Thứ Hai, 8 tháng 12, 2025

Thầy có phải là Đấng phải đến không?: Niềm hy vọng của Gioan và của chúng ta - CN III Mùa Vọng năm A

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 11:2-11)

Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” 4 Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

“Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”

------

“Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

“Câu hỏi này có vẻ kỳ quặc vì Gioan đã nhận ra Chúa Giêsu khi Chúa lãnh nhận phép rửa ở sông Giođan, và theo các lời tường thuật khác của Phúc âm, Gioan đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến sau ông và ông không đáng cởi dây giày của Ngài (Luca 3:16). Vậy tại sao Gioan lại sai người đi hỏi “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Dường như việc Gioan bị cầm tù là môt thử thách đức tin cho ông. Đúng là Gioan đã gặp gỡ Chúa Giêsu trong những thời điểm hạnh phúc hơn, như khi Gioan rao giảng ở sông Giođan và đám đông kéo đến với ông. Lúc đó, nước Chúa dường như là sắp xuất hiện. Nhưng mọi thứ đã không diễn ra theo cách đó. Tại sao vì chỉ nói sự thật (với Hêrôđê) mà Gioan bị bỏ tù? Và nếu Chúa Giêsu là người đã được xức dầu để “đem tin mừng cho kẻ nghèo hèn … công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân,” (Isaia 61:1), thì ngài có thể sử dụng một số quyền năng giải phóng đó để Gioan được phóng thích?

Ngay cả những vị thánh vĩ đại cũng có thể trải qua đêm tối và trải qua những thử thách về đức tin. Vì thế, việc bị thử thách không là không tương thích với sự thánh thiện. Khi Gioan phải chịu đau đớn về thể lý và đêm đem của tâm linh trong ngục tối tăm của Hê-rô-đê, ông tìm đến Chúa Giêsu để được an ủi: “Thầy có phải là Đấng phải đến không? Thầy không biết tôi bị nhốt trong ngục vì đã làm chứng cho hôn nhân sao?

Chúa Giêsu đáp lại họ rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Chúa Giêsu nhắn lại lời an ủi cho Gioan: “Hãy đi nói với Gioan rằng các dấu hiệu của thời đại của Đấng Mêsia như đã được đề cập đến trong Isaia 35 và 61 đã được ứng nghiệm cách rõ ràng trước mắt các anh. Và thật hạnh phúc thay cho những ai không bị vấp ngã. Vì cách Ta đem nước Thiên Chúa đến trần gian thì khác với những gì họ mong chờ”.

Như chúng ta đã thấy, những lời tiên tri của Isaia về người mù, què, điếc, v.v., thực sự nói về những thực tại thuộc linh. Nhưng trước bản chất yếu đuối của chúng ta, vốn cần những dấu hiệu hữu hình (Gioan 4:48), Chúa Giêsu đã đoái thương diễn ra qua hành động những lời tiên tri về mặt tâm linh.

Nếu những vấn đề chính của nhân loại là những khuyết tật về thể chất, thì Chúa Giêsu đã thành lập một bệnh viện để chữa lành cơ thể cho mọi người. Nhưng trái lại, Chúa thành lập một Giáo hội, để chữa lành tâm hồn con người. Giáo hội ấy cũng đã thành lập các bệnh viện bởi vì cùng với Chúa Giêsu, Giáo hội nhận ra rằng chúng ta cần những dấu hiệu hữu hình để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng sự chữa lành về thể xác cần phải hướng chúng ta đến sự chữa lành sâu hơn, nếu không thì nó chỉ là tạm thời và cuối cùng là vô nghĩa.

Chúa Giêsu sau đó tiếp tục bằng việc khen ngợi Gioan Tẩy Giả, gọi ông là vị tiên tri vĩ đại nhất của Giao ước cũ, đỉnh cao của việc rao giảng và dạy dỗ Kinh thánh của Israel (xem Matthêu 11:13). Tuy nhiên, “Kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng còn lớn hơn ông ta”. Điều đó có nghĩa là gì?

Vương quốc thiên đàng là Giáo hội. Những lời của Chúa Giêsu có thể được coi là ám chỉ đến Giáo hội Khải hoàn, những người đã được cứu rỗi và ngay cả lúc này, đang ở trước sự hiện diện của Chúa trên thiên đàng. Họ cao trọng hơn Gioan (trong Phúc âm lúc này) vì họ đã được thấy Thiên Chúa mặt đối mặt và chia sẻ vào vĩnh phúc của Chúa, trong khi Gioan còn phải chịu những thử thách về thể lý cũng như tinh thần và sự yếu đuối của thân xác.

Và điều này cũng có thể được coi là ám chỉ đến Giáo hội Chiến đấu, những tín đồ vẫn đang chiến đấu trên trái đất. Mặc dù chúng ta có thể thiếu nhiều đức tính của Gioan, nhưng chúng ta có rất nhiều lợi thế mà ông không có: các bí tích ban truyền Chúa Thánh Thần cho chúng ta, chân lý trọn vẹn trong Kinh thánh và được Giáo hội làm sáng tỏ thêm, sự hiệp thông các thánh tăng thêm sự hỗ trợ, và nhiều hơn nữa. Vì vậy, ngay cả những người nhỏ nhất trong chúng ta, những người thực sự tin vào Chúa Kitô, cũng vĩ đại hơn Gioan về nhiều mặt.

Hoặc chúng ta nên nói, vĩ đại hơn Gioan đã là, vì khi Chúa Giêsu nói những lời này, Gioan vẫn còn trên trái đất và bị ràng buộc bởi Giao ước Cũ. Nay, Gioan đã đi vào phúc vinh quang và được phúc nhìn thấy Chúa cùng với các thánh khác.

Không cần phải nói cuộc sống này bao hàm việc buồn nản chờ đợi vì cuộc sống dường như đi lùi hơn là tiến bước. Ngay cả khi chúng ta hát những bài hát về niềm hy vọng và niềm vui khi Chúa Giêsu đến trong Mùa Vọng, nó không mấy thích hợp với các sự kiện trong cuộc sống cá nhân cũng như các sự kiện xã hội và chính trị trên khắp thế giới, nhiều sự kiện dường như báo trước thảm họa không thể tránh khỏi và không là về tình yêu, niềm vui và hòa bình. Giáo hội rất là thực tế, và Kinh thánh cũng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ở thế gian này, anh em sẽ gặp khó khăn. Nhưng hãy can đảm! Thầy đã thắng thế gian” (Gioan 16:33).

Đó là sứ điệp của các bài đọc Chúa Nhật tuần này. Như các tiên tri, chúng ta đang mong đợi từ giữa một thế giới đang chảy ngược dòng tiến đến hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng thế giới hiện tại này là một vấn đề tạm thời và Chúa Giêsu đã có câu trả lời vĩnh cửu cho vấn đề này. Khi chúng ta thắp ngọn nến hồng để đánh dấu “Chúa Nhật Gaudete / mừng vui,” chúng ta hãy phấn khởi với sự thật rằng chúng ta, những kẻ nhỏ bé, có thể cùng đứng với một người vĩ đại như Gioan Tẩy Giả và hy vọng về ngày chúng ta sẽ cũng với ngài vui hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.”
-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year A

Share:

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Các bài viết và video về yoga và thiền

Các bài viết và video từ Trongsach.com

Chánh niệm và tỉnh thức của Kitô giáo

Người Công Giáo có nên tập yoga không?

Một Số Khía Cạnh Của Việc Chiêm Niệm Kitô Giáo từ Bộ Giáo lý Đức tin

Video về Yoga

Yoga có là vấn đề không? Cha Vincent Lampert, nhà trừ quỷ, chia sẻ kiến thức của mình

Nếu bạn tập thể dục theo lối này... hãy thận trọng với Alex Frank

Trong video này, Alex Frank, tốt nghiệp từ Duke University và học luật ở Yale, vì bị đau lưng đã tìm đến yoga, ngay cả sống trong chùa ở Nhật bản 3 tháng. Alex trả lời câu hỏi bạn có thể tập yoga mà không có những tác động tiêu cực đến đời sống tâm linh của người Kitô hữu không? Có lựa chọn nào tốt hơn thay vì yoga không (ở video sau)? Mời bạn nghe Alex Frank chia sẻ

Các thần trong yoga có phải là ma quỷ không?

Yoga hay Pilates? Pilates được dựa trên phong trào thể dục dụng cụ ở phương Tây

Some English resources

Bodily positions -- Fr. Carlos Martins

Real cases of harassment by the evil one:
https://www.youtube.com/watch?v=Kfer9yoKHjg (part 1)
https://www.youtube.com/watch?v=NSswxNfmUgs (part 2)

Catholic articles
When Your Therapist Recommends Buddhist Meditation
Can a Christian Practice Buddhism?
What’s the Difference Between ‘Mindfulness Meditation’ and Christian Meditation

Share:

Chánh niệm (Mindfulness) và Truyền thống thần bí Công Giáo

Lời từ video của Dr. Greg Bottaro

Vì tôi dạy một khóa học về tỉnh thức theo Công Giáo (Catholic mindfulness) nên đôi khi có người hỏi tôi: người Công Giáo có được thực hành chánh niệm  không, và điều đó liên hệ thế nào với truyền thống linh đạo thần bí Công Giáo (mystical spirituality) vốn đã có sẵn trong Giáo Hội? Đây là những câu hỏi rất hay, và tôi muốn làm rõ ngay từ đầu.

Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào sự khác biệt giữa Phật giáo và Công Giáo. Tình thức, chánh niệm (mindfulness) là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều ngày nay, và điều này có thể gây nhầm lẫn vì nó dường như gắn liền với triết lý Phật giáo — và thật sự là như vậy, nó có nguồn gốc từ triết lý Phật giáo. Vì thế, điều hết sức quan trọng là phải hiểu rõ sự khác biệt giữa mindfulness / tình thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo.

Trước tiên, với tư cách là người Công Giáo, chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho chúng ta nơi con người Đức Giêsu Kitô, và qua đó Người cũng mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm Ba Ngôi là Thiên Chúa vừa là Ba vừa là Một: có sự đa dạng về ngôi vị nơi Thiên Chúa — Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần — nhưng đồng thời cũng có sự hiệp nhất tuyệt đối vì Thiên Chúa là Một. Mầu nhiệm này được phản chiếu trong toàn thể công trình tạo dựng.

Chẳng hạn, nơi nhân loại: con người cũng có một ý thức về sự hiệp nhất. Chúng ta là một gia đình nhân loại, có một điều gì đó liên kết tất cả chúng ta lại với nhau, và nếu Thiên Chúa muốn, tất cả chúng ta được mời gọi để vào nước trời— đó chính là sự hiệp thông các thánh. Có một sự hiệp nhất mà chúng ta đang hướng tới nơi toàn thể nhân loại. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng tin rằng mỗi người là một cá vị riêng biệt, được tạo dựng cách độc nhất vô nhị. Mỗi người là một cá nhân thật sự khác biệt. Điều này rất khác với điều Phật giáo tin về thực tại được tạo dựng và về thực tại như họ cảm nghiệm.

Trong khi chúng ta chấp nhận mầu nhiệm Ba Ngôi — vừa là Ba vừa là Một — thì Phật giáo không chấp nhận mầu nhiệm theo cách như vậy.

Để giải thích kinh nghiệm về hiệp nhất và đa dạng, Phật giáo đơn giản cho rằng sự đa dạng chỉ là ảo tưởng. Con đường đi đến giác ngộ của một Phật tử là hoàn toàn và dứt khoát hiểu, cảm nghiệm và cảm thấy chỉ có sự hiệp nhất của mọi hữu thể, và coi sự đa dạng của hiện hữu là ảo tưởng cần phải loại bỏ.

Vì thế, khi nói đến kinh nghiệm về chính bản thân mình, một Phật tử sẽ nói rằng cái “tôi” là ảo tưởng, bản ngã không tồn tại. Đồng thời, họ cũng nói rằng Thiên Chúa không tồn tại, bởi vì Thiên Chúa sẽ là một thực tại tách biệt khỏi con người, và trong triết lý Phật giáo thì không có sự phân biệt.

Dĩ nhiên, chúng ta không tin như vậy. Đây là một khác biệt rất lớn so với thế giới quan Kitô giáo, thần học và triết học của chúng ta.

Đó là hai hệ thống tư tưởng: Phật giáo và Công Giáo. Bây giờ, chúng ta hãy quay lại với mindfulness / tỉnh thức. Đối với Phật giáo, mindfulness /chánh niệm là một bước trên con đường đi đến giác ngộ. Nhưng mindfulness cũng có thể được thực hành trong bối cảnh Công Giáo. Làm sao điều đó có thể xảy ra?

Chúng ta hãy xem mindfulness là gì. Mindfulness đơn giản là ý thức về giây phút hiện tại. Đó là một cách để gạt bỏ lớp mạng nhện, làn sương mờ, sự rối loạn và lao đi không ngừng của tâm trí, hay những tiếng ồn ào bên trong đầu chúng ta, để chúng ta thật sự hiện diện trọn vẹn với những gì đang diễn ra xung quanh.

Đối với một Phật tử, đó là một bước dẫn đến việc nhận ra rằng tất cả những điều đó là ảo tưởng. Còn đối với người Công Giáo, đó là một bước giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của Thiên Chúa đang thấm nhuần công trình tạo dựng, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, và nhận ra chính bản thân mình trong bối cảnh của thế giới được tạo dựng này.
Việc thực hành như vậy có được không? Chúng ta hãy đi xa hơn một chút.

Trên con đường giác ngộ của Phật giáo còn có một bước gọi là “chánh ngữ” (right speech). Điều đó có nghĩa là không nói dối, không nói xấu sau lưng, không vu khống hay bôi nhọ người khác. Đó là một phần trong con đường giác ngộ của Phật giáo. Tự bản chất, đây là một điều tốt đẹp.

Và chúng ta, trong đời sống Kitô hữu, cũng thực hành “chánh ngữ” trên con đường đi đến nhân đức. Điều đó đã có sẵn trong hệ thống luân lý Công Giáo. Vì thế, chỉ vì một điều gì đó là một bước trên con đường giác ngộ của Phật giáo thì điều đó không nhất thiết là sai tự bản chất. Điều tương tự cũng áp dụng cho mindfulness.

Việc học cách ý thức về giây phút hiện tại, xét cho cùng, là một kỹ thuật hay một kinh nghiệm mang tính tâm lý. Chúng ta sử dụng nó thế nào thì phụ thuộc vào thế giới quan, niềm tin tôn giáo hay triết lý sống của mỗi người.

Nếu bạn là Phật tử, thì điều đó có nghĩa là bạn đang đi trên con đường khám phá rằng mọi điều bạn đang chú ý đến đều là ảo tưởng.

 Còn nếu bạn là Kitô hữu hay người Công Giáo, thì bạn đang đi trên con đường hiểu biết rõ hơn về chính mình, về Thiên Chúa, và về thực tại quanh mình. Càng có ý thức rõ ràng về bản thân, bạn càng hiểu sâu hơn những chuyển động của con tim mình, ở tầng sâu bên dưới mọi xao lãng và mọi hỗn loạn của tâm trí.

Khi nói đến cầu nguyện, đối với người Kitô hữu, mindfulness không phải là cầu nguyện, và cũng không thể thay thế cho cầu nguyện. Việc ngồi đó và chỉ đơn giản ý thức về hơi thở của mình không phải là một hình thức cầu nguyện. Tuy nhiên, nó là một cách giúp làm lắng dịu tâm trí để chúng ta có thể bước vào cầu nguyện mà không bị phân tâm — và điều này rất quan trọng.

Tôi không biết bạn thế nào, nhưng với tôi, có nhiều lần tôi ngồi trong thánh lễ mà tâm trí lại chạy sang hướng khác. Tôi không chú ý đến các bài đọc hay bài giảng. Vâng, thưa cha, con xin lỗi, có những lúc con không chú ý đến bài giảng — có thể vì bình xăng sắp hết và con đang nghĩ xem sau lễ sẽ đi đổ xăng ở đâu! Dù là lý do gì đi nữa, tâm trí chúng ta không phải lúc nào cũng gắn chặt với giây phút hiện tại.

Mindfulness / Tình thức chính là điều giúp chúng ta quay trở lại với giây phút hiện tại. Có khi chỉ đơn giản là cảm nhận chiếc ghế nhà thờ mà tôi đang ngồi trong giây lát, để đưa tâm trí ra khỏi những xao lãng và trở lại với “bây giờ và ở đây.”

Và chính điều đó mở ra cho tôi khả năng thật sự đón nhận Lời Chúa, thật sự lắng nghe bài giảng, thật sự đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, để tôi có thể cảm nếm bằng tất cả các giác quan, với sự tập trung trọn vẹn, với sự hiện diện đầy đủ trong giây phút ấy.
Đó chính là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo, và cũng là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức và cầu nguyện trong đời sống Công Giáo.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho bạn.

Chuyển ngữ từ video: Mindfulness and Catholic Mystical Tradition

Share:

Người Công Giáo có nên tập yoga không?

Từng là “tín đồ yoga” nhưng sau khi trở thành người Công giáo, tôi muốn đưa ra một vài lời cảnh báo.

Xã hội thế tục rất ưa chuộng yoga, và không ít người Công giáo cũng thích nó. Theo Statista.com, doanh thu của ngành công nghiệp yoga lên đến hàng tỷ đô-la, và số người tham gia được ước tính lên đến hàng chục triệu người.

Bản thân tôi đã từng dấn sâu vào yoga, bị thu hút bởi ý tưởng tự hoàn thiện bản thân mà không cần phải bị những quy luật đạo đức ràng buộc. Sau nhiều năm nghiên cứu yoga và các hệ thống liên quan—chánh niệm, Phật giáo, pháp thuật shaman—tôi đã hoàn thành khóa đào tạo giáo viên, ở ba tháng trong một tu viện Thiền Zen, và học với một trong những guru tinh thần hàng đầu tại Hoa Kỳ. Trong suốt quá trình học hỏi, và khi hành trình tìm kiếm thiêng liêng của tôi dần dẫn tôi đến với Giáo hội Công giáo, tôi nhận ra rằng có yoga nhiều điều sâu xa hơn rất nhiều so với những gì văn hoá đại chúng phương Tây miêu tả .

BẢN CHẤT CỦA YOGA LÀ GÌ?

Khi phân tích xem liệu người Công Giáo có nên thực hành yoga hay không, điểm khởi đầu là xác định yoga là gì. Nó không chỉ là một tư thế cơ thể hay một chuỗi các tư thế. Thực ra, nó còn hơn thế: từ yoga trong tiếng Phạn có nghĩa là “gắn ách vào”, “kết hợp lại”. Việc “gắn ách” này hàm ý một sự kết hợp mang tính tâm linh, bắt nguồn từ một dạng phục tùng. Giờ đây, Đức Kitô mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người (Mt 11:30), nhưng yoga đặt lên người tập loại ách nào? Nói cách khác: yoga buộc người thực hành phải phục tùng điều gì?

Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xem xét các tư thế. Lấy vài ví dụ:

  • Ba tư thế Warrior (Chiến Binh) gợi lên thần Virabhadra, vị thần được thần Shiva tạo ra để giết cha vợ của Shiva. Ba tư thế này mô phỏng trình tự của vụ sát hại đó.
  • Matseyadrasana và Gorakshasana được đặt theo tên các đạo sư Ấn Độ giáo, những người sáng lập nên phong cách dẫn đến yoga hiện đại. Theo truyền thuyết nền tảng, họ đã dùng quyền năng huyền thuật của mình để thực hiện trộm cắp, ngoại tình, lừa đảo, cưỡng dâm bằng lừa dối, xúc phạm thi thể, giết con trai của Matsyendra và giả trang thành người khác giới.*
  • Theo người sáng lập Rasa Yoga, Sianna Sherman, tư thế Goddess “gợi lên” nữ thần hắc ám Kali, nổi tiếng vì làm quần áo từ các bộ phận cơ thể của kẻ thù bị giết. Cho đến ngày nay, tại Ấn Độ, những người sùng bái yoga vẫn dâng tế trẻ em cho bà ta.

VẬY MỤC ĐÍCH CỦA YOGA LÀ GÌ?

Nó vượt xa việc thực hiện những tư thế tôn vinh các thần và đạo sư Ấn Độ giáo có vấn đề. Bộ Ngoại giao Ấn Độ cho biết: “Yoga về căn bản là một kỷ luật thiêng liêng dựa trên một khoa học vô cùng tinh vi, tập trung vào việc đem lại sự hòa hợp giữa tâm trí và thân xác… Việc thực hành yoga dẫn đến sự hợp nhất giữa ý thức cá nhân với Ý thức Vũ trụ.” Như vậy, yoga về bản chất là một kỷ luật thiêng liêng. Việc làm thiêng liêng đó được đặt nền tảng trên niềm tin rằng ý thức, hay đơn giản là sự nhận biết, là phương tiện dẫn đến điều thiêng liêng. Mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ bản ngã cá nhân để nhận ra “Chân Ngã” của mình, hòa hợp ý thức của mình vào trong "Đại Ngã", hay có thể nói là hòa mình vào trong thực tại tối cao của vũ trụ, và tan biến mất trong đó.

Nhiều nguồn khác cũng nói những điều tương tự. Judith Lasater, có lẽ là giáo viên yoga nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ, mô tả “bản chất đích thực của việc thực hành” là giác ngộ, để “trải nghiệm thực tại không phải như những phần tách biệt của chúng ta, nhưng như một hữu thể duy nhất.” Anusha Wijeyakumar, một giáo viên yoga và tác giả có tiếng khác, nói rằng “mục tiêu tối hậu của yoga… là samadhi — sự hợp nhất sau cùng với thần và ý thức thiêng liêng… Yoga hám chứa rất nhiều chứ không chỉ là asana (các tư thế thể lý).”

Một mantra, tức bài kinh cầu của Ấn Độ giáo đi kèm các tư thế thể lý, là: “Tôi là những gì tôi nói tôi là.” Xét việc Thiên Chúa tự xưng trong sách Xuất hành 3,14, điều này trông rất giống một nỗ lực biến con người thành Thiên Chúa. Đây là một tuyên bố triết học cấp tiến dẫn đến một lối linh đạo đặc thù.

Ngược lại, Thánh Gioan Thánh Giá mô tả rằng linh hồn yêu mến Thiên Chúa sẽ phản chiếu ánh sáng của Người đến mức giống như chính Thiên Chúa, nhưng vẫn tách biệt về bản thể. Đức Hồng Y Ratzinger, khi khảo sát các hình thức chiêm niệm Kitô giáo, đã viết năm 1989 rằng “mọi khát vọng mà lời cầu nguyện của các tôn giáo khác biểu lộ đều được toại nguyện vượt xa mọi mức độ, nơi thực tại Kitô giáo, mà không làm cho bản thân người cầu nguyện hay bản tính của thụ tạo bị hòa tan hay biến mất vào biển cả của [Đấng] Tuyệt Đối.” Hiệp nhất với Thiên Chúa là khao khát cao quý, nhưng con đường Đông phương và con đường Kitô giáo khác nhau một cách căn bản.

Lập luận ủng hộ yoga phổ biến nhất là loại bỏ phần “thiêng liêng” sâu xa và chỉ tập trung vào hành động thể lý của việc co giãn. Những người Công Giáo ủng hộ yoga cho rằng chỉ cần thực hiện các “tư thế”—vốn tôn vinh các thần Ấn Độ giáo có vấn đề về luân lý và luôn là một thực hành thiêng liêng của Ấn giáo—thì vẫn tốt nếu ta chỉ có ý định tập thể dục. Nhưng lập luận này có đứng vững không?

Để tìm hiểu, ta hãy hỏi: có đúng là một hành vi—ví dụ, thực hiện một tư thế yoga—không có ý nghĩa nào vượt ngoài ý định của người thực hiện không? Thánh Tôma Aquinô lập luận rằng thật ra các hành vi có một ý nghĩa khách quan: “Điều tốt hay xấu mà hành vi bên ngoài tự nó mang… không bắt nguồn từ ý chí, mà từ lý trí” (ST I-II, q. 20, a. 1). Hành vi có bản chất riêng của nó: phẩm chất của hành vi bên ngoài được rút ra từ lý trí hơn là từ ý định của người thực hiện. Tương tự, Sách Giáo Lý dạy rằng để một hành vi là tốt, nó phải có đối tượng luân lý tốt, vốn là điều gắn liền với bản chất hành vi và độc lập với ý định. “Một ý định tốt… không làm cho một hành vi vốn sai lệch trong bản chất trở nên tốt hay chính đáng” (1753).

Vậy “hành vi” kéo giãn theo yoga có “sai lệch trong bản chất” không? “Đối tượng luân lý” của các tư thế này là gì? Bản thân các yogi chỉ ra điều đó, dù họ không nói quá thẳng thắn. Các tư thế nhằm đánh thức kundalini, năng lượng của linh hồn, gắn liền với các thần Ấn Độ giáo. Năng lượng đó khởi đầu ở đáy cột sống, được mô tả như “nữ thần rắn đang ngủ.” Yoga làm cho con rắn đi lên cột sống để chiếm hữu linh hồn, giúp người tập nhận ra “Chân Ngã,” tự đặt mình dưới ách các thần linh đó. Bikram Choudhury, người sáng lập một trong các loại hình yoga phổ biến nhất, nói rằng những gì xảy ra với chuỗi tư thế của ông là: “Bạn đánh thức kundalini. Bạn trở thành Chúa Giêsu Kitô. Hoặc Phật. Công thức yoga của tôi hiệu quả cho mọi người.”

Một trong những đạo sư chính đưa yoga sang phương Tây, B.K.S. Iyengar, viết rằng một tư thế yoga đích thực “là tư thế mà trong đó tư tưởng về [thần tối cao của Ấn Độ giáo] tuôn chảy một cách tự nhiên và liên tục vào tâm trí của người tập.” Judith Lasater nói rằng “bản chất nội tại của yoga là ta không thể tách các asana khỏi những khía cạnh khác của việc thực hành.” Alexandria Crow, một “chuyên gia” yoga nổi tiếng, nói: “Các tư thế thật ra chỉ là phương tiện để truyền dạy triết lý [của yoga].” Theo một cây bút của tạp chí Yoga Journal—nguồn yoga có lưu lượng truy cập lớn nhất ở Hoa Kỳ—lý do của điều này là một đổi mới của cha đẻ yoga hiện đại, Krishnamacharya, người “đã biến các tư thế thành một phần không thể tách rời của thiền định thay vì chỉ là một bước dẫn đến thiền.”

Điều đáng chú ý là ý định chủ quan có xu hướng tự điều chỉnh để phù hợp với đối tượng luân lý thông qua việc thực hành lặp đi lặp lại. Hai khảo sát khoa học cho thấy, mặc dù hầu hết mọi người bắt đầu tập yoga vì lợi ích sức khỏe, nhiều người ở lại với nó để đạt được sự thực chứng mang tính thiêng liêng này. Cha Joseph-Marie Verlinde, người từng đi sâu vào yoga trước khi trở lại đạo, đã nói với vị đạo sư của mình rằng người phương Tây chủ yếu tập yoga để thư giãn. Đạo sư “cười dữ dội” rồi nói: “Điều đó không ngăn được yoga tạo ra tác động của nó.”

Tóm lại, thật khó mà phủ nhận rằng hệ thống làm phát sinh yoga, bao gồm các tư thế, tôn vinh các thần Ấn Độ giáo và nhằm trói buộc người tập một cách thiêng liêng với các thần đó. Trong khi đó, Kinh Thánh nói rằng “mọi thần của chư dân chỉ là ngẫu tượng” (Tv 96,5—bản dịch cũ dùng từ “quỷ dữ” thay vì “ngẫu tượng”), và Giáo Hội có lập trường mạnh mẽ chống lại sự thờ ngẫu tượng (Xh 20,1-4; GLHTCG 2110). Khó có thể tưởng tượng người Công Giáo nào lại chạy đến phòng gym để thực hiện “tư thế cúi chào Ba’al,” vậy mà những “ngẫu tượng” hay “quỷ dữ” trong thực hành thiêng liêng của Ấn Giáo lại được bỏ qua dễ dàng.

Nhưng liệu chúng ta có thật sự mở cửa cho ma quỷ chỉ bằng cách đặt thân thể mình vào một số tư thế nào đó, như trong bài báo châm biếm của Babylon Bee nơi một thợ sửa ống nước vô tình bị quỷ ám? Norman Sjoman, một học giả từng thực hành và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Krishnamacharya, cha đẻ yoga hiện đại, đã kết luận rằng “điều làm cho một điều gì đó trở thành yoga không phải là làm gì, mà là làm như thế nào.” Và nhiều tư thế trong yoga bắt nguồn từ thể dục dụng cụ phương Tây và giống với các tư thế trong các bài tập thể hình thông thường. Tương tự như vậy, ăn một miếng bánh tròn bên ngoài bối cảnh Kitô giáo thì không có ý nghĩa thiêng liêng nào, nhưng rước Mình Thánh trong thánh lễ Công Giáo lại khơi dậy những hiệu quả thiêng liêng (hoặc án phạt thiêng liêng) vượt quá ý định chủ quan của người lãnh nhận. Vì vậy, việc thực hiện các tư thế này trong bối cảnh yoga, như một phần của việc thực hành yoga, bất kể ý định chủ quan, khiến chúng trở thành phương tiện để thúc đẩy linh đạo của yoga. Chúng trở thành một “bí tích,” theo nghĩa rộng—một dấu chỉ hữu hình của một hoạt động thiêng liêng sâu hơn.

Vì vậy, đúng theo nghĩa đen mà nói, các tư thế được thực hiện tách rời (không kèm theo các yếu tố tôn giáo hay thiền định) hầu như chắc chắn là ổn. Nhưng kinh nghiệm cá nhân của tôi trong thế giới yoga không khuyến khích tôi tham gia vào nó, cũng như gánh nặng thiêng liêng to lớn gắn liền với nó. Hầu như không thể tránh khỏi việc tham gia vào các yếu tố thiêng liêng của yoga, vốn gây vấn đề nếu chúng ta muốn tránh tôn vinh những vị thần sát nhân và mở lòng mình với các niềm tin thiêng liêng của yoga.

Có rất nhiều cách để rèn luyện thể chất mà không mang gánh nặng đó—đáng chú ý là Pietra Fitness—vừa mang lại lợi ích thể chất tương tự vừa đưa người tập vào tương quan yêu thương với Thiên Chúa dựa trên chân lý. Vậy tại sao lại chọn yoga, khi rủi ro quá cao và lợi ích lại tương đối thấp?

Chuyển ngữ từ Should Catholics Practice Yoga?

* For the gruesome details, see Christopher Wallis, Tantra Illuminated: The Philosophy, History, and Practice of a Timeless Tradition (Audible Audiobook Edition, 2016), ch. 100, 12:47:08; James Mallinson, The Khecarividya of Adinatha: A Critical Edition and Annotated Translation of an Early Text of Hathayoga, (New York: Routledge, 2008), p. 186, note 129; and David White, The Alchemical Body: Siddha Traditions in Medieval India (Chicago: University of Chicago Press, 2012), pp. 236-237. (“Goraksha kills and skins the boy, scrubs his skin like a washerman to remove all its bodily impurities and hangs his skin on the roof to dry, like the hide of some skinned beast.”)

Share:

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

Tôi hy vọng sớm gặp lại bạn ở hai nơi ấy -- CN thứ II Mùa Vọng, năm A

Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. -- Mt. 3:1-12

Đừng né tránh hay làm ngơ trước “tin xấu”. Tất cả các ngôn sứ, và đỉnh điểm là Gioan Tẩy Giả, đều nói với chúng ta về tin xấu của tội lỗi. Chúng ta cần biết điều đó. Chúng ta cần biết chẩn đoán của vị bác sĩ về căn bệnh của mình, cũng như biết trước tiên lượng chữa lành của Ngài. Nếu không có tin xấu, thì tin mừng sẽ không còn là tin mừng...

Nhưng dĩ nhiên, cũng đừng làm ngơ trước Tin Mừng – Phúc Âm. Toàn bộ sứ mạng của Gioan là để chuẩn bị cho điều đó, giống như mục đích của tấm phim X-quang là chuẩn bị cho ca phẫu thuật chữa lành.

Cũng như các môn đệ Gioan, chúng ta cũng có một dòng sông Giođan để tắm gội: đó chính là bí tích Thánh Tẩy. Và khác với nước sông Giođan, nước của bí tích Rửa Tội thật sự thanh tẩy chúng ta; nó thật sự ban cho chúng ta ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nó không chỉ là biểu tượng, nhưng là một quyền năng do chính Thiên Chúa ban.

Khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, nước không làm thay đổi Người; chính Người làm thay đổi nước. Nước không rửa sạch tội cho Người, vì Người không có tội; nhưng Người đã ban cho mọi nguồn nước trên thế gian quyền năng trở nên khí cụ của Người để tẩy sạch tội nguyên tổ trong bí tích Rửa Tội. Khi Người được dìm trong nước, thì thật ra chính nước được dìm trong Người.

Chúng ta biết mình sẽ còn phạm tội; đó là lý do bí tích Hòa Giải không phải là điều chỉ lãnh nhận một lần như Rửa Tội. Chúng ta giống như những đứa trẻ nhỏ: vừa rửa sạch xong lại bị dơ. Vì thế chúng ta phải thường xuyên trở lại phòng tắm. “Phòng tắm” của chúng ta chính là tòa giải tội. Và giống như nước của Rửa Tội, bí tích này không chỉ là một biểu tượng, mà là một quyền năng thật sự. Bạn bước vào tòa giải tội trong tình trạng nhơ nhớp, và bước ra tinh sạch.

Cái mà Thánh Phaolô gọi là “con người cũ” bước vào, và “con người mới” bước ra. Ma quỷ căm ghét và sợ hãi nơi đó hơn bất cứ nơi nào khác trên thế gian, ngoại trừ bàn thờ — nơi Đức Kitô, ẩn mình dưới hình bánh nhỏ bé, ngự xuống trên bàn thờ, rồi một lát sau đi vào miệng bạn, linh hồn bạn, và đời sống của bạn.

Tôi hy vọng sớm gặp lại bạn ở hai nơi ấy — hai nơi thánh thiện nhất, hạnh phúc nhất và lành mạnh nhất trên trần gian. -- Dr. Peter Kreeft

Share:

Ngài là Ađam mới, hồi phục vườn Êđen; là Môse mới giải thoát chúng ta khỏi sự chết -- CN thứ II Mùa Vọng, năm A

Nếu năm câu đầu (Is 11,1–5) chủ yếu là về chủ đề “Đavít mới — vương quốc mới”, thì sang câu 6, hình ảnh chuyển sang bối cảnh Vườn Êđen:

Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. (Isaia 11:6

Đây là sự hồi phục của nền hòa bình nguyên thủy của Vườn Êđen, thể hiện qua việc ăn chỉ trái cây thời ban sơ dành cho cả người và thú vật (St 1,30). “Một cậu bé” trong câu 7 ban đầu có lẽ chỉ là một phần của biểu tượng hòa bình, nhưng về mặt thiêng liêng có thể được hiểu như hình ảnh Hài Nhi Giêsu, Đấng đã “hiện diện” giữa các loài vật trong hang đá khi Ngài giáng sinh, biến nơi bé nhỏ ấy của Bêlem thành một Êđen mới trong đêm Nhập Thể.

... Sấm ngôn trở nên phức tạp, nhưng kết thúc ở câu cuối với hình ảnh rõ ràng của một cuộc Xuất Hành mới:

Đức Chúa sẽ khiến khô cạn vịnh biển Ai Cập, vung tay trên sông Cả (Euphrates) bằng cơn gió mạnh, dữ dội; Người sẽ chia sông ấy thành bảy nhánh, để có thể lội qua chỉ với đôi dép.(c. 15)

Như xưa Thiên Chúa đã cho Môsê dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập bằng cách vượt qua Biển Đỏ, thì nay Thiên Chúa sẽ làm trỗi dậy “chồi từ gốc Giêsê” — chính là vị Vua Đavít mới được hứa ban ở phần mở đầu (cc. 1–5) — và Ngài sẽ dẫn những người sống sót của Israel vượt qua sông Euphrates, con sông ngăn cách Israel và các dân lân bang với Assyria, đế quốc gian ác đã lưu đày các chi tộc miền Bắc đến những vùng xa xôi.

Đức Giêsu là Đavít mới của chúng ta, là Vua mới của chúng ta, Đấng cai quản Hội Thánh và mọi dân nước — như chúng ta đã cử hành gần đây trong lễ Chúa Kitô Vua. Ngài trị vì trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần, khiến chúng ta vâng phục Ngài vì tình yêu, tự do và nồng nhiệt hơn bất kỳ vị vua trần thế nào từng được tuân phục.

Đức Giêsu là Ađam mới, Đấng đưa chúng ta trở lại Êđen bằng cách ban cho chúng ta được lãnh nhận trái của Cây Sự Sống trong Thánh Thể và những dòng Nước Sự Sống trong Bí Tích Thánh Tẩy, để chúng ta được ăn, được uống và được sống đời đời.

Đức Giêsu là Môsê mới, Đấng dẫn chúng ta thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và Satan. Ngài dẫn chúng ta vượt qua dòng sông của Bí Tích Rửa Tội bước vào tự do của những người con Thiên Chúa, và thiết lập cho chúng ta một ngôi nhà trên Núi Sion mới — tức là Hội Thánh, Nhiệm Thể và Đền Thờ Mầu Nhiệm của Ngài.

Suy niệm cho bài đọc Tin Mừng: Mt. 3:1-12

Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

Ngay cả trong thời của mình, Gioan đã được mọi người nhìn nhận như một ngôn sứ vĩ đại, được dân chúng kính trọng và cả giới lãnh đạo cũng phải e dè. Thế nhưng, Đấng đến sau ông lại cao trọng đến nỗi chính Gioan—một ngôn sứ sánh ngang với Êlia vĩ đại—cũng “không xứng đáng xách dép cho Người”, việc làm của một nô lệ. Ai có thể cao trọng hơn vị ngôn sứ vĩ đại nhất, nếu không phải là Đấng mà vị ngôn sứ ấy loan báo, tức chính Thiên Chúa?

Đấng Đang Đến sẽ thanh tẩy “bằng Thánh Thần và lửa”. Đây rất có thể là một biện pháp văn chương gọi là hendiadys — “một ý qua hai từ” — tức một ý nghĩa được diễn tả bằng hai từ ghép lại. Vì thế ta có thể dịch: “Người sẽ thanh tẩy bằng ngọn lửa của Chúa Thánh Thần” hoặc “ngọn lửa chính là Chúa Thánh Thần”. Nhưng Gioan rõ ràng liên kết “lửa” với phán xét cánh chung: “rơm rạ Người sẽ đốt trong lửa không hề tắt”.

Điều này thật thú vị, vì nó cho thấy các bí tích là những “nếm trước” của cuộc phán xét sau cùng. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta khôn ngoan khi được phán xét ngay bây giờ qua các bí tích để khỏi phải chịu phán xét sau này. Trong bí tích Rửa Tội, con người tội lỗi của chúng ta bị phán xét và bị “chết chìm”, để chúng ta không phải chịu cái chết đời đời mai sau.

Tương tự, trong bí tích Thêm Sức, con người tội lỗi của chúng ta được đốt cháy bởi Chúa Thánh Thần để chúng ta không phải trải qua ngọn lửa hỏa ngục sau này. Như thế, Đức Giêsu thật sự “thanh tẩy chúng ta bằng lửa” theo nghĩa cánh chung khi chúng ta gặp gỡ Người trong các bí tích. Các bí tích là nếm trước cuộc phán xét sau cùng.

Đây cũng là lý do Hội Thánh đôi khi áp dụng vạ tuyệt thông: bởi vì lãnh nhận Thánh Thể là một kinh nghiệm có tính “nếm trước” đầy nguy hiểm của cuộc phán xét chung.

Đó chính là hàm ý trong lời cảnh báo của Thánh Phaolô trong 1 Cr 11,27–32:

Vì thế, bất cứ ai ăn bánh hay uống chén của Chúa cách bất xứng thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Vì vậy, mỗi người phải tự xét mình, rồi hãy ăn bánh và uống chén ấy. Ai ăn uống mà không phân biệt được thân mình Chúa, thì là ăn uống án phạt cho chính mình. Vì lẽ đó mà nhiều người trong anh em yếu đuối, bệnh tật, và không ít người đã chết. Nhưng nếu chúng ta xét mình đúng đắn, thì chúng ta sẽ không bị xét xử. Còn khi chúng ta bị Chúa xét xử, ấy là để được sửa dạy, hầu khỏi bị kết án cùng với thế gian.

Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung Đức Giêsu qua cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, và Gioan thấy Chúa chúng ta như Đấng Phán Xét cánh chung, Đấng thanh tẩy bằng “lửa” của thời sau hết. Điều này đem lại cho chúng ta một cái nhìn rất nghiêm túc về các bí tích và thúc đẩy chúng ta thực hiện một cuộc xét mình chân thành, siêng năng lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải, kẻo chúng ta tham dự một cách bất xứng vào bất cứ bí tích nào khác, nhất là Thánh Thể. ---- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year A

Share:

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

Chúa nhật thứ I Mùa Vọng: Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 24:37-44)

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.

“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”


Từ Dr. John Bergsma

Các chủ đề của Tin Mừng hôm nay rất giống với chủ đề của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai. Chúng ta nhờ đó thấy được lòng trung thành của Thánh Phaolô đối với Tin Mừng đã được rao giảng (không biến đổi nó).

Chúa Giêsu dùng trận lụt thời Nô-ê như một biểu tượng của ngày cánh chung. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,” tất cả những hình ảnh của dục lạc. Khi ngày tận thế đến, hầu hết thế giới sẽ bị phân tâm bởi việc tìm kiếm lạc thú trong cuộc đời này.

Những lời tuyên bố này của Chúa về “một người được đem đi, một người bị bỏ lại” và sự xuất hiện của “kẻ trộm khi đêm đến” đã làm nảy sinh “tín điều” của thời hiện đại về “rapture / việc được đem đi,” một khái niệm về sự tái lâm của Đức Kitô, khi mà những người tin vào Chúa đột nhiên được “đưa lên” khỏi trái đất và những người không tin sẽ bị bỏ lại đàng sau và sẽ phải trải qua một đại nạn trước khi tận thế. Đây không là một tín điều trong truyền thống của Kitô giáo. “Rapture / việc được đem đi” được đưa ra bởi John Nelson Darby, một mục sư Plymouth Brethren vào những năm 1800. Carl Olson đã xuất bản “Will Catholics Be Left Behind: A Critique of the Rapture and Today's Prophecy Preachers / Liệu người Công giáo sẽ bị bỏ lại đằng sau”, phê bình rất chính xác về thuyết lý này.

Bài đọc I và Thánh Vịnh trình bày đời sống Kitô hữu như một cuộc “hành hương” đến Sion. Bài đọc hai và Tin Mừng trình bày đời sống Kitô hữu là một cuộc sống đòi hỏi có sự “tỉnh thức” và từ bỏ những đam mê nhục dục ở đời này. Hai hình ảnh có thể được kết hợp làm một cách sống. Trong một cuộc hành hương, người ta không bị lôi cuốn theo việc tìm kiếm lạc thú. Ban ngày bạn phải đi bộ nhiều giờ trên camino / đường và ngủ ở nơi bạn có thể—đôi khi ở những nơi khắc khổ—vào ban đêm. Và nếu bạn tạo nên thói quen dừng chân và “hưởng vui chơi”, bạn sẽ không thể nào đạt đến đích. Các bài đọc trong Thánh lễ này kêu gọi chúng ta lần nữa dấn thân sống cuộc đời hiện tại như một cuộc hành hương về núi Sion trên trời.

_____________

Từ Dr. Brant Pitre

Vậy Chúa Giêsu đang nói về điều gì? Đoạn Phúc âm này nói về điều gì? Điều đầu tiên tôi muốn nói ở đây, và điều này rất quan trọng, là nhấn mạnh rằng mặc dù một số Kitô hữu (Tin Lành) cho rằng Chúa Giêsu đang nói về việc những kẻ tin Chúa chân thành được bí mật “rapture / đem đi khỏi” trái đất. Nếu họ thực sự tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ biến mất một cách bí ẩn và những người khác sẽ bị “bỏ lại đằng sau”. Nhưng đó không phải là điều mà Chúa Giê-su đang nói đến. Điều mà Chúa Giêsu đề cập đến trong đoạn Phúc âm này là về việc Chúa đến thứ hai trong ngày tận thế. Chúa Giêsu đang nói về phán xét cuối cùng, không phải việc được bí mật đem đi của những người thực sự tin vào Chúa.

Để tôi đưa ra cho bạn một vài lý do tại sao Ngài đang nói về cuộc phán xét cuối cùng, bạn có thể thấy điều đó bằng cách xem xét bối cảnh.

1. Mặc dù sách bài đọc Phúc âm không có câu này, nhưng câu ngay trước dòng đầu tiên “Thời ông Nô-e thế nào,” là câu nổi tiếng mà Chúa Giê-su nói “về ngày và giờ đó thì không ai biết được.” Và câu đó đề cập đến thời điểm trời và đất sẽ qua đi, không ai biết khi nào điều đó sẽ xảy ra, ngay cả các thiên sứ trên trời, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi. Vì vậy, sự liên quan đến ngày giờ đó là ngày cánh chung, ngày phán xét cuối cùng. Đó là điểm đầu tiên, bối cảnh nói về sự phán xét cuối cùng.

2. Việc Chúa Giê-su ám chỉ thời Nô-ê cho bạn thấy rằng đây là sự phán xét của vũ trụ, sự phán xét của toàn thế giới. Bởi vì vào thời Nô-ê, nếu bạn quay trở lại sách Sáng thế chương 6-9 đọc, những gì Sáng thế mô tả là một trận lụt toàn cầu, nơi tất cả những kẻ ác trên toàn thế giới đều bị diệt vong trước sự phán xét của Chúa, và chỉ một số ít người, tám người, được cứu thoát khỏi sự phán xét của Chúa. Vì vậy, Chúa Giêsu đang đưa ra một sự so sánh. Cũng như trong thời Nô-ê, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, và không chuẩn bị cho cuộc đại hồng thủy, cuộc phán xét toàn cầu, thì khi Con Người quang lâm, nhiều người sẽ vẫn mải mê với những thứ của thế gian này, và họ sẽ không có sự sẵn sàng cho cuộc phán xét cuối cùng. Họ sẽ không sẵn sàng cho parousia, từ Hy Lạp về việc Con Người đến, khi Người sẽ phán xét trần gian. Giống như Chúa phán xét cả thế giới vào thời điểm lũ lụt.

3. Điều này thực sự quan trọng. Nếu bạn để ý, bạn có thể thấy rằng khi Chúa Giê-su nói một người được đem đi và một người bị bỏ lại, cho dù một người đàn ông được đem đi và một người đàn ông bị bỏ lại, hay một người đàn bà được đem đi và một người đàn bà bị bỏ lại (một lần nữa nếu bạn nghĩ về hình ảnh của lũ lụt làm nền cho những gì Ngài đang nói), điều gì đã xảy ra ở đây? Gia đình của Nô-ê đã được đem đí. Nói cách khác, họ đã được cứu khỏi sự phán xét của trận lụt, và những người bị bỏ lại; họ không bị bỏ lại để sống trên thế gian và có thời gian để ăn năn hay điều gì đó tương tự, họ bị lọt ra khỏi ơn cứu rỗi và trận lụt cuốn trôi đi, họ bị diệt vong trong sự phán xét của Chúa. Điều chủ yếu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây là sự phân chia giữa người công chính và kẻ ác sẽ diễn ra vào ngày phán xét cuối cùng.

Nếu bạn muốn một so sánh tương tự với điều này, bạn có thể xem chương tiếp theo trong sách Mát-thêu, dụ ngôn về chiên và dê trong Phúc âm Mát-thêu chương 25, nơi Chúa Giê-xu phân rẽ người công chính khỏi kẻ gian ác. Ngài phân biệt chiên với dê, và người công chính đi vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa Cha, trong khi những con dê đi vào lửa hủy diệt vĩnh cửu đã chuẩn bị sẵn cho ma quỷ và các thiên sứ của hắn. Vì vậy, đây là sự phân tách của ngày phán xét cuối cùng, nó không phải là về việc người tín hữu trung tín được đem đi cách bí ẩn. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn này, Chúa nói ngày Con Người quang lâm cũng vậy. Đây là ngày Chúa đến lần thứ hai chứ không là sự những người tín hữu chân thực được đem đi lên thiên đàng trong bí mật. Từ “rapture / được đem đi” đó không bao giờ được dùng đến.

4. Tất cả điều này rất rõ ràng nếu bạn nhìn vào phần kết của bài Phúc âm hôm nay, bởi vì đâu là điểm nhấn mạnh chính? Nó là bản chất bất ngờ của sự phán xét. Nói cách khác, bạn không biết chính xác khi nào Con Người sẽ đến vào ngày tận thế. Ngài sử dụng một vài hình ảnh khác nhau cho việc này. Ngài nói, hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Vì vậy Ngài nói hãy tỉnh thức, như thức canh chờ Con Người đến. Nhưng Ngài cũng dùng dụ ngôn kẻ trộm trong đêm. Vì vậy Ngài nói nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Và câu cuối cùng liên kết nó với câu trước đó trong Mát-thêu 24:35-6, Trời đất sẽ qua đi vào ngày giờ không ai biết cả.

Vì vậy, toàn bộ bối cảnh của đoạn văn này không là về việc được đem đi lên trời trong bí mật mà là về cuộc phán xét cuối cùng. Đó là về cuộc chờ đợi [Chúa đến] lần thứ hai. Đó là về parousia / sự xuất hiện của Chúa Kitô vào ngày tận thế. Đây là một phân tích ngắn thôi. Nếu bạn muốn biết thêm, tôi đã có một lớp học Kinh Thánh và về rapture / được đem đi với tiêu đề “Jesus and the End Times: A Catholic View of the Lats Days”. Trong đó, tôi đi qua những vấn đề khác của quan điểm “được đem đi.” Tôi chỉ muốn loại ý đó ra ở đây để bạn thấy rằng Giáo hội bắt đầu năm phụng vụ với Tin Mừng Mát-thêu, bắt đầu Chúa nhật đầu tiên của Mùa Vọng, không phải với một đoạn nói về việc được đem đi, về rapture. Giáo hội bắt đầu Chúa nhật thứ I của Mùa Vọng, với một đoạn Phúc âm nói về chờ đợi cuối cùng, về sự tái lâm của Chúa Kitô vào ngày tận thế, điều này cho chúng ta chút manh mối về những gì sắp diễn ra trong Mùa Vọng. Nó nói về việc chúng ta chuẩn bị, không chỉ mừng Lễ Giáng Sinh, khi Chúa đến lần đầu tiên, mà còn là chuẩn bị cho chúng ta cho Chúa đến lần cuối cùng, sự giáng lâm cuối cùng của Chúa Kitô vào ngày tận thế.

Share:

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2025

Catholic guilt / cảm giác tội lỗi của người Công giáo từ đâu đến?

Một hôm có bạn nêu ra vấn đề "Catholic guilt" / cảm giác tội lỗi của người Công giáo làm mình nhớ đến một câu chuyện của bản thân giúp mình hiểu Catholic guilt.

Câu chuyện là Ad có lần bị ho rất nặng, ho liên lỉ. Cuối cùng thử đi khám dị ứng. Bác sĩ tìm không ra dị ứng nào; bác sĩ đoán nguyên do và bảo vì mình ăn quá nhiều nhưng lại nói thầm với y tá giúp việc và mình nghe được.

Mình không mắc chứng ăn quá nhiều (thực sự khi còn bé nhớ ông thuốc ta nói biếng ăn biếng ngủ) nhưng có lẽ vì thức ăn người Việt không đủ cho mình khi bước vào những năm tuổi teen và bị chứng trào ngược bao tử từ khi còn rất trẻ.

Mỗi khi nhớ lại câu chuyện mình cảm thấy xấu hổ (giống như Catholic guilt) vì bác sĩ nghĩ vậy về mình. Nhưng giả sử bác sĩ ấy là mẹ của mình, mẹ sẽ nói: "Tội nghiệp con tôi, lớn lên ăn không đủ chất nên sinh ra chứng này", mình sẽ không xấu hổ mà cảm thấy được hiểu, được tôn trọng.

Cảm giác tội lỗi của Catholic guilt là biết tội mà chưa biết đủ về tình yêu của Chúa, mạnh mẽ như người cha và ân cần, dịu dàng như người mẹ.

Khi người Công giáo đi xưng tội và ý thức được tình yêu và lòng thương xót của Chúa, người ấy sẽ cảm thấy chút xấu hổ, nhưng cũng tràn ngập lòng biết ơn vì Chúa hiểu biết sự yếu đuối của ta và không chê ta bao giờ. Vì Chúa có thể biến ta thành người đạo đức tốt lành trong tích tắc với quyền năng của Ngài. Nhưng cách nào đó, Chúa biết rằng chúng ta cần nhân đức khiêm nhường hơn tất cả; nhân đức khiêm nhường giữ chúng ta trong một mối tương quan đúng đắn giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Đức tin giúp chúng ta biết Chúa đã yêu thương tôi đến nỗi đã hiến mạng để tôi được tinh tuyền, trong sạch, biết mình quý giá thế nào đối với Thiên Chúa.

Thiết nghĩ điều này cũng quan trọng: ta phải biết có một sự khác biệt thường bị nhẫm lẫn giữa "Catholic guilt" -- cảm giác tội lỗi của một người bình thường và scrupulosity - được dùng để chỉ một dạng rối loạn lo âu liên quan đến sự tội lỗi thái quá. Cảm giác tội lỗi không luôn là điều tệ vì nó có thể giúp chúng ta ý thức về lỗi lầm nào đó ta đã làm chứ không bỏ qua để tìm cách thay đổi bản thân. Nhưng dù là Catholic guilt hay rối loạn lo âu về tội thái quá, biết đến tình yêu và lòng thương xót của Chúa là nền tảng cần thiết để có thể tiến bước.

Share:

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2025

Phải chống lại cám dỗ

Phải chống lại cám dỗ. Sau khi đã khiêm tốn quy phục Thiên Chúa, chúng ta được lệnh phải chống lại ma quỷ. Ở phần còn lại của câu 7 trong chương 4, thánh Giacôbê nói, “Hãy chống lại ma quỷ, chúng sẽ chạy xa anh em” (Giacôbê 4, 7b). Chúng ta không thụ động nhượng bước trước tấn công của nó, nhưng phải đánh trả.

Tân ước thường mô tả đời sống Kitô hữu như một trận chiến thiêng liêng chống lại thế lực tội ác bằng việc sử dụng các thuật ngữ chiến tranh như chiến đấu, chế ngự, đấu tranh và đánh thắng. Kitô hữu thường được so sánh với những người lính đang chiến đấu trên đất quân thù.

Làm sao chúng ta có thể chống lại ma quỷ? Thánh Phaolô nói, “hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của thần khí ban cho, tức là lời Thiên Chúa” (Êphêsô 6, 17). Bước thứ nhất là tiếp nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bạn sẽ không thể nói không với ma quỷ nếu bạn đã không nói vâng với Đức Kitô. Không có Đức Kitô, chúng ta hoàn toàn vô phương tự vệ trước ma quỷ, nhưng với “mũ chiến đội đầu là ơn cứu độ” tâm trí chúng ta được bảo vệ bởi chính Thiên Chúa. Hãy nhớ điều này: nếu bạn là Kitô hữu, Satan không thể bắt ép bạn làm một chuyện gì, nó chỉ có thể gợi ý.

Thứ đến, bạn phải dùng lời của Thiên Chúa làm vũ khí chống lại Satan. Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta khi ngài chịu cám dỗ trong sa mạc. Mỗi lần Satan đưa ra một đề nghị mời mọc, ngài chống lại bằng cách trích dẫn một câu lời chúa. Ngài không tranh luận với Satan. Ngài đã không nói, “tôi không đói” khi bị cám dỗ dùng quyền năng mình để đáp ứng nhu cầu bản thân. Ngài chỉ đơn giản trích dẫn lời Chúa đã thuộc lòng. Lời Thiên Chúa có quyền năng và Satan sợ điều đó.

Đừng bao giờ tìm cách tranh luận với ma quỷ. Nó giỏi hơn bạn nhiều, bởi đã có hàng ngàn năm tập luyện. Bạn không thể đánh lừa Satan với lý luận hoặc quan điểm của bạn, nhưng bạn có thể dùng thứ vũ khí vốn làm nó phải run sợ - chân lý của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao thuộc lòng Kinh Thánh là tuyệt đối cần thiết để đánh bại cám dỗ. Bạn có thể đọc thật nhanh bất cứ khi nào bạn bị cám dỗ. Như Đức Giêsu, bạn đã cất giữ chân lý trong lòng, và nhớ lại bất cứ khi nào.

Nếu bạn không thuộc lòng một câu Kinh Thánh nào, thì khác chi bạn có súng mà bên trong không có đạn! Tôi thách thức bạn học thuộc lòng mỗi tuần một câu lời Chúa trong quãng đời còn lại. Hãy hình dung bạn sẽ mạnh mẽ biết bao. -- Trích từ Sống theo đúng mục đích

Share:

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2025

Nhờ kiên trì, anh em sẽ cứu được mạng sống mình -- Chúa Nhật thứ XXXIII Mùa Thường niên, năm C

Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. 18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19 Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Luca 21:5-19)

Rõ ràng Chúa Giêsu nói ở phần đầu đoạn Kinh Thánh này về sự hủy diệt hoàn toàn của Đền Thờ Hêrôđê vào năm 70 sau Công nguyên (tức là Đền Thờ được bắt đầu xây bởi Hêrôđê Cả và hoàn tất vào năm 66). Nhiều người đặt câu hỏi về cái gọi là “Bức tường Than khóc” ở Giêrusalem: chẳng phải những phiến đá của Bức tường Than khóc là một phần của Đền Thờ sao, và điều này có phủ nhận lời tiên báo của Chúa Giêsu không? Thực ra, Bức tường Than khóc là một phần của bức tường kè được xây để tạo nên một quảng trường phẳng rộng rãi cho Đền Thờ và các hành lang của nó. Bức tường ấy không phải là một phần của Đền Thờ. Đền Thờ thực sự nằm hơi về phía bắc của Đền Mái Vòm hiện nay (Dome of the Rock), và không còn một dấu tích nào sót lại.

Trong phần kế tiếp của Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu mô tả những biến cố dẫn đến cuộc tàn phá Giêrusalem năm 70. Sử gia Do Thái Flavius Josephus ghi lại những dấu hiệu kinh hoàng trên trời và dưới đất xảy ra trước tai họa này trong tác phẩm “Cuộc Chiến Do Thái” (The Jewish War).

Đồng thời, Giêrusalem là Thành Thánh, trung tâm của thế giới, rốn của vũ trụ, một vũ trụ thu nhỏ của Đền Thờ hoàn vũ. Như Josephus viết:

“Vì nếu ai chịu khó xem xét cấu trúc của Nhà Tạm, và nhìn vào y phục của thượng tế cùng những vật dụng được dùng trong phụng vụ thánh, người ấy sẽ thấy… mọi thứ đều được tạo nên như một sự mô phỏng và biểu tượng của vũ trụ.”
(Jewish Antiquities 3:180)

Vì thế, điều xảy ra với Giêrusalem năm 70 là một hình bóng và dấu chỉ cho điều sẽ xảy ra với toàn thể vũ trụ. Do đó, lời của Chúa Giêsu cũng hoàn toàn đúng khi được hiểu như nói về ngày tận thế.

“Trước khi tất cả những điều ấy xảy ra…”

Chúa nói:
- Họ sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em,
- giao nộp anh em cho các hội đường và nhà tù,
- điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy.
- Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.
- Anh em đừng lo phải bào chữa thế nào,
- vì chính Thầy sẽ ban cho anh em lời lẽ khôn ngoan,
- đến nỗi mọi kẻ chống đối anh em đều không thể chống lại hay bác bỏ.
- Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè cũng sẽ nộp anh em,
- và một số người trong anh em sẽ bị giết chết.

Những điều này được ứng nghiệm trong sách Công vụ Tông đồ, khi trong những năm 50–60 sau Công nguyên, các Tông đồ bị bắt bớ, bị giải đến trước hội đường, nhà tù, vua chúa, quan quyền, và một số bị giết—tất cả xảy ra trước khi Giêrusalem bị phá hủy năm 70. Đồng thời, những cuộc bách hại này luôn là đặc điểm của Hội Thánh trong suốt lịch sử và sẽ trở nên mãnh liệt hơn ngay trước ngày Chúa quang lâm.

“Anh em sẽ bị mọi người thù ghét vì danh Thầy.”

Sự thù ghét của người đời là một gánh nặng đặc biệt đối với Kitô hữu, vì chúng ta khao khát tình yêu và sự hoán cải của họ. Chúng ta không chúc dữ điều gì cho ai, nhưng vì chúng ta không chấp nhận những lối sống và niềm tin sai lạc, nguy hại và trái với ý Chúa, nên ta bị chống đối và oán ghét.

“Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất.”

Vì Chúa Giêsu thừa nhận rằng một số sẽ bị giết, nên câu này không thể hiểu theo nghĩa giản đơn rằng người tín hữu sẽ không bị tổn hại thể xác.

Câu này phải được hiểu theo nghĩa của thời cánh chung, thời điểm cuối cùng: người tín hữu sẽ không bị tổn hại vĩnh viễn, vì thân xác họ sẽ được phục sinh toàn vẹn. Như thế, chủ đề phục sinh—trọng tâm của các bài đọc tuần trước, được nối kết lại.

“Nhờ kiên trì, anh em sẽ cứu được mạng sống mình.”

Sự kiên trì là một hình thức của nhân đức can đảm—khả năng chịu đựng đau đớn và thử thách.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự kiên trì cần thiết trong thời đại đầy bách hại đang dần hình thành, để chúng ta trung tín đến cùng và nhận lại thân xác trong ngày phục sinh, không thiếu một sợi tóc.-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

Tôi có nên lên Rước lễ?

Lời từ video

Xin chào, tôi là Cha Mike Schmitz, cho Kênh Ascension Presents.

Khi còn trong đại học, chúng tôi thường làm cho các linh mục thức rất khuya. Lễ chính của sinh viên là lúc 9 giờ tối, rất trễ. Và tôi nhớ có một người bạn thân của tôi, anh ấy đi lễ mỗi Chúa Nhật. Nhưng khi mọi người đứng dậy ra khỏi hàng để lên rước lễ, anh ấy vẫn ngồi yên trong ghế. Tôi nghĩ anh ấy đang tự nhủ: Mình thật tệ. Mình là kẻ duy nhất không lên rước Chúa hôm nay. Mình không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể ngày Chúa nhật này, vì những gì mình đã làm tối thứ Sáu, hoặc thứ Bảy.

Tôi không phán xét và chỉ nghĩ, anh ấy biết rõ chính mình. Anh biết mình đang trong tình trạng không thể rước Mình Thánh Chúa. Tôi nghĩ anh ấy thấy đó là một thất bại, là một sự thiếu sót trong việc làm chứng cho Chúa Giêsu. Nhưng tôi nhớ khi nhìn anh, tôi đã nghĩ: Người này hiểu được điều đó. Khi không lên rước lễ, anh đang tôn kính Chúa hơn nhiều người trong chúng tôi những người vẫn lên rước lễ trong tình trạng không xứng đáng.

Thánh Phaolô viết về điều này trong thư I gửi tín hữu Côrintô, chương 11. Ngài nói có những người đi lễ nhưng rước Mình và Máu Chúa một cách bất xứng, và vì thế họ mang tội xúc phạm đến chính cái chết của Người.

Nếu ta rước lễ trong tình trạng tội trọng, rước lễ trong tình trạng bất xứng, đó là một tội trọng khác. Thánh Kinh nói điều đó rõ ràng và nghiêm trọng. Thế nhưng, biết bao lần chúng ta đến bàn thánh một cách vô tư, mà không xét mình: Tôi có đang ở trong tình trạng ân sủng không? Tôi có ý thức mình đang mắc tội trọng không?

Chúng ta biết ba điều kiện để một tội trở thành tội trọng: Vậy nếu tôi biết mình đã bỏ lễ Chúa Nhật, đó là một lỗi phạm nặng. Nếu tôi biết đây là lỗi phạm nặng và vẫn cố tình làm, thì đó là tội trọng. Tôi không thể rước lễ.

Và trước lễ, nếu tôi đã phạm một tội trọng, dù biết rõ và vẫn cố ý, thì tôi cũng không thể rước lễ, vì rước lễ lúc đó, tôi sẽ phạm một tội trọng khác.

Chúng ta được mời gọi đi lễ, nhưng phải kiêng rước lễ nếu ý thức mình đang phạm tội trọng.

Ngôn ngữ của Thánh Phaolô rất nghiêm trọng: tôi đã được giải thích là khi rước lễ bất xứng, ta trở nên “đồng phạm” trong cái chết của Chúa Kitô. Một điều khá nặng nề.

Có vài điều cần lưu ý: Để phạm tội trọng, phải hội đủ ba điều kiện: Lỗi phạm nặng, ý thức là điều nặng và vẫn chọn làm điều đó. Nếu bạn không biết điều đó, nó vẫn là tội, nhưng bạn không mắc lỗi, không mang tội về mặt luân lý. Nhưng giờ bạn đã biết.

Rước lễ trong tình trạng tội trọng là một tội khác nữa. Nhiều người nói: Cứ lên rước lễ. Thánh Thể là thuốc cho tội nhân, không phải phần thưởng cho người công chính. Đúng, Thánh Thể là thuốc chữa cho người bệnh, nhưng không phải cho người đã chết. Tội trọng là sự chết thiêng liêng. Nếu ai đó nói với bạn: Không sao, cứ lên rước lễ dù đang ở trong tội trọng. Đó là lời sai lầm. Tôi không bao giờ khuyên điều đó, vì Lời Chúa và Giáo Hội đều ngăn cấm rõ ràng. Bạn cần nhớ điều đó.

Nhưng nếu bạn không chắc thì sao? Nếu bạn đi lễ mà tự hỏi: Mình có phạm tội trọng không nhỉ? Có phải tội đó là tội trọng không? Và đầu óc bạn cứ quay cuồng.

Đây là lời khuyên tôi nhận được, và muốn truyền lại cho bạn. Tôi sẽ sống theo có lẽ đến tận ngày tôi mất đi là: Khi nghi ngờ, hãy rước lễ và rước với tâm hồn bình an. Vì ba điều kiện của tội trọng là:   Nếu bạn không biết chắc, thì chưa đủ điều kiện để là tội trọng.

Hơn nữa, nếu bạn là ma quỷ, và muốn ngăn con người đến gần trái Chúa, bạn sẽ làm gì? Điều xảy ra có lẽ là, ngay trong giây phút rước lễ, khi con người được đến gần Chúa và hiệp thông với Ngài, ma quỷ sẽ tìm cách làm bạn xao lạc, bằng cách gieo vào tâm trí bạn: “Khoan, mình có đang ở trong ân sủng không? Có nên lên không? Đó chính là sự phân tâm mà hắn muốn tạo ra ngay trong giây phút thân mật giữa linh hồn và Chúa.

Khi không chắc chắn, hãy rước lễ. (2x) Bởi tiếng nói bảo bạn không nên đến gần Chúa là tiếng nói sai lầm.

Người bạn thời đại học của tôi, người đã không lên rước lễ, lại là một chứng nhân mạnh mẽ hơn cho sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Thánh Thể, và cho tình yêu của Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người đến gần Ngài hơn bất cứ ai khác trong đời tôi. Anh ấy hiểu hai điều:  1.  Chúa muốn tôi ở đây. Tôi phải đi lễ ngày Chúa Nhật. 2.  Nhưng với tình trạng linh hồn của tôi hiện tại, tôi chưa thể rước Chúa.

Lời tuyên bố: Tôi cần phải đi lễ, nhưng tôi không thể rước Chúa lúc này, đã truyền cảm hứng cho tôi về việc yêu mến Chúa Giêsu trong Thánh Thể hơn bất kỳ cuốn sách nào tôi từng đọc. Đó là chứng tá của một người tưởng mình thất bại, nhưng thật ra đang làm chứng cho quyền năng và chân lý của Chúa, cho sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể, ngay cả khi không rước lễ.

Đó là điều tôi muốn chia sẻ hôm nay. Tôi là Cha Mike Schmitz. Xin Thiên Chúa chúc lành cho bạn.

Share:

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

Nhìn kỹ hơn về cuộc đời Thánh Carlo Acutis

Lời từ video: Chưa có phụ đề

Cuối tuần vừa rồi, tôi đã dành thời gian để tìm hiểu sâu về cuộc đời của Thánh Carlo Acutis. Và thật lòng mà nói, tôi đã không chuẩn bị tinh thần cho những gì mình tìm thấy. Tôi vốn đã biết khá rõ về tiến trình phong thánh – nó hoạt động như thế nào, các bước ra sao – nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nghiên cứu kỹ về một vị thánh nào từ đầu đến cuối: cuộc đời, cái chết, và những phép lạ gắn liền với họ.

Trong trường hợp này, những gì tôi tìm thấy thực sự khiến tôi gần như rơi nước mắt. Đặc biệt là khi tôi đọc được cách mà Carlo Acutis đối diện với những đau đớn của giờ phút cuối đời. Đó là một câu chuyện thật phi thường. Đôi khi chúng ta có thể cảm thấy các vị thánh rất xa cách chúng ta. Ví dụ, khi tôi nghĩ đến Thánh Maximilian Kolbe, tôi vô cùng ngưỡng mộ ngài, nhưng ngài dường như ở một thế giới khác. Ngài là một vị tử đạo trong trại tập trung.

Nhưng với Carlo thì khác. Cậu ấy ở ngay trước mắt chúng ta. Cậu là một thanh niên thuộc thế hệ thiên niên kỷ – yêu thích trò chơi điện tử và lập trình. Cậu đi giày thể thao, mặc áo hoodie. Nhưng đồng thời, cậu lại sống đời thánh thiện khiến chúng ta phải nhìn vào lời mời gọi nên thánh của chính mình. Carlo không ở trên một bệ thờ xa vời nào đó.

Carlo mời gọi chúng ta cũng hãy nên thánh. Trong video này, đây là những gì bạn có thể mong đợi. Video này sẽ hơi dài, bởi vì chúng ta sẽ cùng nhau cẩn thận đi qua cuộc đời, cái chết và hai phép lạ phi thường đã dẫn đến việc phong thánh cho Carlo. Tôi muốn thử thách các bạn – hãy ở lại với tôi đến cuối video, vì chỉ khi đó, bạn mới thực sự thấy được bức tranh toàn cảnh về lý do tại sao Thánh Carlo không chỉ là một vị thánh quan trọng đối với người Công giáo, mà có thể là một trong những vị thánh quan trọng nhất của thế hệ chúng ta. Tôi không hề nói quá đâu. Nhưng bạn cần phải nghe câu chuyện của cậu ấy. Và ở cuối video, tôi cũng sẽ chia sẻ thêm về tác động mà câu chuyện này đã có đối với tôi –là một người từng theo đạo Tin Lành.

Chúng ta hãy bắt đầu. Video này về cơ bản sẽ là câu chuyện về cuộc đời của Carlo Acutis. Tôi nghĩ rằng bạn sẽ tìm thấy rất nhiều điều ý nghĩa trong đó. Và tất cả những gì tôi chia sẻ ở đây đều có thể được xác minh trực tuyến. Đây đều là thông tin công khai, nên nếu bạn cảm thấy tôi nói chưa chính xác ở đâu, cứ việc kiểm tra lại nhé.

Carlo Acutis sinh ra tại London vào năm 1991, nhưng gia đình sớm chuyển về Milan. Điều đặc biệt ở đây là – cha mẹ cậu khá giàu có, có học thức, và nói một cách đơn giản là chỉ mang danh Công giáo theo danh nghĩa. Mẹ cậu thậm chí thừa nhận rằng bà hầu như chẳng bao giờ bước chân vào nhà thờ, ngoại trừ những dịp như đám cưới hay các bí tích. Nhưng rồi, cậu bé nhỏ này xuất hiện, và ngay từ những năm tháng đầu đời, cậu đã kéo cả gia đình mình trở lại với đức tin.

Hãy tưởng tượng một đứa trẻ mẫu giáo kéo cha mẹ đi lễ – đó chính là điều đã xảy ra trong trường hợp này. Năm ba tuổi, Carlo đã khăng khăng đòi dừng lại ở các nhà thờ để dâng hoa cho Đức Mẹ và cầu nguyện trước thánh giá. Và năm bốn tuổi, trong khi phần lớn trẻ em chỉ mới đang học đọc, Carlo đã đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Đây không phải là một đứa trẻ chỉ bắt chước đức tin của cha mẹ – đây là một đứa trẻ dẫn dắt cha mẹ đến với đức tin. Mẹ cậu sau này đã nói rằng chính bà được cứu nhờ tấm gương của Carlo.
Khi cậu rước lễ lần đầu vào năm bảy tuổi, đó không chỉ là một cột mốc. Đó là trung tâm của cuộc đời cậu. Carlo luôn nài nỉ được tham dự Thánh lễ mỗi ngày.

Cậu thường quỳ gối trong giờ chầu Thánh Thể và nói với bất kỳ ai thắc mắc rằng: “Thánh Thể là con đường cao tốc dẫn tôi đến thiên đàng.” Và cậu nghiêm túc đến mức đã tự đặt cho mình một châm ngôn nhỏ: “Thánh lễ thánh thiêng– làm tôi thánh thiện.”

Nhưng sự thánh thiện của Carlo không chỉ giới hạn trong nhà thờ. Cậu là kiểu người sẵn sàng chia sẻ tiền tiêu vặt của mình cho người nghèo, làm bạn với những bạn học bị bắt nạt, và âm thầm mua chăn tặng cho người vô gia cư trên đường phố Milan. Các giáo viên chỉ nhận ra quy mô của lòng bác ái âm thầm đó tại lễ tang của cậu – khi nhà thờ tràn ngập những người nghèo mà Carlo từng thầm lặng giúp đỡ.

Dù khi có một đời sống thiêng liêng sâu sắc như thế, Carlo vẫn hoàn toàn bình thường. Cậu yêu thích bóng đá, Pokémon, trò chơi điện tử, và cả phim hoạt hình The Simpsons. Điểm khác biệt là cậu biết giữ mọi thứ trong cân bằng. Cậu chỉ cho phép mình chơi game một giờ mỗi tuần, bởi vì – như cậu nói – “Thắng được hàng ngàn trận chiến thì có ích gì nếu con không thể thắng được chính đam mê của mình?” Đó là một sự khôn ngoan mà tôi – và hầu hết người lớn – cần phải học hỏi. Rất ít người trong chúng ta đạt được đến mức độ tự chủ như thế.

Rồi còn khía cạnh công nghệ của Carlo nữa. Cậu không chỉ đơn thuần thích máy tính – cậu là một thiên tài thực thụ. Khi còn là thiếu niên, cậu đã tự xây dựng các trang web, viết mã lập trình, và cuối cùng tạo ra một danh mục trực tuyến khổng lồ về các phép lạ Thánh Thể, thứ mà đến nay vẫn còn được sử dụng trên khắp thế giới. Trong khi nhiều bạn cùng tuổi mải mê với MySpace, Carlo lại dùng Internet để dẫn người ta đến với Chúa Giêsu.

Mùa thu năm 2006, mọi chuyện dường như vẫn bình thường với Carlo. Cậu 15 tuổi, đang học trung học, vẫn lập trình website và chơi bóng đá với bạn bè. Nhưng rồi đột nhiên, sức khỏe cậu suy sụp. Cậu bắt đầu có các triệu chứng giống như cảm cúm. Gia đình đưa cậu đến bệnh viện, và các bác sĩ phát hiện ra cậu mắc một dạng bệnh bạch cầu (leukemia) cực kỳ ác tính.

Hãy tưởng tượng – mới 15 tuổi mà nghe chẩn đoán như thế. Hầu hết mọi người sẽ tuyệt vọng, sẽ hỏi: “Tại sao chuyện này lại xảy ra với con? Con còn quá trẻ.” hoặc cố bấu víu vào chút an ủi nào đó. Nhưng Carlo lại phản ứng khác. Cậu xem đó là lễ dâng cuối cùng của mình lên Thiên Chúa từ giường bệnh.

Điều khiến tôi thật sự xúc động là đây: cậu bình tĩnh nói với gia đình và các bác sĩ rằng:

“Con xin dâng tất cả những đau khổ con phải chịu cho Chúa, cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.”

Khi tôi lần đầu tiên đọc những lời này, thật lòng mà nói, tôi gần như bật khóc. Thật là phi thường để có khả năng ôm lấy đau khổ của mình một cách vị tha như vậy. Đó là điều tôi luôn cố gắng noi theo. Bởi vì điều đó không chỉ thể hiện sự trưởng thành, mà còn thể hiện sự thánh thiện thực sự. Đây chính là điều mà các vị thánh đã làm – và thành thật mà nói, đó cũng là điều tôi mong ước mình làm được khi đối diện với thử thách trong cuộc đời tôi. Tôi thường không đạt được, nhưng chính vì thế mà nó thật đẹp – và khiến tôi gần như rơi nước mắt. Đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đời sống đức tin.

Carlo ấy đã từ chối thuốc giảm đau, giải thích rằng cậu sẽ dâng những đau khổ của mình cho những người còn khốn khổ hơn. Có lúc các y tá định gọi bố mẹ cậu dậy, nhưng Carlo đã ngăn họ lại. Cậu không muốn bố mẹ vì mình mà mất ngủ. Ngay cả trong những giờ phút cuối đời, tâm trí cậu vẫn hướng về người khác chứ không phải bản thân. Khi mẹ cậu khóc bên giường bệnh, cậu nhẹ nhàng an ủi bà. Anh nói: “Mẹ đừng sợ. Nhờ Chúa Giêsu, cái chết không phải là dấu chấm hết. Đó là một cuộc vượt qua để đến tới sự sống thật.
“Mẹ hãy vui lên vì con rất hạnh phúc.” Ngày 12 tháng 10 năm 2006, chỉ 10 ngày sau khi nhập viện và khi mới 15 tuổi, Carlo đã qua đời với một nụ cười thanh thản trên môi. Cậu chết như cách cậu đã sống: bình an, với đôi mắt hướng về Chúa Kitô. Nhưng câu chuyện của cậu gần như lại bắt đầu từ đây.

Tại lễ tang, người ta bắt đầu thì thầm về những ơn lành và các ca chữa lành liên quan đến cậu. Một phụ nữ bị ung thư vú đã nhờ lời chuyển cầu của Carlo trong Thánh lễ an táng và đã được chữa lành cách không thể giải thích được -- không cần đến liệu pháp hóa trị mà bác sĩ đã chỉ định.

Một người bạn của gia đình, một phụ nữ 44 tuổi chưa bao giờ có khả năng thụ thai, cũng đã cầu nguyện tại lễ tang của Carlo. Chỉ một tháng sau, bà phát hiện mình mang thai.
Ngay cả mẹ của Carlo cũng trải nghiệm điều phi thường. Nhiều năm trước, bà mong muốn có thêm con nhưng không thể thụ thai. Sau khi Carlo qua đời, bà mơ thấy con, và trong giấc mơ, Carlo nói rằng bà sẽ lại làm mẹ. Rồi bốn năm sau khi Carlo mất, bà đã có một cặp sinh đôi – một trai và một gái. Bà không hề nghi ngờ rằng người con trai trên thiên đàng đã can thiệp. Và thưa các bạn, tất cả những điều này đều có thật. Bạn có thể tự mình tra cứu.

Tuy nhiên, những sự kiện này không được kể vào trong tiến trình phong thánh chính thức. Chúng ta sẽ nói đến điều đó. Nhưng đối với gia đình và bạn bè Carlo, đây là những dấu chỉ rất mạnh mẽ. Với họ, rõ ràng là Carlo đã chuyển cầu và rất gần với Chúa.

Sau cùng, cái chết của Carlo không phải là bi kịch như người ta vẫn nghĩ về một cậu bé 15 tuổi ra đi vì bệnh bạch cầu. Cái chết của Carlo thực ra là một chiến thắng.
Carlo cho thế giới thấy thế nào là chết trong bình an – không phải trong sợ hãi mà trong đức tin, không phải trong cay đắng mà trong tình yêu.
Cuộc đời cậu ngắn ngủi. Đúng, nhưng nó tiếp tục sinh hoa trái qua các phép lạ, những cuộc hoán cải, và vô số người trẻ giờ đây nhìn đến Carlo như một mẫu gương về sự thánh thiện thời hiện đại. Có người có thể nghĩ cái chết của Carlo là dấu chấm hết cho câu chuyện của cậu. Nhưng thật ra, như tôi nói, đó chỉ mới là khởi đầu.

Sự thánh thiện của Carlo không phai mờ sau khi qua đời; dường như còn được nhìn thấy rõ hơn. Những lời cầu nguyện, các câu chuyện, những sự chữa lành âm thầm – tất cả đều đang dẫn tới điều gì đó lớn lao hơn.

Vào năm 2013, một biến cố phi thường tại Brazil đã trở thành phép lạ chính thức mở đường cho án phong chân phước của Carlo.
Trước khi đi sâu vào phép lạ đó, hãy tạm lùi lại một chút.
Giáo Hội Công giáo không xem nhẹ việc tuyên thánh. Không phải là về cảm tính hay vì được yêu mến bởi quần chúng.

Để được phong chân phước, ứng viên cần có một phép lạ đã được xác minh là nhờ lời chuyển cầu của họ. “Được xác minh” ở đây không có nghĩa là một câu chuyện hay ho lan truyền trên mạng.

Nó có nghĩa là hồ sơ y khoa chính thức, lời khai hữu thệ, các cuộc điều tra của tòa án giáo luật, và nhiều tầng lớp thẩm định của bác sĩ, nhà khoa học, thần học gia, hồng y, và cuối cùng là chính Đức Giáo hoàng.

Tôi đã phỏng vấn Đức ông Robert Sarno, người đã dành nhiều thập kỷ làm việc tại văn phòng Vatican chuyên điều tra các phép lạ. Ngài mô tả quy trình này là một trong những quy trình nghiêm ngặt nhất thế giới. Nghiêm ngặt đến mức nhiều hồ sơ bị bác bỏ khi đem ra xem xét.

Mục tiêu không phải là chứng minh rằng một phép lạ đã xảy ra, mà là cố gắng theo mọi cách có thể để chỉ ra rằng nó không xảy ra. Chỉ sau khi không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích tự nhiên nào, lúc đó – và chỉ lúc đó – Giáo Hội mới tiến bước.

Đó chính là mức độ bằng chứng mà chúng ta đang nói đến ở đây. Điều tuyệt vời là mọi điều tôi sắp chia sẻ đều có thể được kiểm chứng độc lập trên mạng. Với điều đó trong tâm trí, hãy trở lại Brazil.

Năm 2013, một cậu bé tên là Matheus Vianna Lindo đã phải chịu đựng từ khi sinh ra một căn bệnh hiếm và nghiêm trọng có tên là “annular pancreas” – tức là tụy vòng. Nói đơn giản, một phần mô tuyến tụy đã phát triển vòng quanh đoạn đầu của ruột non, bó chặt lấy nó. Điều này khiến cậu bé bị nôn liên tục, suy dinh dưỡng và đau đớn đến mức các bác sĩ nói rằng chỉ có phẫu thuật mới có thể cứu được. Và cần nói rõ: trong giới y học, người ta thống nhất rằng căn bệnh này không thể tự khỏi nếu phẫu thuật không can thiệp. Nó sẽ không tự biến mất.
Tôi muốn tạm dừng một chút ở đây, bởi vì là một người cha có ba đứa con nhỏ – và cũng có một đứa cháu từng vật lộn nhiều năm với các vấn đề tiêu hóa nghiêm trọng – khi đọc đến câu chuyện này trong quá trình nghiên cứu, tôi thật sự xúc động sâu sắc.

Cơn đau dạ dày ở trẻ nhỏ thật khủng khiếp. Nó không chỉ hành hạ đứa trẻ, mà còn dày vò cha mẹ. Giờ ăn trở thành cuộc chiến đầy căng thẳng. Đêm đến thì mất ngủ. Cha mẹ phải mang nặng cảm giác bất lực. Và trường hợp của Matheus thật sự khiến người ta đau lòng.

Khi lên hai tuổi, cậu bé chỉ nặng khoảng 9 kg và đã phải nhập viện nhiều lần. Cậu còn bị viêm phổi do hít phải dịch nôn mãn tính. Gia đình cậu tuyệt vọng. Họ không đủ khả năng chi trả cho ca phẫu thuật đầy rủi ro và dường như không còn cách nào khác.

Rồi đến ngày 12 tháng 10 năm 2013 – đúng vào ngày giỗ của Carlo Acutis. Ở một nhà nguyện nhỏ tại Campo Grande, Brazil, các giáo dân đang kết thúc tuần cửu nhật kính Carlo. Trong Thánh lễ hôm đó, một thánh tích của Carlo – một mảnh quần áo của cậu – được trưng bày để tôn kính. Ông ngoại của Matheus đã khuyến khích cậu tiến đến gần thánh tích. Với sự đơn sơ của một đứa trẻ, Matheus đặt tay lên thánh tích của Carlo và cầu nguyện: “Xin cho con ngừng nôn.”

Thật xúc động. Các nhân chứng kể lại điều xảy ra sau đó: đêm hôm đó, lần đầu tiên trong đời, Matheus xin được ăn một bữa đầy đủ. Cậu ngồi cùng anh chị em, ăn một bát cơm với súp đậu – và không nôn ra nữa. Không đau, không khó chịu, chỉ là một bữa ăn bình thường với gia đình. Từ ngày hôm đó trở đi, tình trạng nôn mửa không còn. Cậu ăn ngon miệng trở lại.
Các bác sĩ sớm xác nhận điều mà gia đình đã tin chắc trong lòng – sự tắc nghẽn tụy đã hoàn toàn biến mất. Hình ảnh chụp chiếu cho thấy tuyến tụy bị dị dạng trước đây đã tự tái tạo đúng hình dạng bình thường. Và cho đến ngày nay, Matheus vẫn khỏe mạnh, sống một cuộc sống bình thường.
Và điều đáng nhớ nhất: không có lời giải thích y học nào cho hiện tượng này. Căn bệnh tụy vòng không thể tự khỏi – càng không thể biến mất chỉ sau một đêm, ngay sau khi một đứa trẻ cầu nguyện và chạm vào thánh tích.
Giáo phận Campo Grande đã xem xét vụ việc cực kỳ nghiêm túc. Họ thu thập toàn bộ hồ sơ y tế, báo cáo của bác sĩ, lời chứng của gia đình, rồi gửi tất cả sang Rôma. Một tòa án giáo phận chính thức mở cuộc điều tra, phỏng vấn mọi người dưới tuyên thệ.

Đến năm 2019, Vatican xác nhận cuộc điều tra này hợp lệ về mặt pháp lý. Sau đó, một hội đồng gồm năm chuyên gia y khoa xem xét bằng chứng và đưa ra kết luận nhất trí:
Sự chữa lành diễn ra nhanh chóng, hoàn toàn, và bền vững – không thể giải thích bằng khoa học.

Sau đó, một ủy ban các nhà thần học đã nhất trí rằng việc chữa lành ấy là kết quả của lời chuyển cầu của Carlo. Rồi đến lượt các hồng y và giám mục trong Bộ Phong Thánh xem xét và khẳng định phán quyết đó. Cuối cùng, vào tháng 2 năm 2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ký sắc lệnh công nhận phép lạ.

Một cậu bé mắc căn bệnh chỉ có thể được chữa bằng phẫu thuật, chạm vào thánh tích của Carlo, cầu nguyện bằng những lời đơn sơ và ngây thơ nhất có thể. Và ngay trong đêm hôm đó, cậu ăn một bữa cơm như anh chị em mình — lần đầu tiên trong đời. Kết quả chụp chiếu cho thấy tuyến tụy của cậu đã tự phục hồi hoàn toàn theo cấu trúc bình thường.

Mọi bước của quá trình này đều được ghi lại. Mọi bằng chứng được kiểm chứng. Mọi hồ sơ được công khai. Đây không phải là lời đồn, đây là bằng chứng thực tế. Bất kỳ ai cũng có thể tra cứu điều này. Và vào tháng 10 năm 2020, nhờ phép lạ ấy, Carlo Acutis đã được phong Chân phước tại Assisi — trở thành người thuộc thế hệ thiên niên kỷ đầu tiên đạt đến giai đoạn này trên con đường nên thánh.

Phép lạ đầu tiên tại Brazil quả thật phi thường. Nhưng câu chuyện nên thánh của Carlo vẫn chưa kết thúc. Việc phong Chân phước cần một phép lạ, còn việc phong Thánh (phong hiển thánh) thì cần một phép lạ thứ hai. Và vào năm 2022, 16 năm sau khi Carlo qua đời, phép lạ thứ hai đã đến — lần này không phải ở Nam Mỹ, mà là ở châu Âu, trong cuộc đời của một cô gái trẻ đang du học tại Ý.

Tên cô là Valeria (hay chính xác hơn là Valeriia Valverde), 21 tuổi, đến từ Costa Rica. Khi ấy cô đang sống ở Florence để du học, và mọi thứ thay đổi hoàn toàn vào đêm ngày 2 tháng 7 năm 2022. Valeria đang đạp xe thì bị ngã mạnh xuống đường. Cú va chạm khiến cô bị chấn thương sọ não nghiêm trọng, nhiều tổn thương ở não, xuất huyết, và sưng phù nặng đến mức các bác sĩ phải cắt bỏ một phần hộp sọ để cứu mạng cô.

Tình hình vô cùng bi thảm. Valeria rơi vào hôn mê sâu và phải thở máy. Mạng sống của cô thật sự rất mong manh. Các bác sĩ nói với gia đình cơ hội sống sót gần như là số không. Và ngay cả nếu có sống sót, cô gần như chắc chắn sẽ bị tổn thương não vĩnh viễn.

Khi mẹ của Valeria, bà Liliana, bay từ Costa Rica sang, bà tìm thấy con gái mình nằm bất tỉnh trên giường bệnh, xung quanh là vô số máy móc duy trì sự sống. Liliana là một người có đức tin sâu sắc, đặc biệt sùng kính Chân phước Carlo Acutis, người đã được phong chân phước vào thời điểm đó. Ngay từ lúc xảy ra tai nạn, bà bắt đầu phó thác Valeria cho lời cầu bầu của Carlo, cầu nguyện liên lỉ và kêu gọi người khác cùng hiệp ý cầu nguyện.

Suốt sáu ngày liền, không có gì thay đổi. Valeria vẫn hôn mê sâu, tiên lượng vẫn vô vọng.

Rồi đến ngày 8 tháng 7, Liliana đã làm một điều vô cùng đặc biệt. Bà rời bệnh viện, đến Assisi, nơi thi hài của Carlo được lưu giữ trong Đền Thánh, Shrine of the Spoliation. Bà quỳ bên mộ Carlo suốt nhiều giờ, dâng trọn trái tim mình, cầu xin Carlo chuyển cầu cho con gái được chữa lành. Bà thậm chí còn viết một lá thư gửi cho Carlo, khẩn khoản xin sự giúp đỡ.

Ngay trong ngày hôm đó, tại Florence, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Valeria — người đang hoàn toàn phụ thuộc vào máy thở — bất ngờ bắt đầu tự thở lại được. Các bác sĩ hoàn toàn kinh ngạc. Họ không thể tin điều này đã xảy ra.

Được khích lệ bởi dấu hiệu ấy, các bác sĩ bắt đầu giảm thuốc an thần cho Valeria. Và sáng hôm sau, ngày 9 tháng 7, Valeria tỉnh dậy. Cô cử động được, phản ứng được, thậm chí cố gắng nói chuyện. Sau đó là một quá trình hồi phục nhanh đến mức không thể giải thích bằng y học. Chỉ trong vài ngày, khả năng nói của cô cải thiện rõ rệt. Đến ngày 18 tháng 7, kết quả chụp cắt lớp cho thấy một điều không ai ngờ tới: mọi vết xuất huyết trong não đã hoàn toàn biến mất.

Đến tháng 8, cô được chuyển sang trung tâm phục hồi chức năng, và đến đầu tháng 9, chưa đầy hai tháng sau tai nạn, Valeria hoàn toàn tỉnh táo, khỏe mạnh, không còn bất kỳ di chứng thần kinh nào. Ngày 2 tháng 9, cô cùng mẹ trở lại mộ của Carlo ở Assisi, lần này là để tạ ơn.

Đối với các bác sĩ, đây thật sự là một điều không thể hiểu nổi. Một bệnh nhân với chấn thương nặng như vậy không thể nào đột nhiên tỉnh lại rồi tự đi ra khỏi bệnh viện. Nhưng với Valeria – đó chính xác là điều đã xảy ra. Và đây không chỉ đơn thuần là “sống sót sau chấn thương” – mà là một sự chữa lành toàn diện, hoàn toàn và bền vững.

Giáo hội đã tiến hành cuộc điều tra chính thức như thường lệ. Tổng giáo phận Florence mở án điều tra, phỏng vấn bác sĩ, y tá, người thân, và thu thập toàn bộ hồ sơ y khoa.

Sau đó, Tòa Thánh Vatican xem xét toàn bộ tài liệu. Vào cuối năm 2023, hội đồng y khoa tuyên bố rằng sự hồi phục này không thể giải thích được bằng khoa học. Đến tháng 3 năm 2024, các nhà thần học xác nhận rằng việc chữa lành diễn ra nhờ lời cầu bầu của Carlo. Vào tháng 5 năm 2024, các hồng y và giám mục của Bộ Phong Thánh đồng ý, và Đức Giáo hoàng Phanxicô chính thức công nhận đây là một phép lạ.

Và như vậy, với hai phép lạ được phê chuẩn – cả hai đều đột ngột, trọn vẹn và không thể giải thích bằng y học – Carlo đã hoàn thành điều kiện cuối cùng để được phong Thánh.

Ngày 7 tháng 9 năm 2025, trong một buổi lễ tại Vatican, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã phong thánh cho Carlo Acutis, cùng với Chân phước Pier Giorgio Frassati.

Giờ tôi chỉ muốn dừng lại để suy ngẫm một chút. Là một người trở thành Công giáo từ Tin Lành, điều khiến tôi xúc động nhất khi đọc về cuộc đời, cái chết và các phép lạ gắn liền với Thánh Carlo là: từ rất sớm, Carlo đã có khao khát nên thánh. Trong khi hầu hết trẻ em cùng tuổi lo chơi điện tử hoặc cố gắng hòa nhập, thì Carlo đã hướng trọn cuộc sống mình về Thiên Chúa.

Khi nhìn lại chính bản thân, tôi phải thừa nhận – tôi vẫn vật lộn với cầu nguyện, với tính kỷ luật, và tôi không tự nhiên bị thu hút bởi việc dành hàng giờ cầu nguyện hay chiêm niệm. Một phần trong tôi ước gì mình giống Carlo hơn, ước gì sự thánh thiện đến với tôi một cách tự nhiên như với cậu ấy. Nhưng rồi tôi phải nhắc nhở chính mình – và có lẽ bạn cũng cần nghe điều này:

Các thánh không phải là siêu nhân.
Họ không phải những sinh vật hoàn hảo được “thả xuống” từ trời với sẵn đầy đủ các nhân đức. Họ là con người, như bạn và tôi. Họ cũng chiến đấu với cám dỗ, chịu đau khổ, vấp ngã, nhưng họ không ngừng nói “xin vâng” với Thiên Chúa. Chính điều đó làm cho tấm gương của họ trở nên mạnh mẽ.

Sự thánh thiện không phải điều không thể đạt được.
Đó là ơn gọi chung của mọi người. Và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta thật sự có thể sống điều đó.

Điều này thật tuyệt vời – thật mạnh mẽ. Là một người tân tòng, tôi thấy rằng mầu nhiệm các thánh thông công là một trong những điều đẹp đẽ và bất ngờ nhất mà tôi khám phá được trong đức tin Công giáo. Các thánh không phải là những nhân vật phủ bụi trong ô kính nhà thờ, họ là một phần sống động của cộng đoàn hiện tại, đang sống trong Chúa Kitô.

Câu chuyện của họ truyền cảm hứng cho chúng ta, nhưng đồng thời họ cũng chuyển cầu cho chúng ta. Từ cái nhìn của người Công giáo – và đôi khi, qua cả các thánh tích, chúng ta có thể cảm nhận sự hiện diện của họ một cách cụ thể và thực tế.

Đây là bức tranh sống động của thế giới Kitô giáo – thật tuyệt vời. Và thật lòng mà nói, sau khi đã trải nghiệm thực tại này, tôi không thể quay lại Tin Lành nữa. Mầu nhiệm các thánh thông công làm cho Giáo Hội trở nên sống động theo cách mà tôi chưa bao giờ có thể tưởng tượng.

Vậy nên, tôi xin kết lại với điều này: Các thánh thật tuyệt vời. Họ nhắc nhở chúng ta rằng nên thánh là điều có thể đạt được ngay trong đời này. Và Thánh Carlo Acutis – vị thánh thiên niên kỷ đầu tiên – là bằng chứng sống động cho điều đó.

Thánh Carlo, xin cầu cho chúng con.

Nhân thể, Kitô giáo là sự thật.
Share:

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

Để đánh bại cám dỗ

Có thể đôi lúc bạn cảm thấy một cám dỗ nào đó quá sức chịu đựng, nhưng đó là lừa phỉnh của Satan. Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đặt trên bạn gánh nặng vượt quá sức mạnh Ngài ban trong bạn để bạn đối phó với nó. Ngài không cho phép bất kỳ cám dỗ nào xảy ra mà bạn không thể đánh bại. Tuy nhiên, bạn phải góp phần bằng cách thực hành bốn bí quyết Kinh Thánh dạy để đối đầu với cám dỗ.

TẬP TRUNG SỰ CHÚ Ý CỦA BẠN VÀO MỘT ĐIỀU KHÁC. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi không nơi nào trong Kinh Thánh bảo chúng ta “chống lại cám dỗ”. Chúng ta chỉ được dạy hãy “chống lại ma quỷ” (Galát 5, 22-23)… Thay vào đó, chúng ta được khuyên hãy tập trung suy nghĩ một chuyện khác, bởi lẽ chống lại một ý nghĩ sẽ vô ích. Việc đó chỉ làm tăng sự chú ý vào điều sai trái, và chúng ta càng thấy nó quyến rũ hơn. Để tôi giải thích:

Mỗi khi bạn tìm cách ngăn chặn một ý tưởng khỏi tâm trí, bạn lại khiến nó đi sâu hơn vào ký ức mình. Thay vì chống, bạn lại củng cố nó. Điều này rất đúng đối với cám dỗ. Bạn không đánh bại cám dỗ bằng cách chống lại cảm xúc về nó. Càng chống lại cảm xúc, nó càng làm bạn tiêu hao và chế ngự bạn. Bạn làm cho nó mạnh thêm mỗi khi nghĩ đến nó.

Vì cám dỗ luôn bắt của bạn sẽ chiếm được con đầu từ một ý nghĩ, nên cách nhanh nhất để vô hiệu hoá sức quyến rũ của nó là hãy chú ý vào một chuyện khác. Đừng chống lại ý tưởng. Chỉ cần thay đổi dòng suy tư và để tâm đến một ý nghĩ khác. Đây là bước đầu tiên để đánh bại cám dỗ.

Cuộc chiến chống lại tội lỗi thắng hay bại là ở trong tâm trí. Điều gì chiếm sự chú ý của bạn sẽ chiếm được con người của bạn…

Đó là lý do tại sao việc lặp đi lặp lại “tôi phải ăn ít lại… Hoặc tôi phải bỏ hút thuốc… Hoặc tôi không thèm khát nữa” là chiến lược tự làm cho mình thất bại. Nó bắt bạn chú ý vào điều bạn không muốn. Cũng như tuyên bố, “tôi sẽ không bao giờ làm điều mẹ tôi đã làm”. Chính bạn đang tự đặt mình để làm lại chuyện đó.

Cám dỗ khởi sự bằng việc bắt lấy chú ý của bạn. Điều gì khiến bạn chú ý, điều ấy sẽ dấy lên cảm xúc nơi bạn. Tiếp đến, cảm xúc tác động đến hành vi và bạn lại hành động theo cảm xúc. Càng chú ý đến “tôi không muốn làm điều này”, nó càng mạnh mẽ kéo bạn vào trong lưới bẫy của nó.

Phớt lờ cám dỗ thì hiệu quả hơn so với việc chiến đấu với nó. Khi tâm trí bạn nghĩ đến một điều gì khác, cám dỗ sẽ tự mất tác dụng. Thế nên, khi cám dỗ gọi điện thoại cho bạn, đừng tranh cãi với nó, chỉ việc cúp máy!

Đôi khi điều này có ý nghĩa vật lý là lánh xa cám dỗ. Tẩu vi thượng sách. Chỗi dậy tắt ti vi. Rời khỏi nhóm bạn đang nói chuyện tầm phào. Hãy rời khỏi rạp, dù phim chưa xong. Để khỏi bị châm, hãy lánh xa đàn ong. Hãy làm bất cứ điều gì có thể để hướng sự chú ý của bạn vào một chuyện khác.

Về mặt thiêng liêng, tâm trí của bạn là một trong những nơi dễ bị tổn thương nhất. Để bớt bị cám dỗ, hãy để lời Chúa và những ý tưởng tốt lành chiếm hữu tâm trí bạn. Hãy đánh bại những ý nghĩ đen tối bằng cách nghĩ đến những gì thanh cao. Đây là nguyên tắc thay thế. Thắng điều dữ bằng điều lành (Rôma 12, 21). Satan không thể lôi kéo sự chú ý của bạn đang khi bạn bận tâm đến một điều khác. Đó là lý do tại sao Kinh Thánh lặp đi lặp lại với chúng ta rằng, hãy giữ lòng trí tập trung: “Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giêsu” (Híp-ri 3, 1). “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô” (2 Timôthê 2, 8 ). “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Philípphê 4, 8 ).

Nếu thật sự nghiêm túc muốn đánh bại cám dỗ, bạn phải quản trị tâm trí mình và giám sát nguồn thông tin đưa vào. Người khôn ngoan nhất đã từng sống trên đời cảnh báo rằng: “hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh” (Châm ngôn 4, 23). Đừng để rác rưởi đổ vào tâm trí bạn cách bừa bãi. Phải gạn lọc. Phải chọn lựa kỹ càng điều bạn suy nghĩ. Hãy noi gương thánh Phaolô, “chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cô-rintô 10, 5). Điều này đòi hỏi phải thực hành lâu dài suốt cả đời, nhưng với trợ giúp của Chúa thánh thần, bạn có thể thiết lập lại cách suy nghĩ của mình. -- Trích từ Sống theo đúng mục đích

Share:

Thuốc giải độc cho sự kiêu ngạo -- CN thứ XXX Mùa Thường niên, năm C

Người thu thuế khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính; còn người Pha-ri-sêu thì không.(Luca 18:14)

Chúa Giêsu kể dụ ngôn này cách hài hước. Người Pharisiêu kiêu ngạo “cầu nguyện với chính mình.” Trong lời cầu nguyện của ông, ông chỉ nói về bản thân; thật ra, ông đang tự khen ngợi và thậm chí cầu nguyện cho chính mình! Người Pharisiêu đã lẫn lộn giữa chính mình và Thiên Chúa. Đó chính là bản chất của sự kiêu ngạo.

Ngược lại, người thu thuế chỉ đơn giản kêu xin Thiên Chúa thương xót, và ông đã được nhận lời. Lưu ý rằng điều này không có nghĩa là người thu thuế là “người tốt.” Nhiều người thu thuế là kẻ bất công, lạm quyền, lợi dụng người khác trong xã hội, kể cả người nghèo.

Dụ ngôn của Chúa Giêsu gây sốc cho người đương thời, bởi vì hầu hết người Do Thái đều chính đáng khi phẫn nộ trước việc những người thu thuế Do Thái cộng tác với chính quyền La Mã. Họ là những kẻ ký sinh trong xã hội, là tai họa xã hội — tương tự như cách chúng ta nhìn nhận những kẻ buôn ma túy ngày nay. Hãy tưởng tượng: “Một trùm ma túy lên đền cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’” Đó chính là mức độ gây kinh ngạc mà dụ ngôn này tạo ra nơi người Do Thái cùng thời Chúa Giêsu.

Điều Chúa Giêsu muốn nói không phải là cộng tác với chế độ áp bức hay lừa gạt người nghèo là điều tốt, cũng không phải ăn chay là xấu hay tham lam, gian dối và ngoại tình là điều tốt. Ý Chúa Giêsu là sự kiêu ngạo có thể che lấp mọi tội lỗi khác, và nếu chúng ta có được mọi nhân đức nhưng vẫn giữ lòng kiêu ngạo, thì chúng ta vẫn như người chưa bắt đầu đời sống thiêng liêng.

Đời sống thiêng liêng bắt đầu bằng việc nhận ra tội lỗi và sự nghèo túng của mình. Rồi, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta tiến bước trong sự thánh thiện, không bao giờ quên rằng “công trạng các việc lành của chúng ta là hồng ân do lòng nhân hậu của Thiên Chúa.” (GLCG #2009).

Điều này gợi nhớ đến một trích dẫn tôi yêu thích trong Sách Giáo Lý: “Các thánh luôn ý thức sâu sắc rằng mọi công trạng của họ đều là ân sủng thuần khiết.”

 “Sau cuộc lưu đày trần thế, con hy vọng được vui hưởng nhan Chúa nơi quê thật trên trời. Con không muốn thu thập công trạng để được lên thiên đàng, con làm việc chỉ vì tình yêu Chúa mà thôi....Cuối cuộc đời này, con đến trình diện trước mặt Chúa với đôi bàn tay không, vì, lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Mọi điều công chính của chúng con đều mang tì vết trước nhan Chúa. Con chỉ ao ước mặc lấy sự công chính của Chúa và đón nhận từ tình yêu Chúa phần gia nghiệp đời đời là chính Chúa. — Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (GLCG #2011)

Thuốc giải độc cho sự kiêu ngạo chính là phó thác hoàn toàn cho lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng tuyệt đối vào ân sủng của Ngài, Đấng ban cho chúng ta sức mạnh để từ bỏ tội lỗi và sống trong đức ái. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive