến! Tôi xin anh chị em giúp con cái mình lớn lên trong đức tin, đồng hành cùng các em trên hành trình hướng tới việc Rước Lễ Lần Đầu — một hành trình không kết thúc vào ngày hôm đó, nhưng tiếp tục mãi — và tiếp tục đồng hành với các em khi các em tiến bước đến với Chúa Giêsu và cùng đi với Người.

Xin anh chị em hãy cùng con cái đến nhà thờ và tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật! Anh chị em sẽ thấy rằng đây không phải là thời gian lãng phí, nhưng chính là điều có thể giữ cho gia đình thật sự hiệp nhất và đặt trọng tâm vào Chúa.

Chúa Nhật sẽ trở nên tươi đẹp hơn, cả tuần lễ cũng sẽ trở nên tươi đẹp hơn, khi anh chị em cùng nhau đi lễ Chúa Nhật.

Và xin hãy cùng nhau cầu nguyện tại nhà nữa: trong bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cầu nguyện không chỉ đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn, mà còn đưa chúng ta đến gần nhau hơn. Đó là một nguồn sức mạnh mang lại bình an và niềm vui. Đời sống gia đình sẽ trở nên vui tươi và rộng mở hơn bất cứ khi nào có sự hiện diện của Thiên Chúa và khi cảm nghiệm được sự gần gũi của Ngài qua lời cầu nguyện.” -- ĐTC Bênêđictô XVI

Share:

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2025

Suy niệm nhân Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời của ĐTC Benedictô XVI

Anh chị em thân mến,

Hôm nay, buổi gặp gỡ thường lệ vào ngày thứ Tư hằng tuần của chúng ta lại diễn ra trong bầu khí của Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Vì thế, tôi muốn mời anh chị em một lần nữa hướng ánh mắt về người Mẹ trên trời của chúng ta, Đấng mà phụng vụ hôm qua đã giúp chúng ta chiêm ngắm trong vinh thắng cùng với Chúa Kitô trên Thiên Quốc.

Từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Dân Chúa luôn cảm thấy lễ này thật sâu sắc và rất cảm động; như chúng ta biết, đây là lễ mừng sự được tôn vinh, cả hồn lẫn xác, của thụ tạo mà Thiên Chúa đã chọn làm Mẹ, và Đấng mà Chúa Giêsu trên Thập Giá đã ban làm Mẹ cho toàn thể nhân loại.

Lễ Đức Mẹ Lên Trời gợi lên một mầu nhiệm liên quan đến mỗi người chúng ta, bởi vì – như Công đồng Vaticanô II xác nhận – Mẹ Maria “rực sáng trên trần gian… như dấu chỉ của niềm hy vọng chắc chắn và niềm an ủi cho Dân Thiên Chúa đang lữ hành” (Lumen Gentium, số 68).

Tuy nhiên, vì bị cuốn vào những biến cố của đời sống hằng ngày, đôi khi người ta quên đi thực tại thiêng liêng đầy an ủi này – một chân lý đức tin quan trọng; vậy làm thế nào để bảo đảm rằng dấu chỉ rực sáng của niềm hy vọng ấy ngày càng được mọi người chúng ta và cả xã hội hôm nay cảm nhận rõ ràng hơn?

Ngày nay, có những người sống như thể họ sẽ không bao giờ chết, hoặc như thể mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết; lại có những người cho rằng con người là tác nhân duy nhất của vận mệnh mình, hành xử như thể Thiên Chúa không hiện hữu, và đôi khi còn đi đến mức phủ nhận rằng Ngài có chỗ trong thế giới chúng ta.

Thế nhưng, những tiến bộ vĩ đại của khoa học và công nghệ – dù đã cải thiện đáng kể đời sống nhân loại – vẫn không thể giải đáp được những khắc khoải sâu thẳm nhất của tâm hồn con người.

Chỉ khi mở lòng đón nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, thì mới có thể làm dịu cơn khát chân lý và hạnh phúc trong trái tim chúng ta; chỉ viễn tượng về cõi đời đời mới có thể đem lại giá trị đích thực cho các biến cố lịch sử, đặc biệt là trước mầu nhiệm sự mỏng dòn của kiếp người, của đau khổ và cái chết.

Chiêm ngắm Mẹ Maria trong vinh quang thiên quốc, chúng ta hiểu rằng đối với chúng ta, trần gian này không phải là quê hương vĩnh viễn và rằng, nếu chúng ta sống liên lỉ hướng về những sự đời đời, thì một ngày kia chúng ta sẽ được chia sẻ vinh quang của Mẹ.

Vì thế, dù giữa ngàn muôn khó khăn hằng ngày, chúng ta đừng mất đi niềm thư thái và an bình. Dấu chỉ sáng chói Mẹ Lên Trời càng chiếu toả hơn nữa, khi xem ra như đang tựu lại nơi chân trời những bóng tối ưu buồn của đau khổ và bạo lực.

Chúng ta chắc chắn rằng từ trời cao Mẹ Maria luôn theo dõi những bước đường chúng ta đi với lòng dịu dàng lo lắng; Mẹ trấn an chúng ta trong giờ phút mù tối và giông bão; Mẹ bảo đảm an toàn cho chúng ta với đôi tay hiền mẫu của Mẹ.

Ðược nâng đỡ bởi ý thức như trên, chúng ta tiếp tục tín thác bước đi trên con đường dấn thân kitô, bất cứ nơi nào Chúa quan phòng hướng dẫn chúng ta đến.”

Suy niệm nhân Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời của ĐTC Benedictô XVI

Share:

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

Quản gia trung tín: Chúa Nhật thứ XIX, Mùa thường niên năm C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (12:32-48)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.

“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.

“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ. Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”

Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?” Chúa đáp : “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc? Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng : ‘Còn lâu chủ ta mới về’, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.

“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”

------------

Phúc âm hôm nay nói về việc chuẩn bị cho Chúa Kitô trở lại lần thứ hai vào cuối thế giới. Có thể bạn nghĩ rằng khi chuyện đó xảy ra, bạn sẽ không còn sống nữa, nhưng bạn sai rồi. Bạn chắc chắn sẽ có mặt, vì bạn chắc chắn sẽ chết, và cái chết chính là ngày tận thế của bạn, ngày bạn sẽ gặp Chúa Kitô.

Và không ai trong chúng ta biết chính xác khi nào điều đó sẽ xảy ra. Ngài sẽ đến như một tên trộm trong đêm. Khi chết chúng ta thế nào thì đó cũng là chúng ta đời đời: đời đời trong cõi vinh quang, ngày càng biết Chúa hơn, hoặc đời đời xa Chúa. Không có gì quan trọng hơn việc chuẩn bị cho sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta. Giống như dân Do Thái ở Ai Cập, chúng ta được dạy phải sẵn sàng cho cuộc xuất hành của mình: “Hãy thắt lưng mà chuẩn bị, và thắp đèn lên.”

Nếu điều này có vẻ đáng sợ và gây lo lắng, thì không nên như thế. Chúa Kitô bắt đầu bài giảng hôm nay bằng câu “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ.” Chúng ta là chiên của Chúa, Ngài là người chăn chiên lành, và Ngài chăm sóc chúng ta. Ngài không muốn chúng ta sợ hãi; Ngài muốn chúng ta can đảm.

Chúng ta là “nhỏ bé” đối với Ngài vì Ngài quá vĩ đại. Ngài lớn hơn cả vũ trụ. Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vũ trụ, là Trí Tuệ của Thiên Chúa, là Lời của Thiên Chúa, là Lý Trí đứng sau toàn bộ vũ trụ và mọi sự trong đó, kể cả từng chi tiết trong cuộc đời của từng người một. Ngài là tác giả của toàn bộ cuốn sách lịch sử; không có nơi nào khác trong vũ trụ có thể lấy sự tồn tại, ý nghĩa, sự trọn vẹn hay niềm vui ngoài Ngài. Và điều đúng với tất cả mọi sự trong vũ trụ cũng chắc chắn đúng với chúng ta, “những con chiên nhỏ bé” của Ngài.

Tiếp theo, Ngài nói: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá.” Ngài không yêu cầu mỗi người chúng ta làm điều này theo nghĩa đen — đó là việc làm bất cẩn với hầu hết chúng ta. Nhưng ý Chúa Giêsu là chúng ta có thể từ bỏ mọi thứ trong thế gian này mà vẫn không mất gì, bởi nếu chúng ta là chiên của Ngài, là con cái của Ngài, chúng ta sẽ thừa hưởng Nước Trời, điều có giá trị vô tận, vượt xa toàn bộ thế giới này. Như một bài hát phổ biến có câu: “Bạn có thể giữ cả thế giới này, chỉ cần trao cho tôi Chúa Giêsu.”

Chúng ta có nhiều trách nhiệm trong cuộc sống này, và Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống thiếu trách nhiệm. Ngài bảo chúng ta đừng lo lắng về hàng ngàn điều nhỏ nhặt trong cuộc sống, hãy làm việc của mình không với sự lo sợ mà với tự do khỏi sợ hãi. Nỗi sợ, nỗi sợ thất bại, làm hỏng mọi thứ chúng ta làm, từ thành công trong thể thao, làm ăn đến tình yêu. Và Chúa Giêsu cho chúng ta một lý do để không sợ: Ngài là người chăn chiên và chúng ta là chiên của Ngài.

Thái độ tự do khỏi sợ hãi và lo lắng này là món quà Ngài ban cho tất cả chúng ta. Nó không phụ thuộc vào bạn có bao nhiêu trách nhiệm trong đời. Dù bạn giàu hay nghèo, là doanh nhân hay binh sĩ, là tu sĩ hay trẻ con, thế giới này chỉ là một chiếc hộp đồ chơi so với Nước Trời. Nó không phải điều cần phải lo lắng.

Khi Chúa Giêsu đến nhà bà Maria và Marta, Marta lo lắng cho mọi việc còn Maria chỉ ngồi bên chân Chúa và lắng nghe, Ngài nói với Marta: “Marta, chị bối rối và lo lắng nhiều việc; chỉ có một điều cần thiết thôi. Maria đã chọn phần tốt hơn” (Lc 10,41-42). Chỉ có một điều duy nhất là quan trọng tuyệt đối và vĩnh viễn, đó là mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Mọi thứ khác đều nhỏ bé. Chỉ có một điều là vĩnh cửu; chỉ có một điều là tuyệt đối cần thiết. Chỉ một điều thôi! Thật là sự giải thoát! Đó là lý do tại sao một số thánh còn kể chuyện cười trên giường chết. Sống hay chết ngày mai là chuyện nhỏ bé so với sống hay chết đời đời. Chúa Giêsu chỉ yêu cầu chúng ta hãy sống thực tế, có cái nhìn đúng đắn, nhìn nhận mọi sự như nó thật là.

Chúng ta khó làm được điều đó vì thường xuyên bị mất phương hướng. Những khủng hoảng trước mắt luôn lớn hơn trong mắt chúng ta, như những cột điện gần nhất trên đường khi ta đi du lịch. Nhưng rồi nó sẽ qua đi.

Gương chiếu hậu của xe hơi đôi khi ghi dòng chữ: “Các vật trong gương có vẻ gần hơn thực tế.” Sự thật thì ngược lại: những điều trong gương thời gian, dù là quá khứ hay tương lai, nhỏ bé hơn nhiều khi nó xuất hiẹn

Điều này liên quan đến bài đọc Cựu Ước tuần trước từ sách Giảng viên nói rằng mọi thứ dưới mặt trời đều là “Phù vân, quả là phù vân.” (Giảng viên 1,2) bởi cuối cùng dù kiếm được lợi gì cũng sẽ mất khi chết. Chúa Giêsu cũng nói điều tương tự khi hỏi: “Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8,36). Câu trả lời là không chút lợi lôcc gì cả. Và ta mất gì khi mất tất cả — điều ta chắc chắn sẽ làm khi chết! — nhưng được cứu độ đời đời? Không mất gì cả. Sự khác biệt giữa vô hạn và bất cứ điều gì khác, dù lớn hay nhỏ, là vô hạn.

Đó không phải là toàn bộ sự thật, nhưng là sự thật và sự thật tinh tuyền, và là sự thật quan trọng nhất. Sự thật trọn vẹn còn bao gồm cả trách nhiệm của chúng ta trong thế gian. Nhưng chúng nên được thực hiện không trong tinh thần lo sợ, sợ mất mát hay tham lam ích kỷ mà là trong niềm vui, đức tin can đảm vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng có quyền năng trên mọi việc chúng ta làm. Vì Thiên Chúa của chúng ta không yếu đuối, gian ác hay ngu dốt. Ngài là Đấng toàn năng, toàn thiện và toàn tri. Ngài là Đấng tạo hóa quyền năng, Đấng cứu độ yêu thương hết thảy và là Thầy khôn ngoan vô hạn. Ngay lúc này, Ngàiđang khiến mọi sự trong cuộc sống chúng ta, kể cả những điều xấu, cùng làm việc để đem lại điều tốt nhất trong cuối cùng. Đó chính là điều Ngài nói trong Kinh Thánh và Ngài không bao giờ nói dối.

Điều khôn ngoan và thực tế nhất mà chúng ta có thể làm là tin cậy Ngài, như Ngài nói trong Phúc âm hôm nay: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ.” Điều ngu xuẩn nhất và vô lý nhất ta có thể làm là nghi ngờ Ngài. Đó là chiến lược của ma quỷ, bắt đầu từ Vườn Địa Đàng. Đức tin và sự sợ hãi là hai điều đối nghịch, như ánh sáng và bóng tối.

Đức tin xua đuổi sợ hãi. Đó là lý do nó giúp ta làm được những điều tuyệt vời, như Abraham và các thánh nhân, như chúng ta thấy trong thư gửi tín hữu Do Thái hôm nay. Khi về nhà, bạn hãy đọc chương 11 sách Do Thái và suy nghĩ rằng bạn được mời gọi gia nhập danh sách các thánh ấy. Đức tin này, và sự can đảm không sợ hãi này dành cho mỗi người trong chúng ta. Bạn không cần phải hoàn hảo; chỉ cần tin. Hãy rời mắt khỏi chính mình và những lo lắng một lúc, và chỉ nhìn Ngài, như Maria đã làm. Đó chính là điều cốt yếu trong cầu nguyện: chỉ là dồn sự chú ý về thực tại, về người quan trọng nhất thế giới — và đó không phải là bạn, mà là Ngài. Chỉ nhìn Ngài và thấy Ngài nhìn bạn với trí tuệ và tình yêu vô hạn. Tình yêu ấy lớn đến mức nào? Hãy nhìn lên một cây Thánh Giá. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Sự trọn đời đồng trinh của Đức Maria: Tại sao điều này quan trọng?

Tất nhiên, điều đó vẫn để lại cho chúng ta câu hỏi: “Vậy thì sao?” Tại sao sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria lại quan trọng? Tôi muốn gửi đến bạn đọc ba suy nghĩ để kết lại.

Thứ nhất và quan trọng nhất, sự đồng trinh của Đức Maria quan trọng vì cùng một lý do mà sự đồng trinh của Chúa Giêsu quan trọng: bởi vì sự thật thì quan trọng. Cũng giống như việc các nhà văn hư cấu không được quyền tuyên bố rằng đó là một “sự thật” khi nói Chúa Giêsu đã kết hôn với Maria Mađalêna, thì các học giả cũng không nên phớt lờ bằng chứng cho thấy Đức Maria đã có ý định, và thực sự đã giữ mình đồng trinh suốt cả đời. Như chúng ta đã thấy, sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria là lời giải thích hợp lý nhất dựa trên hầu hết các bằng chứng trong Tân Ước. Tất cả các giả thuyết khác đều có những lỗ hổng nghiêm trọng. Chúng hoàn toàn không thể giải thích được tại sao cùng một sách Tin Mừng vừa gọi Giacôbê và Giuse là “anh em” của Chúa Giêsu, vừa xác định họ là con của một người phụ nữ khác cũng tên là Maria. Những giả thuyết ấy cũng không thể giải thích được làm thế nào mà hai người trong số những “anh em” này, Giacôbê và Simon, lại trở thành những giám mục đầu tiên của Giêrusalem và được biết rộng rãi là anh em họ của Chúa Giêsu, con của Clôpát, chú của Người.

Thứ hai, sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria quan trọng vì nó hướng đến điều vượt trên Mẹ: >sự sống lại của kẻ chết và sự xuất hiện của tạo thành mới. Như chúng ta đã thấy ở đầu chương, một trong những lý do Chúa Giêsu sống độc thân và kêu gọi người khác tiết chế tình dục là “vì Nước Trời” (Mt 19:12), để qua đời sống đồng trinh, họ chỉ đến cuộc sống của “thời mai sau” (Lc 20:34–36) — thế giới mới, nơi mọi người sẽ không cưới vợ lấy chồng.

Nếu Đức Maria là Evà mới của tạo thành mới (như chúng ta đã thấy trong Chương 2), thì thật hợp lý khi Mẹ cũng chọn sống, theo một cách độc đáo, đời sống đồng trinh của sự phục sinh. Như vậy, sự đồng trinh trọn đời của Mẹ hướng chúng ta đến sự sống đời đời của thế giới tương lai, sự phục sinh và tạo thành mới, nơi mà những mối quan hệ hôn nhân thông thường sẽ không còn vì sự chết sẽ không còn nữa.

Cuối cùng, sự đồng trinh trọn đời của Đức Maria quan trọng vì Mẹ, như Chúa Giêsu, không phải là một con người bình thường. Như chúng ta đã thấy trong các chương trước, theo Tân Ước, Đức Maria là Evà Mới, Hòm Bia Giao Ước mới, và là Tân Mẫu Hoàng. Với đời sống đồng trinh trọn đời, Mẹ thậm chí còn hơn thế nữa; Mẹ trở thành biểu tượng của Hội Thánh, Đấng vừa là Hiền Thê trinh khiết của Đức Kitô vừa là người mẹ sinh ra muôn vàn Kitô hữu. Như thánh Ambrosiô thành Milan đã viết:

“Mẹ [Maria] được kết hôn một cách xứng hợp, nhưng vẫn là Đồng Trinh vì Mẹ là hình ảnh tiên báo của Hội Thánh — Đấng tinh tuyền nhưng đã kết hôn. Một Trinh Nữ đã cưu mang chúng ta nhờ Thánh Thần, một Trinh Nữ sinh ra chúng ta mà không đau đớn.” (Ambrosiô, Chú giải Tin Mừng Luca, 2.6–7 [thế kỷ IV])59

Hãy chú ý dến câu cuối: Đức Maria đã sinh con “mà không đau đớn.” Ambrôsiô muốn nói gì ở đây?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ cần xem xét một tín điều cổ xưa khác của Kitô giáo về Đức Maria — một điều ngày nay ít được biết đến hơn, nhưng còn huyền nhiệm hơn cả sự đồng trinh trọn đời của Mẹ. Đó là niềm tin rằng không chỉ việc thụ thai Chúa Giêsu là một phép lạ, mà cách Người sinh ra cũng là một phép lạ. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu điều đó ngay sau đây. -- Brant Pitre, Jesus and the Jewish Roots of Mary: Unveiling the Mother of the Messiah

Translation by Theodosia Tomkinson in St. Ambrose, Exposition of the Holy Gospel according to Saint Luke, 44 (slightly adapted).

Share:

Thứ Tư, 6 tháng 8, 2025

Thiên chức linh mục & in persona Christi

Không lâu trước đây, Ad đã đăng một đoạn từ video Chris Stefanik phỏng vấn một người đã làm việc hỗ trợ cùng với linh mục trong việc trừ quỷ.

https://www.facebook.com/photo/?fbid=1033469432320285&set=a.466210499046184

Trong video đó, có một đoạn nói về chức linh mục gây ấn tượng mạnh cho mình về thiên chức linh mục.

Chúa dựng nên Giáo hội để tiếp tục công việc của Chúa và lập nên bí tích Truyền chức thánh để vị linh mục khi mang lấy trên mình dây stola, cử hành các bí tích Chúa thiết lập theo như ý định của Giáo hội, thì chính Chúa Giêsu đang dâng Thánh lễ, chính Chúa Giêsu tha tội. “Bí tích không thành sự do sự công chính của người trao ban hay người lãnh nhận, nhưng do quyền năng Thiên Chúa”, nghĩa là bí tích thành hay không thành, không lệ thuộc vào sự thánh thiện hay không thánh thiện của người linh mục (GLCG 1128).  Người Công giáo khi học giáo lý đã có nghe qua điều này.

Ad dịch một đoạn nữa với mục đích để chúng ta tạ ơn Chúa cho các bí tích, và cầu nguyện để xin Chúa cho có đủ linh mục ban phát ân sủng Chúa.

Điều phổ biến nhất [để nhận ra một người đang bị quỷ ám, khống chế] là ác cảm với những gì thánh thiêng. Ma quỷ sợ các linh mục. Chúng sợ các vật thánh. Nước thánh khiến chúng như bị bỏng. Có điều gì đó nực cười khi nhìn thấy ma quỷ rất kinh sợ các linh mục. Chúng sẽ làm mọi thứ để tránh xa họ, và chúng không ngừng nói về việc chúng hết sức căm ghét bàn tay của linh mục. Bởi vì đó là bàn tay của Chúa Giêsu, và chúng sợ hãi Chúa Kitô.

Thật là một suy nghĩ tuyệt đẹp về đôi tay của linh mục. Điều mà tôi biết ơn nhất khi tham gia vào sứ vụ này là được chứng kiến in persona Christi (Đức Kitô hiện diện nơi linh mục) một cách rõ ràng và thực tế đến vậy.

Bởi vì tôi nghĩ đôi khi Thiên Chúa cho phép kẻ dữ bộc lộ những hiện tượng này để củng cố đức tin của con người rằng thế giới tâm linh là có thật.

...Theo như kinh nghiệm của tôi sau 20 năm chứng kiến các buổi trừ quỷ, đó là một khoảng thời gian rất dài, tôi chưa bao giờ bước ra khỏi đó và nghĩ rằng, “Ôi, ma quỷ thật quyền năng.” Trái lại, tôi luôn bước ra khỏi buổi trừ quỷ và ngẫm nghĩ, “Tạ ơn Chúa vì thiên chức linh mục, vì Mẹ Maria, vì thiên thần hộ mệnh của tôi và tất cả những ơn phúc ấy.”

Dĩ nhiên, có những khoảnh khắc các thánh thật sự can thiệp vào đời sống chúng tôi.

Một câu chuyện tôi hay kể là về một cậu thanh niên đến gặp để chúng tôi có thể thăm dò về trường hợp của cậu. Cậu ấy 18 tuổi, hai người chú, những lính cứu hỏa to lớn, dắt cậu hai bên tay. Cậu sùi bọt mép, chửi thề om sòm. Tôi thấy rất thương cậu ấy. Tôi chỉ cố tìm hiểu đây có phải là bệnh tâm thần không? Đây là sao? Tôi vừa hỏi vừa cầu nguyện.

Tôi bắt đầu đặt câu hỏi: “Anh có thích thể thao không?” Cậu ấy bắt đầu bình tĩnh hơn và trả lời: “Có, tôi rất thích thể thao. Tôi từng sắp trở thành cầu thủ bóng bầu dục Division I, nhưng giờ chuyện này xảy ra, tôi chẳng biết liệu còn được đi học đại học nữa không.”

Tôi nói: “Chúng tôi sẽ cố gắng giúp anh.” Rồi bất chợt, tôi hỏi: “Jonathan, anh có biết Chúa yêu anh nhiều chừng nào không?”

Cậu đang ngồi trên ghế sofa giữa hai người chú, cách tôi khoảng sáu mét. Trước khi tôi kịp giơ tay, cậu vùng khỏi họ, chộp lấy một cái bình, đập vỡ và dí vào cổ tôi. Đột nhiên, ánh mắt cậu chuyển sang hoảng sợ, nhìn lên phía trên tôi. Tôi biết đó không phải là cậu nữa, mà là con quỷ đang lộ diện.

Nó nói: “Nếu không có con bé người Lucca đứng sau lưng mày, tao đã giết mày trong ba giây rồi.” Tôi sững sờ. Sau đó, chúng tôi làm thêm các đánh giá và đưa cậu vào tiến trình trừ quỷ. Mỗi lần tôi bước vào, cậu lại gào lên về “con bé từ Lucca” đang đi cùng tôi.

Sau bốn tuần, vị trừ quỷ ra lệnh: “Ta truyền cho ngươi phải nói cô ấy là ai.” Con quỷ nói: “Tao sẽ không bao giờ nói tên nó.” Sau mười phút bị ép buộc, nghiến răng chịu đựng, nó cuối cùng cũng nói: “Gemma Galgani.”

Tôi nghĩ, “Wow.” Tôi hoàn toàn không hiểu vì sao Chúa lại sai thánh nữ đến giúp tôi. Tôi chưa từng biết về thánh Gemma. Gia đình tôi có một chút gốc gác từ Lucca, nhưng tôi không biết có phải vì thế hay vì Chúa chỉ đơn giản muốn thánh Gemma giúp đỡ chúng tôi. Tôi không biết.

Nhưng những khoảnh khắc như thế… tôi chỉ có thể nghĩ, “Wow, thật sự quá đỗi tuyệt đẹp.” Không một căn bệnh tâm thần nào có thể tạo ra những điều như vậy.

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive