Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. (6,17.20-26)

Khi ấy, Đức Giê-su ở trên núi xuống cùng với Nhóm Mười Hai, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, có nhiều môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng đến từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn.

Thấy vậy, Đức Giê-su ngước mắt nhìn các môn đệ và nói :
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.

“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.”

Đây là “Bài giảng trên núi” của Thánh Luca, có nhiều điểm tương đồng cũng như sự khác biệt rõ rệt so với “Bài giảng trên núi” của Thánh Mát-thêu (Mt 5–7). Trong những “phúc” mà Chúa Giêsu công bố trong bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe thấy sự vang vọng của những Phúc Thật nổi tiếng hơn được ghi lại trong Mt 5:1–9. Tuy nhiên, trong Mát-thêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho “những người có tinh thần nghèo khó”, trong khi ở Luca, Ngài chỉ nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”.

… Lần này, Chúa Giêsu dạy rằng những ai trải qua cảnh nghèo khó, đói khát, sầu muộn và bị bách hại vì “Con Người” – Chúa Giêsu chính là người ấy – họ hãy vui mừng vì những đau khổ này là dấu hiệu cho thấy họ đang đi đúng hướng và sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng “trên trời”. Nhưng ngược lại, những ai sống cuộc đời giàu có, hưởng thụ và nổi tiếng nên rất lo lắng về ơn cứu rỗi đời đời của mình vì những dấu hiệu hạnh phúc bên ngoài này thường đi theo những tiên tri giả và những “kẻ giả dối” trong lịch sử cứu độ.

Lời của Chúa Giêsu thực sự là một lời cảnh tỉnh cho những ai, ít nhất là đối với chúng ta, đã hưởng được một phần thành công “được nhìn thấy” trong thế giới này. Chúa Giêsu đang nói rằng những dấu hiệu bên ngoài thường xuyên là giả dối, rằng những người thực sự được chúc phúc lại là những người dường như bị nguyền rủa, và những người có vẻ được chúc phúc lại đang đối diện với nguy cơ bị nguyền rủa. Vì vậy, chúng ta cần phải định nghĩa lại “thành công” và đánh giá lại những gì chúng ta tôn vinh và những gì chúng ta than vãn. Thông thường, chúng ta chỉ rơi vào khuôn mẫu chung của thế giới này, than vãn về những khó khăn chúng ta gặp phải và ghen tị với những người mà chúng ta cho là thịnh vượng. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc kiểm tra lương tâm:

Liệu sự thành công hay thịnh vượng mà tôi đang hưởng có thể thực sự do tôi không công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu, mà chỉ là do hành động và nói năng như mọi người trong thế giới này không?

Mặt khác, liệu những nỗi buồn và khổ đau mà tôi đang chịu đựng có thực sự là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa và phần thưởng Ngài đã chuẩn bị cho tôi trong cuộc sống vĩnh cửu?

Liệu tôi có rơi vào cái bẫy đánh giá cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác dựa trên của cải vật chất và những dấu hiệu bên ngoài của sức khỏe và thịnh vượng?

Cuối cùng, tôi có phải là người đàn ông hay người phụ nữ tin tưởng vào Chúa, vui thú với lề luật Chúa và nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày? Nếu không, tôi đang tin vào điều gì?-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

Sự thánh thiện tuyệt mỹ của Đức Maria

Lời từ video:

Một lần, [trong khi trừ quỷ], tôi đã gặp một trường hợp trong đó con quỷ đã nhìn thấy đời sống nội tâm của Đức Mẹ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi nó được tạo dựng.

Nếu bạn thực sự xem xét những gì xảy ra khi các thiên thần được tạo ra, thì quá trình đó được gọi là ba khoảnh khắc.
Khoảnh khắc đầu tiên là khi các thiên thần được tạo dựng và đặt trong toàn bộ hệ thống phẩm trật thiên thần. Hàng tỷ tỷ thiên thần được tạo ra ngay lập tức trong một hệ thống có phẩm trật. Trong khoảnh khắc đầu tiên đó, họ được tạo dựng với một hành động nhận thức hoàn hảo, nghĩa là họ biết Thiên Chúa là ai, mối quan hệ của họ với Ngài, nhiệm vụ được giao phó cho họ là gì, và tại sao Thiên Chúa tạo ra họ. Điều đó có nghĩa là họ hiểu rõ bản chất của chính họ và mối quan hệ của họ với tất cả các thiên thần khác.

Thánh Tôma A-qui-na nói rằng họ thậm chí còn thấy được sự cám dỗ và điều gì sẽ xảy ra nếu Lu-xi-phe sa ngã, ai sẽ là kẻ thống trị họ nếu họ sa ngã, hình phạt của họ nếu họ sa ngã, cũng như phần thưởng nếu họ trung thành. Họ thấy toàn bộ mọi thứ ngay lập tức, cùng một lúc. Và ngay vào khoảnh khắc đó, Thánh Tô-ma nói rằng vì họ nhìn thấy điều đó bằng trí tuệ, nên ý chí của họ cũng đồng thời hưởng thụ sự vui thích khi nhận ra sự tuyệt mỹ của kế hoạch Thiên Chúa. Và sau đó, họ đưa ra lựa chọn của mình, đó là khoảnh khắc thứ hai.

Sự khác biệt giữa chúng ta và các thiên thần là chúng ta rất ngu ngốc, chúng ta kém thông minh hơn họ rất nhiều. Đơn giản, bạn chỉ cần bật TV lên là bạn sẽ thấy ngay điều đó. Có vẻ như số lượng người mang mang trên mình vũ khí của sự ngu dốt ngày càng gia tăng. Nghĩa là khi loài người có một lựa chọn, họ không thấu hiểu lựa chọn đó.

Định nghĩa của tự do: Tự do là lựa chọn của ý chí, trong đó ý chí có khả năng chọn giữa những điều tốt lành khác nhau. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta đưa ra một lựa chọn, chúng ta dần dần cố định ý chí của mình vào sự gì đó. Và theo thời gian, vì chúng ta không thông minh lắm, nên sự cố định đó phát triển dần cho đến khi chúng ta ngày càng bám chặt vào điều thiện hoặc điều ác.

Nhưng với các thiên thần, vì họ có sự hiểu biết hoàn hảo về những gì họ đang làm, họ không có sự ngu muội hay yếu đuối như chúng ta. Khi chúng ta thấy sô-cô-la, chúng ta có thể bị cám dỗ ngay lập tức, nhưng họ không như vậy. Họ hiểu hoàn toàn những gì họ đang làm, và điều đó có nghĩa là sự lựa chọn của họ tự do hơn chúng ta rất nhiều. Và khi họ đã chọn, ý chí của họ được cố định vĩnh viễn trong điều đó, dù là tốt hay xấu.

Thật vậy, có một lần tôi tra vấn một con quỷ về việc nó được tạo ra để hưởng kiến dung nhan Chúa. Tôi hỏi nó:
- “Ngươi được tạo ra để có thị kiến vinh phúc đúng không?” Nó trả lời: “Đúng.”
-“Ngươi được tạo ra để thực hiện một nhiệm vụ vĩ đại đúng không?” “Đúng.”
-“Ngươi được tạo ra để có một mối quan hệ tuyệt vời với tất cả mọi người trên thiên đàng đúng không?” “Đúng.”
- Sau đó tôi tiếp tục hỏi: “Và ngươi biết rằng nếu ngươi chọn chống lại điều đó, ngươi sẽ kết thúc trong địa ngục đúng không?” “Đúng.”
- “Ngươi sẽ không bao giờ được nhìn thấy Thiên Chúa nữa đúng không?” “Đúng.”
- “Ngươi sẽ phải chịu đau khổ vĩnh viễn đúng không?” “Đúng.”
- “Và nếu có cơ hội, ngươi sẽ làm chính điều đó lại một lần nữa?” ”Đúng.”

Họ thực sự bị cố định trong điều đó. Đây là lý do tại sao ngày nay chúng ta thỉnh thoảng nghe về một lạc giáo được hồi sinh, xuất phát từ giáo phụ tên Origen, gọi là Apo-ka-tas-tasis. Lạc giáo ấy tuyên bố rằng những người ở địa ngục sẽ có cơ hội thứ hai để vào thiên đàng. Giáo hội đã chính thức lên án quan điểm này trong Công đồng Constantinople. Một khi ở địa ngục, số phận của họ là vĩnh viễn.

Trên thực tế, trong các buổi trừ tà, tôi có thể làm cho  những con quỷ đau đớn hơn bằng cách nói về sự đau khổ vĩnh cửu của chúng. Chúng nhận thức rõ rằng nỗi đau này sẽ không bao giờ thay đổi, và điều đó làm tăng thêm sự thống khổ của chúng.
Mỗi thiên thần sa ngã sẽ nói với bạn rằng thất bại căn bản của chúng là về sự hy sinh. Thánh Tô-ma nói rằng khi các thiên thần được tạo ra, họ nhìn thấy tất cả những phẩm hạnh hoàn hảo của các thiên thần có phẩm trật cao hơn, các thánh, và Thiên Chúa. Họ biết rằng có một sự hy sinh đặc biệt mà họ phải chấp nhận để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu họ sẵn sàng từ bỏ điều đó vì Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời.
Khoảnh khắc thứ ba là ngay khi các thiên thần đưa ra lựa chọn của mình, họ hoặc bị đày xuống địa ngục ngay lập tức, hoặc được hưởng nhan thánh Chúa ngay lập tức. Mọi thứ diễn tiếp cách tức thời.
Ngay từ khoảnh khắc đó, họ hoặc là trải nghiệm sự đau khổ vì đã đánh mất việc được nhìn thấy Chúa, hoặc tận hưởng vinh quang thiên đàng. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian ngắn, các thiên thần tốt và các thiên thần sa ngã vẫn còn ở cùng nhau. Đây là một trong những lý do tại sao có một cuộc chiến giữa họ trong một thời gian. Sau đó, Thiên Chúa trao quyền cho Tổng lãnh thiên thần Micae để đánh bại và trục xuất tất cả các thiên thần sa ngã xuống địa ngục. Đây là một trong những sự kiện quan trọng đã xảy ra. Vậy tại sao tôi lại đề cập đến điều này?

Trước hết, khi tôi tra vấn con quỷ này trong quá trình trừ quỷ, bởi vì ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi nó được tạo dựng, một phần nhiệm vụ được giao cho nó là phục vụ Đức Mẹ, nó đã được nhìn thấy chuyển động nội tâm của Mẹ khi Người sẽ trải nghiệm Cuộc Khổ Nạn.

Nó nói rằng khi nhìn thấy đời sống nội tâm của Mẹ… Trong trường hợp này, có hai con quỷ khác nhau, và cả hai đều đã sa ngã vì vẻ đẹp nội tâm của Mẹ. Quỷ nói rằng khi hắn chứng kiến vẻ đẹp nội tâm của Đức Mẹ, nó quá đỗi tuyệt mỹ, đến mức nó không thể chấp nhận việc chia sẻ Mẹ ngay cả với Thiên Chúa. Hắn muốn nắm giữ Mẹ cho riêng mình. Điều này cho thấy vẻ đẹp của Đức Mẹ thật vĩ đại biết bao.

Lúc đó, con quỷ khác trong trường hợp này là Bê-en-dê-bun (một tên gọi khác cho Xa-tan). Nó nói rằng khi chứng kiến vẻ đẹp của Đức Mẹ, nó biết rằng nó luôn phải là đứa thứ hai. Nó nhận ra nó không bao giờ có thể đạt đến mức độ thánh thiện đó, và nó ước muốn vẻ đẹp ấy cho riêng mình.

Vậy nên, khi Bê-en-dê-bun đề cập đến điều này, trong một phiên trừ tà sau đó, tôi ra lệnh cho hắn nói cho tôi biết:

”Điều gì về vẻ đẹp của Đức Mẹ mà ngươi không thích?” Vì hắn đã từ chối phục vụ Thiên Chúa, từ chối thực hiện thánh ý Chúa, bởi vì Chúa đã ban cho Đức Mẹ vẻ đẹp đó mà không ban cho hắn. Vậy nên tôi hỏi lại:

- “Cái gì ở vẻ đẹp của Người mà ngươi không thích?”
- Hắn trả lời: “Đó là sự trong sạch của vẻ đẹp của Người.”
- Tôi đáp: “Đó là một câu trả lời quá chung chung. Điều gì ở sự trong sạch ấy mà ngươi không thích?”
- Hắn nói: “Đó là sự trong sạch trong tình yêu của Người.”
Tôi lại nói: “Câu trả lời đó cũng quá chung chung. Điều gì trong tình yêu trong sạch của Người mà ngươi không thích?”
-Hắn nói: “Khi Người hy sinh cho Thiên Chúa, Người chưa bao giờ tính toán thiệt thòi cá nhân.”

Điều này có nghĩa là Đức Mẹ khác biệt hoàn toàn với mọi người chúng ta. Chúng ta luôn luôn tính toán hy sinh cá nhân mà mình phải trả. Chúng ta suy nghĩ về việc mình sẽ chịu đau khổ đến mức nào khi phải từ bỏ điều gì đó.

Là một linh mục trừ quỷ, tôi thường khuyên bảo mọi người làm việc ăn chay, và ngay lập tức tôi nhận được những lời than vãn: “Cha ơi, con không thể ăn chay được!” Nhưng tôi nói với họ: “Nó đâu có là quá khó khăn!”

Điểm mấu chốt là chúng ta luôn tính toán giá chúng ta phải trả. Ngay cả trong các mối quan hệ của chúng ta, kể cả trong hôn nhân. Trong các mối quan hệ, chúng ta đong đếm nhau; vì bị tổn thương, người ta cũng tính toán xem họ sẵn sàng hy sinh bao nhiêu, dựa trên việc hy sinh đó sẽ làm họ mất mát bao nhiêu.

Nhưng con quỷ tiếp tục nói: ”Không chỉ là việc Người không bao giờ tính toán cái giá cá nhân, mà ngay cả khi Thiên Chúa muốn bất cứ điều gì từ Bà, Bà cũng không bao giờ đặt bản thân vào phương trình. Bà chỉ đơn giản nói 'Vâng' và thực hiện nó.”

Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ hoàn toàn quên đi bản thân trong quá trình thực thi ý Chúa. Và điều này khiến Đức Maria khác biệt với tất cả chúng ta. Khác biệt với mọi con người từng sống. Vì chúng ta luôn luôn đong đếm cái giá của sự hy sinh.

Nhưng rồi hắn nói: “Không chỉ là Người không tính toán cái giá của sự hy sinh, mà Người đã làm điều đó hết lần này đến lần khác, liên tục, và không bao giờ nghĩ đến thiệt thòi cá nhân, một lần nào.”

Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ không chỉ khác biệt với chúng ta, mà Người còn khác biệt với tất cả các vị thánh, với tất cả các thiên thần trên thiên đàng.

Hắn nói tiếp: “Điều làm tao tức giận nhất là thực tế rằng Người đã có thể hy sinh bản thân hết lần này đến lần khác, còn ta chỉ có thể hy sinh một lần duy nhất.”

Và hắn kết luận: “Ta biết rằng ta không bao giờ có thể đạt được mức độ vẻ đẹp nội tâm như của Người.” Hãy để ý điều hắn đang nói: Không có một thiên thần nào giống Đức Mẹ. Đây là lý do tại sao các thánh nhân nói rằng sự thánh thiện của Đức Mẹ không thể sánh được.

Hãy quay lại với lời của Thánh Louis-Marie de Montfort: “Một tiếng thở dài của Đức Mẹ có giá trị hơn tất cả những cuộc tử đạo, những lời cầu nguyện, đau khổ và việc lành của tất cả các thánh hợp lại.” Lý do là bởi vì không ai ngoài Con Mẹ đã hy sinh theo cách mà Mẹ đã làm.

Không một ai cả. Trên thực tế, các thánh nhân nói rằng sự thánh thiện của Đức Mẹ vĩ đại hơn tất cả các thánh và tất cả các thiên thần hợp lại.

Share:

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2025

Qua giáo dân Giáo Hội đi vào thế giới

Kho tàng sức mạnh tâm linh lớn nhất chưa được khai thác trong Công giáo là giáo dân. Chính qua giáo dân mà Giáo Hội đi vào thế giới. Nam giới và nữ giới là nơi gặp gỡ giữa người Công giáo và người không Công giáo. Họ là cầu nối giữa thiêng liêng và trần tục, giữa tôn giáo và thế tục. Giáo dân thực hiện ơn gọi Công giáo của mình trong thế giới. Khi họ đến nhà thờ, họ đón nhận sự sống, sự thật và ân sủng, nhưng họ lãnh nhận chúng để phục vụ Chúa giữa lòng thế giới. Trong thế giới này, chân lý, ân sủng và đời sống Công giáo của họ gặp gỡ với những người có thể thiếu chúng hoặc không có đầy đủ sự phong phú của đức tin Công giáo. Ơn gọi của người Kitô hữu Công giáo là để vinh quang Chúa được thể hiện qua những biểu hiện thông thường của cuộc sống.

Có hai nguy cơ. Một là giáo dân Công giáo có thể hình thành một loại “ghetto, nhóm đặc biệt,” nghĩ rằng các hoạt động tôn giáo của họ chỉ giới hạn trong nhà thờ, tuân thủ các Điều răn. Cũng có thể có những người Công giáo tụ tập với nhau trong một kiểu “lều tuyết”, hoàn toàn tách biệt đức tin ra khỏi hành động. Mặt khác, sự cực đoan sẽ là trở nên quá thế tục, đến mức đức tin không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống thế tục của họ.

Hệ quả của việc tách biệt tôn giáo và thế giới là văn hóa đã được giải phóng khỏi Đức Kitô và trở thành văn hoá của sự dữ. Nếu giáo dân muốn có hiệu quả, họ phải ý thức rằng họ là thành viên của dân Chúa; họ thuộc về cộng đồng thờ phượng. Họ phải am hiểu về thần học. Như thánh Phêrô đã nói, họ phải có khả năng đưa ra lý do cho niềm tin của mình (1Pt 3:15). Họ phải giao tiếp với thế giới như những người Công giáo. Họ tham gia vào thế giới. Như John Donne đã nói rất hay:

"Không ai là một hòn đảo, hoàn toàn tách biệt; mỗi người là một phần của đại lục, một phần của đại gia đình; nếu một cục đất bị cuốn đi bởi biển, châu Âu trở nên thiếu thốn, như thể một mũi đất bị cuốn đi, cũng như thể một người bạn của bạn hay trong gia đình bạn bị mất; cái chết của một người làm giảm bớt tôi, vì tôi tham gia vào nhân loại. Và vì thế, đừng bao giờ hỏi chuông rung vì ai; nó rung cho bạn." (MEDITATION 17, Devotions upon Emergent Occasions)

Không ai có thể chu toàn ơn gọi Kitô hữu Công giáo của mình hoặc đạt được bất kỳ sự toàn vẹn cá nhân nào trong thế giới hiện đại nếu họ không quen thuộc với máy tính, biết đến những khu ổ chuột, hiểu biết về việc phân biệt chủng tộc, về các vấn đề thế giới, với mọi thứ. Chính giáo dân đứng ở điểm giao nhau giữa Phúc Âm và thế giới. Như cây Thập giá đứng ở giao điểm giữa các nền văn hóa và nền văn minh của Athens, Jerusalem và Rome, giáo dân vượt qua tất cả các biên giới, và họ làm điều này nhân danh Đức Kitô. Khi chúng ta thấy giáo dân đến nhà thờ vào Chủ nhật, chúng ta hỏi họ, Liệu họ có thực sự yêu thương nhau không? Họ có là một yếu tố trong cộng đồng thống nhất không? Họ đến đây chỉ để hoàn thành nghĩa vụ, tránh một tội trọng thay vì làm mạnh mẽ sự sống mà họ cần làm lan toả? Họ có đang tìm kiếm sự thánh hóa chỉ cho bản thân, quên rằng Chúa Giêsu đã nói, “Vì họ mà Con thánh hóa chính mình" (Ga 17:19)? Liệu họ ngoài thói quen hàng tuần đi nhà thờ, chẳng khác gì những người chung quanh họ trong cuộc sống? Khi người khác nhìn vào nhóm tín hữu này, liệu họ có nói: “Tôi cần nên giống như họ; tôi cần có tình yêu, sự thật và bình an mà những người này đang chiếm hữu”. Nhưng thường thì ngược lại.

Giáo dân sẽ phải nhận thức rằng Chúa Giêsu của chúng ta đã bị đóng đinh không phải trong một nhà thờ giữa hai ngọn nến, mà là giữa thế giới, trên một con đường, trong một đống rác của thị trấn, tại giao lộ nơi có ba thứ tiếng được ghi trên Thập giá. Đúng, đó là tiếng Híp-ri, Latin và Hy Lạp, nhưng chúng có thể là tiếng Việt, Anh hoặc tiếng Tàu. Điều đó không quan trọng. Chúa Giêsu đã đặt mình ở trung tâm của thế giới, giữa những vũng bùn, những tên trộm, lính và những người đánh bạc. Ngài ở đó để mở rộng sự tha thứ cho họ. Đây là ơn gọi của giáo dân: ra ngoài thế giới và làm cho Đức Kitô được biết đến. -- ĐTGM Fulton Sheen, Your Life Is Worth Living

Share:

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2025

“Ite! Missa est!”: ‘Hãy đi! Thánh Lễ đã hoàn tất!’

Hôm nọ đoạn chú giải này cho bài đọc một từ ngôn sứ Isaia (6,1-2a;3-8) của Dr. John Bergsma nói: “Thánh Lễ kết thúc bằng một cụm từ Latin mạnh mẽ: “Ite! Missa est!” mà theo cách diễn đạt thông thường có thể hiểu là ‘Hãy đi! Hy lễ đã hoàn tất!’… Cụm từ Latin với giọng điệu dứt khoát này nhắc nhở rằng, khi Thánh Lễ kết thúc, chúng ta phải lập tức quay lại với sứ mạng Thiên Chúa trao phó: loan báo Tin Mừng bằng chính lời nói và hành động của mình”.

Đọc xong đoạn đó làm mình nhớ đến Chúa Tể Các Chiếc hẫn. Câu chuyện như thể một củ hành, ý nghĩa này lột ra chưa hết thì ta đã thấy một lớp ý nghĩa khác.

Trước khi Gandalf bị rơi xuống nơi “âm phủ”, Hiệp hội nhẫn thần như thể không rõ hướng đi: biết là chiếc nhẫn phải bị tiêu diệt nhưng sức mạnh của kẻ thù thì có vẻ mạnh hơn rất nhiều. Gandalf và hiệp hội khi biết mình gặp Balrog chỉ có thể bỏ chạy và kết cục là Gandalf bị rơi vào “âm phủ”.

Nhưng sau khi Gandalf “sống lại” từ cõi chết, ông không sợ ngay cả quyền lực của chiếc nhẫn. Những người trong Hiệp hội ấy vẫn phải chiến đấu, vẫn phải đổ máu, nhưng Gandalf như thể có quyền năng hơn; Aragorn, người được coi là hình ảnh của Đức Kitô, tỏ lộ nguồn gốc của mình khiến Sauron sợ hãi.

Chúng ta KHÔNG tham dự Thánh Lễ vì đây là một bổn phận điều răn Chúa đòi hỏi.

Mỗi lần tham dự Thánh Lễ chúng ta chứng kiến sự chết và tội lỗi đã bị đánh bại. Chúa Kitô đã hiến mình để chúng ta được sống và còn hơn thế nữa: Chúng ta vẫn chiến đấu, vẫn phải đổ máu, nhưng ma quỷ đã mất đi vũ khí của nó: sự chết bị đánh bại bởi sự phục sinh của Chúa Kitô và tội lỗi bị đánh bại bởi ơn tha tội.

Thánh Lễ đã xong, chúng ta không chỉ “đi về bình an” mà là hãy đi thi hành mệnh lệnh: “Đi vào thế giới và đánh bại vương quyền sự dữ bằng vũ khí và sức mạnh của Thần Khí của Chúa Kitô chịu đóng đanh nhưng đã sống lại”. Hãy cầm kiếm, áo giáp và đi vào chiến trường để đập tan mưu mô cùng quyền lực của Satan. Bạn có thể mất mạng nhưng bạn luôn thuộc về đạo binh đã thắng trận của Chúa Kitô.

Share:

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2025

“Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Bạn tin ai? Sự thông hiểu của bản thân hay Thiên Chúa -- CN V Mùa Thường niên, năm C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (5:1-11)

Khi ấy, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.

Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.

Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

----------

Chú ý đến sáu giai đoạn của đời sống Kitô hữu trong câu chuyện từ Tin Mừng Luca này:

Thứ nhất, nhu cầu, sự thất vọng ban đầu, tình huống xảy ra, đối với những ngư dân này là việc không bắt được gì cả;
Thứ hai, lời mời gọi hãy đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu để chèo ra chỗ nước sâu;
Thứ ba, phản ứng tích cực của các môn đệ đối với lời mời gọi của Chúa Kitô, cả về tâm hồn lẫn thể xác, cả niềm tin và sự vâng lời;
Thứ tư, kết quả của sự tin tưởng, trong trường hợp của họ là mẻ cá lạ lùng;
Thứ năm, sự khiêm nhường trước ân sủng thần linh này;
Thứ sáu, lời kêu gọi trở thành kẻ lưới người, làm nhà truyền giáo.

Chúng ta không thích bị thiếu thốn, phải cần đến sự gì đó ta không có; chúng ta gánh chịu chúng. Tại sao Thiên Chúa để chúng ta đau khổ nếu Người yêu thương chúng ta? Thiên Chúa để chúng ta đau khổ vì Người yêu thương chúng ta và biết rằng nếu chúng ta không đau khổ, nếu chúng ta không trải nghiệm sự thiếu thốn, mất mát và trống rỗng, thì chúng ta sẽ không thể cảm nhận được sự cứu độ và sự viên mãn. Tay của chúng ta phải trống rỗng để Người đến và lấp đầy chúng.

Cuộc sống là một câu chuyện, và mỗi câu chuyện đều có hai phần: vấn đề và giải pháp, thử thách và đáp ứng, nhu cầu và sự thỏa mãn, mất mát và sự tìm thấy. Nếu các môn đệ đã bắt được cá đêm đó thay vì trải qua một đêm đầy thất vọng và mệt mỏi vì không bắt được gì, họ sẽ không cần đến sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, hoặc nhận được sự giúp đỡ, và sự nhận biết cùng với lòng biết ơn. Nếu bạn không đói, bạn sẽ không cảm thấy thức ăn ngon và thích thú. Không ai thích bị đói, nhưng hãy tưởng tượng nếu bạn không bao giờ cảm thấy đói. Bạn sẽ không bao giờ trân trọng thức ăn. Hãy tưởng tượng nếu bạn không bao giờ cảm thấy cô đơn. Không ai thích cô đơn, nhưng nếu bạn không bao giờ cảm thấy cô đơn, bạn sẽ không bao giờ trân trọng một người bạn. Thiên Chúa phải gieo vào lòng bạn sự khao khát Người trước khi Người ban chính mình làm lương thực cho bạn.

Điều này không giải đáp hết mọi câu hỏi về đau khổ, đặc biệt là những chi tiết cụ thể, nhưng nó cho chúng ta thấy rằng một thế giới (sau tội tổ tông) không có đau khổ sẽ là một thế giới nhàm chán. Sẽ không có những câu chuyện, không có kịch tính, không có vấn đề, không có những nhu cầu. Những điều này là một phần của kế hoạch yêu thương và khôn ngoan vô hạn của Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta, cũng như việc Người đáp ứng những nhu cầu ấy là một phần khác của kế hoạch đó. Như Frank Sinatra đã nói ngắn gọn, “Cuộc sống là thế”.

... Thiên Chúa luôn can thiệp vào kế hoạch của chúng ta. Nếu bạn muốn làm Chúa bật cười, hãy kể cho Người nghe kế hoạch của bạn cho cuộc đời mình. Thiên Chúa luôn vượt xa sự mong đợi của chúng ta. Ở đây, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người “chèo ra chỗ nước sâu,” chấp nhận rủi ro, làm điều gì đó có vẻ vô ích và điên rồ. Họ phàn nàn: “Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì.” Nhưng rồi có một chữ “nhưng” cứu rỗi—“nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới.” Và họ đã làm điều đó. Phêrô làm điều đó. (Phêrô luôn là người lãnh đạo.) Họ làm điều đó chỉ vì một lý do duy nhất: họ tin tưởng Người.

Đó là sự sa ngã của tội tổ tông, một thử thách về hành động và sự vâng lời, nhưng trước hết là thử thách về đức tin và lòng tin tưởng. Ma quỷ đã nói với Evà: “Tin ta, đừng tin Thiên Chúa. Thiên Chúa đang giữ điều gì đó khỏi ngươi với thứ trái cấm này. Người đã nói ngươi sẽ chết nếu ăn nó ư? Đừng tin lời Người. Ngươi sẽ không chết; ta hứa với ngươi. Tin ta, đừng tin Người. Lời khuyên của Người chẳng có lý chút nào. Nhìn trái đó đi. Ngươi có thể tự mình thấy nó đẹp đẽ thế nào. Hãy tin vào mắt ngươi, vào lý trí của ngươi, vào những ham muốn của ngươi—tin ta; đừng tin Thiên Chúa.”

Lời của Chúa Giêsu với các môn đệ không có lý lẽ gì đối với các môn đệ. Họ biết rằng không có cá ở đó. Họ đã đánh bắt cả đêm mà không được gì. Thiên Chúa cố ý yêu cầu chúng ta làm điều gì đó mà chúng ta không hiểu, để chúng ta tin tưởng Người dù có những bằng chứng trái ngược. Người nói rằng Người vô cùng tốt lành, toàn năng, và khôn ngoan vô hạn, thế nhưng lại có quá nhiều điều xấu xa và đầy những sự dữ vô tích sự. Đó là bằng chứng chống lại Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể tin tưởng Người khi có quá nhiều bằng chứng dường như chống lại Người?

Thế thì, lựa chọn duy nhất khác chính là tin vào tâm trí của mình thay vì tin vào Người. Ai có khả năng biết điều tốt nhất cho chúng ta hơn: chính chúng ta hay Đấng Tạo Hóa của chúng ta? Câu trả lời cho câu hỏi đó phụ thuộc vào một điều quan trọng trên hết mọi sự: Thiên Chúa có yêu thương chúng ta không? Nếu Người yêu thương chúng ta, thì Người luôn làm điều tốt nhất cho chúng ta về lâu dài, ngay cả khi chúng ta không thấy điều đó. Và bởi vì chúng ta không thấy điều đó, lý do duy nhất để chúng ta vâng lời Người là đức tin, đức tin cá nhân, bạn tin vào người với người, bạn tin Thiên Chúa.

“Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Người lại đem ai đó đi khỏi con bằng cái chết, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa Giêsu, con không hiểu làm sao Người vừa hoàn toàn là Thiên Chúa vừa hoàn toàn là con người, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Người lại gọi một nhóm người ngu ngốc, nông cạn, ích kỷ là những chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Người và là Giáo Hội có thẩm quyền của Người, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa, con không hiểu làm sao kế hoạch của Người cho đời sống tình dục của con lại đem đến hạnh phúc nhiều hơn kế hoạch của con, nhưng con tin tưởng Người.” Đó chính là sự lựa chọn của chúng ta: Bạn sẽ tin vào ai? Ai thông biết nhất? Ai là Cha của bạn?

Rồi khi chúng ta chọn tin tưởng và hành động dựa trên sự tin tưởng đó, sự chọn lựa đó luôn là đúng, đôi khi ngay lập tức và đôi khi sau một thời gian dài thử thách. Những lời hứa của Thiên Chúa luôn được thực hiện. Đó là điều duy nhất trong cuộc sống được đảm bảo hoàn toàn, 100%, không bao giờ thất bại. Con người thất bại, ngay cả những người vĩ đại, khôn ngoan và thánh thiện nhất. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Nếu Người thất bại, Người sẽ không phải là Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là Thiên Chúa, thì những lời hứa của Người là không thể sai lầm. Nếu chúng không thể sai lầm, thì Người không phải là Thiên Chúa. Không có khả năng thứ ba.

Sự lựa chọn của chúng ta không phải là giữa Thiên Chúa này và một vị thần thấp kém hơn. Chúng ta không thể chọn một thần thấp kém nào khác cả. Sự lựa chọn của chúng ta là Thiên Chúa hoặc hư không.

Rồi phần thưởng sẽ đến. Phần thưởng đầy đủ sẽ đến trong cuộc sống đời sau, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy nó sẽ đến ngay cả trong cuộc sống này; nhiều “món khai vị” của bữa tiệc thiên đàng được ban ngay trên trần gian; nhiều niềm vui đến từ việc tin tưởng Thiên Chúa ngay bây giờ. Bao nhiêu niềm vui? Luôn nhiều hơn những gì chúng ta mong đợi. Mẹ Têrêsa từng nói: “Thiên Chúa sẽ không bao giờ để bạn hơn Người về sự quảng đại.” Làm sao Thiên Chúa lại kém quảng đại, kém yêu thương hơn những gì chúng ta nghĩ về Người? Làm sao khái niệm của chúng ta về Thiên Chúa lại đúng đắn hoặc tốt đẹp hơn Thiên Chúa thật? Làm sao những điều Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những người yêu mến Người lại ít hơn, thay vì nhiều hơn, tất cả những gì mắt chúng ta đã thấy, tai chúng ta đã nghe, và lòng chúng ta đã khao khát?

Và phản ứng của chúng ta đối với sự khôn ngoan, tình yêu và lòng quảng đại tràn đầy của Thiên Chúa tất nhiên là sự kinh ngạc. Chúng ta dần nhận ra rằng những điều Thiên Chúa yêu cầu chúng ta làm, dù không có ý nghĩa gì vào lúc đó, hóa ra lại là sự khôn ngoan vượt trội hơn trí hiểu của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và khiêm tốn. Và đó chính là sự khôn ngoan. Đó là sự khôn ngoan của Mẹ Maria trong biến cố Truyền Tin: “Xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Đó là sự khôn ngoan của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng làm theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22:42).

Hết lần này đến lần khác, chúng ta nhận ra rằng con đường của Thiên Chúa là con đường tốt nhất, và “Tôi đã làm theo ý mình” không phải là bài hát của các thánh khi họ tiến vào thiên đàng, mà là bài hát của những người bị đoán phạt khi họ tiến vào hỏa ngục. Hết lần này đến lần khác, chúng ta được nếm trải những “món khai vị” của thiên đàng trên trần gian khi chúng ta tin tưởng và vâng lời, và những “món khai vị” của hỏa ngục khi chúng ta nghi ngờ và bất tuân. Chỉ có một con đường đến thiên đàng. Một bài thánh ca cũ diễn đạt đơn giản: “Tin và vâng lời, vì không có con đường nào khác.” Con đường khác dẫn đến một nơi khác.

Cuối cùng, Thiên Chúa giao cho chúng ta một nhiệm vụ mới: làm nhân chứng, và chia sẻ kinh nghiệm của chính chúng ta về Tin Mừng, rằng Thiên Chúa là tình yêu, rằng Thiên Chúa hoàn toàn đáng tin, và rằng “tin và vâng lời” là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc. Đó được gọi là việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng qua cả lời nói lẫn việc làm, giống như cái kéo thì có hai lưỡi. Bạn có thể cắt giấy bằng một lưỡi dao, nhưng kéo hoạt động tốt hơn nhiều. Việc làm tốt là điểm khởi đầu, khiến người khác tò mò, và họ sẽ hỏi lý do tại sao; đó là lúc để dùng lời nói. Lời nói mà không có việc làm là không đủ, vì người ta có thể tranh luận với lời nói của bạn, nhưng họ không thể tranh luận với việc làm của bạn.

Không phải mọi Kitô hữu đều được gọi làm giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, nữ tu, tu sĩ, ngôn sứ, giáo lý viên, thần học gia, người làm phép lạ, hay người chữa lành. Nhưng mọi Kitô hữu đều được gọi làm nhà truyền giáo, giống như mọi Kitô hữu đều được gọi làm thánh. Thực ra, hai điều này là một, vì sống thánh thiện là cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng. Việc làm chứng cho Tin Mừng không phải là một kỹ thuật, một phương pháp, hay một kiểu công nghệ thiêng liêng nào, như nghệ thuật bán hàng hay nghệ thuật quảng cáo. Đánh bắt cá là một nghệ thuật chuyên biệt, nhưng đánh bắt người thì không. Đó không phải là thứ có thể được dạy, mà là thứ được lan toả, giống như một “bệnh truyền nhiễm tốt lành.” -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2025

Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy

“Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con” (Híp-ri 12:5-7).

Dù mắt chúng ta không thấy, bên cạnh chúng ta là thiên thần hộ thủ, ngài được Chúa ủy thác chức vụ làm thiên thần hộ thủ của ta từ khi ta được hình thành trong lòng mẹ. Dù mắt chúng ta không thấy, chung quanh chúng ta là ma quỷ như “sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Chúng ta thường không nhớ rằng chúng ta đang sống trong chiến trường, đang phải tập luyện để làm công dân nước trời. Và qua mọi khó khăn, chúng ta cần hỏi Chúa muốn tôi học hỏi điều gì qua sự kiện này.

Khi chúng ta sống đúng theo con đường Chúa vạch ra trong các giới răn, tình thức nhờ học biết Lời Chúa, cầu nguyện, chúng ta không dễ rơi vào những cạm bẫy sự dữ bày ra cách rất tinh tế. Nó không khờ dại gì để bảo ta đi ăn trộm, nhưng nó sẽ khơi dậy ước muốn chính đáng chẳng hạn như “Ồ, cô ấy mặc cái đó đẹp”, rồi ta suốt ngày nghĩ về nó và ước muốn ấy ngày càng mạnh mẽ hơn nếu chúng ta không tỉnh thức để kiềm chế.

Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta như AI robot, tải hết những ý định trong não chúng ta, nhưng Chúa đã không làm như vậy. Ngài dựng nên chúng ta tự do để chọn lựa để rồi Ngài có thể như người cha vô cùng tự hào khoe con mình như Chúa đã làm với ông Gióp. Giữa biết bao tai hoạ, ta nhờ cầm lấy vũ khí Chúa ban, không những không bị tai hoạ vùi lấp mà còn giỏi hơn trước. Điều này làm ông bố nào cũng hãnh diện về con mình.

Không có sự thánh thiện của đời sống đức tin, chúng ta sẽ không có sự sáng suốt của một trí óc tỉnh thức để nhận ra âm mưu tinh tế nhưng rất xảo quyệt của ma quỷ. Đừng để nó đến gần giả làm bạn, lấy dù che hết mưa hồng ân. Rút cục ơn Chúa luôn đổ tràn nhưng bạn không hứng được dù chỉ một giọt. Hãy lắng nghe lời Chúa sửa dạy qua những khó khăn đến với ta vì những lựa chọn của mình.

Share:

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2025

Nổi loạn, Cam chịu, Bằng lòng

Trước khi đi xa hơn, chúng ta cần làm rõ các thuật ngữ. Khi chúng ta đối mặt với những gì bất ưng hay được xem là tiêu cực trong chính mình hay trong hoàn cảnh của mình; lúc bấy giờ, ba thái độ có thể xảy ra:

Trước hết là nổi loạn. Chẳng hạn, chúng ta không chấp nhận con người mình; chúng ta nổi loạn chống lại Thiên Chúa, Đấng đã tác thành chúng ta; chống lại cuộc sống cho phép sự kiện này, sự kiện kia xảy đến; chống lại xã hội .v.v.. Quả thực, nổi loạn không phải luôn luôn tiêu cực - nó có thể là một phản ứng theo bản năng và cần thiết trong những hoàn cảnh cùng cực nào đó.

Như vậy, đó là một phản ứng lành mạnh miễn là chúng ta không đeo bám nó. Nổi loạn cũng có thể tích cực như sự từ khước một tình huống không thể chấp nhận được, một tình huống mà ai ai cũng hành động chống lại từ những động cơ chính đáng với những phương tiện hợp pháp và tương xứng. Tuy nhiên, điều chúng ta xem xét ở đây chính là: nổi loạn như là sự khước từ thực tại.

Thông thường, đó là phản ứng đầu tiên, tức thời của chúng ta trước khó khăn hay đau khổ nhưng nó không bao giờ giải quyết được điều gì. Tất cả những gì mà hình thức nổi loạn này mang lại là làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Đó là nguồn cội của thất vọng, bạo lực và nổi giận. Một loại chủ nghĩa lãng mạn văn chương tự do nào đó đã bênh vực tính nổi loạn, nhưng lẽ thường bảo cho chúng ta rằng, không gì cao cả hay tích cực đã từng được xây dựng trên nổi loạn như một sự khước từ thực tại, nó chỉ làm tăng thêm và nhân rộng cái sai lầm mà nó cố giải quyết.

Nổi loạn có thể kéo theo cam chịu. Chúng ta nhìn nhận rằng, không thể thay đổi hoàn cảnh hay không thể thay đổi chính mình và rốt cuộc chúng ta cam chịu. Cam chịu có thể biểu thị một mức độ tiến triển nào đó đàng sau cuộc nổi loạn theo nghĩa nó dẫn đến một lối tiếp cận ít gay gắt và thực tế hơn. Nhưng ngần ấy thì không đủ. Nó có thể là một đức hạnh đối với các triết gia nhưng không phải là một nhân đức theo Kitô giáo vì nó không bao hàm một niềm hy vọng. Cam chịu là lời tuyên bố về sự bất lực vốn không thể tiến xa hơn. Nó có thể là một giai đoạn cần thiết nhưng nếu dừng lại ở đó thì nó vẫn vô ích.

Thái độ phải hướng tới là bằng lòng. So với cam chịu, bằng lòng dẫn đến một thái độ nội tâm hoàn toàn khác. Chúng ta nói ‘vâng’ với một thực tại mà thoạt tiên được cho là tiêu cực bởi chúng ta nhận ra một điều gì đó tích cực có thể nảy sinh từ đó.

Điều này gợi lên niềm hy vọng. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói ‘vâng’ trước những gì làm nên chính mình bất chấp những khiếm khuyết của bản thân bởi chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương mình; chúng ta tin chắc Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu từ những thiếu sót của chúng ta. Chúng ta có thể nói ‘vâng’ trước những nguyên liệu thô thiển bần cùng và kém cỏi nhất của con người vì tin rằng, “Tình yêu thật mạnh mẽ trong mọi việc đến nỗi nó có thể rút ra điều lành từ mọi sự, cả điều tốt lẫn điều xấu mà nó tìm thấy trong tôi” như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu thổ lộ.

Sự khác biệt tối hậu giữa cam chịu và bằng lòng là khi bằng lòng, thì dù thực tại khách quan vẫn là như nhau, thái độ tâm hồn chúng ta vẫn rất khác nhau. Có thể nói, chúng đã thai nghén các nhân đức tin, cậy, mến. Chẳng hạn, bằng lòng với những khuyết điểm thể lý của con người mình có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, Đấng tác thành chúng ta như con người chúng ta. Vì thế, hành động bằng lòng chứa đựng niềm tin vào Thiên Chúa, tín cẩn Người và vì thế yêu mến Người nữa, vì tin tưởng ai cũng là một cách yêu mến người đó. Do sự hiện diện của lòng tin, cậy, mến nên sự bằng lòng đạt được giá trị, tầm mức và sinh hoa kết quả thật lớn lao. Vì ở đâu có tin, cậy, mến, thì sự mở lòng ra với ân sủng của Thiên Chúa, chấp nhận thánh ân của Người và không sớm thì muộn, những hiệu quả tích cực của ân sủng sẽ được trao ban lúc cần thiết. Ở đâu ân sủng được đón nhận, nó sẽ không bao giờ trở nên vô hiệu nhưng trái lại, luôn hiệu quả một cách phi thường. -- Jacques Philippe, Tự Do Nội Tâm

Share:

Sự bình an không ai lấy mất được

“Con người không được tạo dựng để làm nô lệ, nhưng để làm chúa của thụ tạo”.

Chúng ta thường nghĩ khi không có kiềm chế này, hạn chế kia tôi sẽ tự do hơn. Nhiều người để thoát khỏi cảm giác của một cuộc đời chán nản vì không thoát nổi những ràng buộc của cuộc sống con người, lâm vào cảnh cuộc sống ngày càng tệ hơn do những chọn lựa sai lầm.

Là người Công giáo, chúng ta biết chuyện của các thánh, họ có thể sống trong tu viện, trong gông cùm tù đày của việc bị bách hại, nhưng vẫn có sự tự do tâm hồn. Câu chuyện của Etty Hillesum cho thấy tự do Chúa ban, bằng việc tìm thấy Thiên Chúa của sự bình an bên trong mình.

------------------

Chỉ khi mọi tự do bên ngoài của cô ngày này qua ngày khác bị lấy đi, cô mới khám phá trong mình niềm hạnh phúc và tự do nội tâm không ai có thể cướp mất được kể từ đó trở đi.

Một nhân chứng cho thời đại chúng ta, Etty Hillesum

Etty Hillesum, một thiếu nữ Do Thái chết tại Auschwitz tháng 11 năm 1943, và nhật ký của cô được xuất bản năm 1981. “Chuyện một tâm hồn” của cô mở ra ở Hà Lan vào lúc mà sự tàn sát người Do Thái của Phát xít diễn ra gay gắt nhất.

Khi Etty bắt đầu viết bài báo, thì đời sống đạo đức của cô không hề sáng sủa tí nào. Cô bị tổn thương tình cảm, không có những nguyên tắc luân lý cố định và trước đó đã có một vài tình nhân.

Tuy nhiên, cô bị thôi thúc bởi một khát khao mãnh liệt muốn biết sự thật về chính mình. Nhờ một trong những người bạn của cô, một nhà tâm lý và cũng là người Do Thái, cô khám phá (mà không công khai trở thành người Kitô hữu) một số giá trị cốt lõi của Kitô giáo như: cầu nguyện, sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng và lời Tin Mừng mời gọi cô tin tưởng phó mình cho Đấng Quan Phòng. Khi còn là tù nhân ở trại tị nạn Hà Lan trước khi bị chuyển đến Auschwitz, cô biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, can đảm chịu đựng và hy sinh cho tha nhân. Tất cả điều đó chứng tỏ thực tại đời sống thiêng liêng của cô bất chấp bóng tối bao phủ đời mình.

Thật ngạc nhiên khi đọc cách thức thiếu nữ này hiến dâng chính mình để sống những giá trị Tin Mừng mà cô khám phá dần dần. Chỉ khi mọi tự do bên ngoài của cô ngày này qua ngày khác bị lấy đi, cô mới khám phá trong mình niềm hạnh phúc và tự do nội tâm không ai có thể cướp mất được kể từ đó trở đi. Đây là một đoạn rất ý nghĩa trong kinh nghiệm thiêng liêng của cô: Sáng nay tôi đạp xe dọc theo Station Quay, tận hưởng những con đường vòng rộng lớn của bầu trời ở ven thành phố, hít thở không khí trong lành, tự do. Khắp nơi nhan nhản những biển báo ngăn chặn người Do Thái đến những con đường và vùng quê rộng mở. Nhưng phía trên những con đường chật hẹp đó vẫn còn cho chúng tôi những bầu trời vươn rộng không tỳ tích. Họ không thể làm gì chúng tôi, thật sự họ không thể. Họ có thể quấy rầy chúng tôi, họ có thể cướp đi của cải vật chất, tự do đi lại của chúng tôi, nhưng chính chúng tôi lại đánh mất những tài sản lớn nhất của bản thân bằng sự khúm núm dại dột của mình, bằng chính cảm giác mình bị tra tấn, làm nhục và đàn áp; bằng sự thù hằn của chúng tôi; bằng vẻ vênh váo che giấu nỗi sợ của mình. Dĩ nhiên chúng tôi có thể buồn và thất vọng trước những gì họ đã làm cho mình; điều đó hoàn toàn là con người và dễ hiểu thôi. Tuy nhiên, tổn thương nghiêm trọng nhất vẫn là tổn thương mà chúng tôi gây ra cho chính mình. Tôi thấy cuộc sống tươi đẹp, tôi tự do. Bầu trời trong tôi bát ngát như bầu trời đang giang rộng trên đầu tôi. Tôi tin vào Chúa và tôi tin vào con người, tôi nói thế mà không bối rối. Cuộc sống thật khắc nghiệt, nhưng đó không phải là điều tồi tệ. Nếu ta bắt đầu bằng cách đề cao tầm quan trọng của mình, thì phần còn lại cũng thế. Không phải chủ nghĩa cá nhân thiếu lành mạnh tác động đến ta. Bình an đích thực sẽ chỉ đến khi mỗi cá nhân tìm thấy bình an trong chính mình; khi chúng ta đánh bại tất cả và biến nỗi thù hằn đồng loại dù họ thuộc sắc tộc nào - thậm chí thành tình yêu một ngày nào đó, dù có lẽ điều đó đòi hỏi quá nhiều.

Tuy nhiên, đó là giải pháp duy nhất. Tôi là người hạnh phúc và tôi thực sự yêu mến cuộc đời, trong năm của Chúa 1942, năm chiến tranh không biết lần thứ mấy. – Jacques Philippe, Tự Do Nội Tâm

Share:

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025

Chúa Giêsu, Vị Thượng Tế nhân từ

Trước hết, Chúa chúng ta phải là một con người. Ngài phải giống chúng ta để có thể chia sẻ trong nhân tính của chúng ta. Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta. Nhưng đồng thời, dù Chúa Giêsu là một con người hoàn hảo, Ngài không thể là một con người tội lỗi. Ngài phải là một con người không hề vướng mắc tội lỗi. Ngài phải đứng ngoài dòng chảy khủng khiếp của tội lỗi đã truyền sang và làm ô nhiễm toàn thể nhân loại.

Bạn có nhìn thấy vấn đề không? Ngài phải là một con người; nhưng đồng thời, Ngài cũng phải khác với tất cả những con người khác ở chỗ Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, là Ađam mới và vô nhiễm tội lỗi.

Vấn đề này có thể được ví như một con tàu. Hãy tưởng tượng một con tàu đang lướt trên một vùng biển rất ô nhiễm và dơ bẩn. Nó muốn tiến vào một vùng biển hoặc một cái hồ gần đó, nơi nước trong suốt và tinh khiết. Rõ ràng cần phải có một ranh giới nào đó giữa dòng nước dơ bẩn và dòng nước tinh khiết, nếu không, cả hai sẽ hòa lẫn vào nhau. Vậy điều gì sẽ xảy ra? Thường thì người ta sẽ xây một cửa cống. Con tàu đi qua dòng nước dơ bẩn, rồi tiến vào cửa cống, nơi mà những dòng nước bẩn hoàn toàn bị tách ra khỏi nó, và cuối cùng, con tàu được nâng lên và tiến vào vùng nước trong lành.

Chúa chúng ta phải liên kết với nhân loại tội lỗi đã đi trước, liên kết theo nghĩa rằng Ngài sẽ là một con người. Ngài phải vô nhiễm tội lỗi để chính Ngài không cần được cứu chuộc, nhưng trở thành Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Chúa chúng ta đã được nâng lên khỏi dòng chảy tội lỗi của nhân loại và trở thành thủ lãnh mới của dòng dõi loài người qua việc được sinh ra bởi người trinh nữ.

Hãy suy nghĩ về ứng dụng tuyệt đẹp của điều này đối với tất cả chúng ta. Mẹ Chí Thánh là nguồn cảm hứng của mọi người. Một người mẹ là đấng bảo trợ của bậc trinh khiết, và người trinh khiết là nguồn cảm hứng của tình mẫu tử. Nếu không có các bà mẹ, sẽ không có những trinh nữ trong thế hệ kế tiếp, và nếu không có những trinh nữ, các bà mẹ sẽ quên đi lý tưởng cao cả vươn xa khỏi trần thế.

Bao nhiêu lần khi thăm một gia đình, bạn nghe người ta nói: “Ồ, đứa bé trông giống hệt cha nó.” Nếu chúng ta nhìn Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nói: “Ngài trông giống hệt Mẹ Ngài.” Ngài nhận được từ Cha Ngài thiên tính. Nhưng Ngài cũng nhận được từ Mẹ Ngài một nhân tính vô nhiễm tội lỗi. Đó là lý do chúng ta yêu mến Mẹ Maria. Kính mừng Maria đầy ơn phúc! -- ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Chúa Nhật thứ IV Mùa Thường niên, năm C

Một trong những đóng góp quan trọng của ngôn sứ Giêrêmia đối với lịch sử cứu độ và thần học Kitô giáo chính là bản thân ông, ông là hình bóng của Đức Kitô hơn bất kỳ ngôn sứ nào khác. Tiểu sử cá nhân đóng vai trò rất nhỏ trong sách ngôn sứ Isaia, nhưng lại đóng vai trò rất lớn trong sách ngôn sứ Giêrêmia. Theo nhiều cách, Giêrêmia hòa nhập vào sứ vụ ngôn sứ của mình, đến mức không chỉ lời nói mà cả những trải nghiệm trong cuộc đời ông đều trở thành “lời tiên tri.”

Quả thật, truyền thống ghi nhớ Giêrêmia như vị ngôn sứ chịu đau khổ tiêu biểu, và không ít học giả cho rằng “Người Tôi Trung Đau Khổ” trong phần thứ hai của sách Isaia được mô phỏng theo Giêrêmia. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Giêrêmia là ngôn sứ đầu tiên mà những người đương thời của Đức Giêsu so sánh với Ngài:

“Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa: “Kẻ thì nói là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, có người lại cho là Giêrêmia hay một trong các ngôn sứ.” (Mt 16,13–14)

Những điểm tương đồng thì rất nhiều:

(1) Được chọn từ trong lòng mẹ (Gr 1,5; Lc 1,31)
(2) Được chọn để bị từ chối và đối đầu với dân mình (Gr 1,18–19; Lc 2,34–35)
(3) Được gọi sống đời độc thân (Gr 16,1–4; Mt 19,10–12)
(4) Được ví như chiên bị đem đi giết (Gr 11,19; Ga 1,29.36)
(5) Bị phản bội bởi những người thân cận (Gr 12,6; Ga 13,18.38, v.v.)
(6) Giảng dạy chống lại Đền Thờ và tiên báo sự hủy diệt của nó (Gr 26,2–6; Mc 11,15–19; 13,1–2)
(7) Bị các thượng tế chống đối và bách hại vì thông điệp của mình (Gr 20,1–3; 26,7–9; Mc 11,18)
(8) Bị kết án tử (Gr 26,8–9; Mc 14,57–58)
(9) Bị xét xử bởi một quan tòa do dự, phần nào cảm thông nhưng nhát đảm (Gr 37,16–38,28; Ga 18,28–19,16)
(10) Bị ném xuống hầm và được kéo lên khỏi đó (Gr 37,16–21; Ga 19,40–20,18).

… Cả Giêrêmia lẫn Đức Giêsu đều phù hợp với hình mẫu “Người Tôi Trung Đau Khổ” của Đức Chúa trong sách Isaia (x. Is 52,13–53,12), dù cuối cùng Giêrêmia không phải là nhân vật vương giả như Người Tôi Trung. Tuy nhiên, ký ức và phụng vụ của Giáo Hội vẫn tôn vinh Giêrêmia như một hình bóng của vị ngôn sứ chịu đau khổ, được hiện thực hóa hoàn toàn nơi Đức Giêsu thành Nadarét.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối liền mạchvới bài đọc tuần trước, khi  Đức Giêsu gặp phải phản ứng chống đối mạnh mẽ từ chính dân làng của Ngài, giống như Giêrêmia đã từng gặp (x. Gr 11,18–23, khi những người cùng làng âm mưu giết ông). Họ đặc biệt phẫn nộ khi Đức Giêsu trích dẫn những ví dụ từ Cựu Ước, trong đó các ngôn sứ vĩ đại của Israel không chữa lành người Israel nhưng lại chữa lành và ban phúc lành cho dân ngoại: người phụ nữ xứ Sidon tại Xarépta, tướng quân Naaman người Syria.

Dân làng Nadarét là những người Israel tốt. Thực tế, nhà Kinh Thánh và khảo cổ học Biển Đức, linh mục Bargil Pixner, cho rằng họ phần lớn là hậu duệ của hoàng tộc Đavít. Dù thế nào đi nữa, họ cảm thấy mình là dân đặc tuyển. Họ có một quyền lợi đặc biệt đối với Thiên Chúa. Phúc lành của Thiên Chúa là dành cho họ, chứ không phải cho dân ngoại tội lỗi!

Họ đã quên rằng lý do Thiên Chúa chọn Abraham, tổ phụ của dân Israel, là để ông và dòng dõi ông mang phúc lành đến cho mọi gia đình trên mặt đất (x. St 12,3). Họ quên rằng các ngôn sứ vĩ đại đã tiên báo ơn cứu độ cho cả dân ngoại, như trong đoạn văn nổi tiếng này của Isaia:

Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”(Is 49,5–6).

Một lần nữa, chúng ta thấy chủ đề về “ngôn sứ được hình thành từ trong lòng mẹ” mang ơn cứu độ đến cho muôn dân… Thiên Chúa biết mỗi chúng ta từ khi còn trong dạ mẹ và đã hoạch định cho mỗi người một sứ mạng và mục đích trong cuộc đời.

Các bài đọc Chúa Nhật này kêu gọi chúng ta đối diện với bách hại bằng lòng can đảm, vì bách hại là dấu chỉ của ngôn sứ đích thực. Những ai chia sẻ vai trò ngôn sứ của Đức Kitô qua Bí tích Thánh Tẩy không thể mong tránh khỏi bách hại trong cuộc đời này.

Đồng thời, chúng ta không được để lòng mình rơi vào hận thù, cay đắng hay tự cho mình là công chính. Không như dân làng Nadarét, chúng ta phải thực hành tình yêu và nhớ rằng Tin Mừng là dành cho tất cả mọi người, chứ không phải tài sản riêng của chúng ta.

Ngôn sứ lên tiếng chống lại bất công, đúng vậy—nhưng với hy vọng rằng mọi người sẽ hoán cải và được cứu độ bằng cách bước vào tình yêu của Thiên Chúa. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Năm, 30 tháng 1, 2025

Điều răn thứ IV: Thảo kính cha mẹ

“Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Côlôsê 3:20).

Ba điều răn đầu tiên nói về bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, và sáu điều răn cuối cùng nói về bổn phận của chúng ta đối với tha nhân. Ở giữa là Điều răn thứ tư: "Hãy thảo kính cha mẹ ngươi", vì đó là mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người. Sự công bằng mà chúng ta nợ cha mẹ rất gần với sự công bằng mà chúng ta nợ Thiên Chúa và liên quan đến sự công bằng mà chúng ta nợ tha nhân. Sau Thiên Chúa, chính cha mẹ đã ban cho chúng ta sự sống, và Điều răn thứ tư này chính là điều răn bảo đảm tương lai cho nền văn minh của chúng ta.

Napoléon từng được hỏi về thời điểm giáo dục một đứa trẻ bắt đầu. Ông trả lời: “Hai mươi năm trước khi đứa trẻ được sinh ra – trong quá trình người mẹ được giáo dục.” Điều này đúng vì cha mẹ thay mặt Thiên Chúa trong gia đình. Một đứa trẻ giống như một khối đất sét trong tay cha mẹ, những người mà sẽ quyết định tương lai của chúng. Khi một đứa trẻ chào đời, đã có một triều thiên chờ sẵn em trên Thiên Đàng, và khốn thay cho những bậc cha mẹ không hoàn thành mục đích cao thượng ấy và làm hỏng ơn gọi [làm con Chúa] của đứa trẻ. Một trong những nguy hiểm nghiêm trọng nhất đối với trẻ em chính là tấm gương của cha mẹ. Sự suy thoái đạo đức bắt đầu từ trong gia đình. Sự suy thoái của cha mẹ sẽ trở thành sự suy thoái của con cái, và luật thiêng liêng về vấn đề này đã được bày tỏ rõ ràng trong Kinh Thánh. Trong thư gửi tín hữu Cô-lô-sê, chúng ta đọc về mối quan hệ mà con cái nên có với cha mẹ, và sau đó là mối quan hệ mà cha mẹ nên có với con cái.

Con cái phải vâng lời cha mẹ trong mọi sự; đó là dấu chỉ xinh đẹp của việc phụng sự Chúa và vâng lời chính Chúa. Cha mẹ không được khiến con cái tức giận hoặc làm tổn thương tinh thần của chúng. Sự dịu dàng của cha mẹ phải phản ánh lòng thương xót của Thiên Chúa đối với hết thảy chúng ta.

Một bài học tuyệt vời về sự vâng phục được thể hiện trong cuộc đời của Hài Nhi Thánh tại Nazareth. Không có bằng chứng nào cho thấy Ngài chỉ trao cho Đức Maria và Thánh Giuse quyền để ra lệnh trên danh nghĩa chứ không thực. Kinh Thánh nói rằng Ngài đã sống dưới sự vâng phục của họ. Hãy tưởng tượng, Thiên Chúa vâng phục con người! Thiên Chúa, Đấng mà trước mặt Ngài các thiên thần, quyền năng và thế lực phải run sợ, lại vâng phục Đức Maria và Thánh Giuse vì tình yêu dành cho Mẹ Maria. Đây là hai phép lạ vĩ đại về sự khiêm nhường và tôn vinh: Thiên Chúa làm người vâng phục một người phụ nữ, và một người phụ nữ có quyền truyền lệnh cho Thiên Chúa làm người. Chính việc Ngài vâng phục Mẹ Maria đã trao cho Mẹ quyền lực và sự vâng phục kéo dài suốt ba mươi năm. -- ĐTGM Fulton Sheen, Your Life Is Worth Living

Share:

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2025

Phạm tội nhưng vẫn mong ước khiêm nhường vâng phục: Đừng để tội khiến bạn xa Chúa

Trong Thánh Lễ, chúng ta được mời tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu trên cây thánh giá bằng việc cùng dâng lên Chúa hy tế của đời mình. Dường như không ai trong chúng ta theo lẽ tự nhiên nghĩ rằng tội lỗi và khiếm khuyết của mình cũng có thể được kết hợp với hy tế của Chúa Giêsu trên bàn thờ Thánh Lễ.

Nhưng chúng ta quên là trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh ấy, khi Chúa bị treo trên cây thập tự, không ai nhận ra đây là Con Thiên Chúa mà đây là một tội nhân ghê tớm, đáng lãnh nhận hình phạt khủng khiếp của việc bị đóng đanh: “Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu” (Mt 27:39) và “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai” (Thánh vịnh 22:7-8).

Chúa Giêsu đã gánh lấy trên mình tội lỗi của toàn thể nhân loại, cho mãi đến ngày tận thế. Và Chúa Cha đã đón nhận hy tế của con người nhân loại là Đức Giêsu vì Đức Giêsu tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha và vâng lời Chúa Cha để bị hành hạ bởi sự dữ cho đến chết. Tội lỗi mà Chúa Giêsu gánh lấy trên bản thân mình, cũng chẳng khác gì tội bạn đang phạm. Nhưng nhờ dâng lên nó trong Thánh Lễ, chúng ta học để mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu: Cha của tôi rất yêu thương tôi và nếu tôi cậy nhờ đến Ngài, Ngài sẽ giúp tôi và tôi sẽ không cần phải xấu hổ. Ngay cả khi Đức Giêsu bị chôn vùi trong tội, nhờ sự tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu và quyền năng của Chúa Cha, Người đã được Thiên Chúa cho trỗi dậy từ cỗi chết và đem sự sống lại ấy đến cho mọi kẻ luôn cậy trông vào Người.

Ước mong rằng bạn và tôi, sau khi phạm tội sẽ không bao giờ nản lòng nhưng sẽ như người con hoang đàng nhận ra: “người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” và trở về với Cha mình. Vì nếu ngay cả Con Một của Ngài, Ngài còn ban cho chúng ta khi chúng ta còn trong tội lỗi… phương chi bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra (x. Rôma 5:8-9)

Share:

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2025

Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để cùng trị vì với Chúa Kitô -- Chúa Nhật thứ III Mùa Thường niên, năm C

Chúa có quan tâm đến những nhu cầu, ước muốn nhỏ bé của tôi không?

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”

Chúa Giêsu thực sự đã làm hết thảy những điều này cả về chữa lành bệnh tật thân xác và linh hồn, xua đuổi bóng tối của sự ngu muội về con đường hạnh phúc thật qua việc giảng dạy của Ngài, đem nước Chúa đến trần gian qua việc đánh bại khí cụ của ma quỷ là sự chết (chết không là hết. Sự chết không còn làm chủ con người được nữa).

“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Lời này của Chúa có phải là lời Chúa nói cho bạn không? Không ít khi chúng ta cảm thấy như Chúa làm việc vĩ đại của Chúa, còn cuộc sống của bản thân thì ta phải tự lo lấy. Hoặc trên thế giới này có cả tỷ người, làm sao mà Chúa có thể chăm sóc kỹ lưỡng được những nhu cầu xiu xíu của tôi.

Có lẽ những tư tưởng đó cũng có lý. Nó đến từ những thiếu thốn về vật chất, tình yêu, ý nghĩa của cuộc sống. Và chắc chắn ai cũng đã có lần nghĩ như vậy vì chúng ta không có tầm nhìn sâu rộng mà là chỉ khốn khổ lúc này.

Chúng ta không chọn để sinh ra trên trái đất này nhưng Chúa đã đặt chúng ta ở đây với một mục đích: lớn lên, trưởng thành, để có đủ khả năng làm người con xứng đáng được thừa hưởng gia tài của Cha trên trời.

Và Chúa phải tập luyện chúng ta như một huấn luyện viên tài tình để chắc rằng chúng ta sẽ thắng được giải. Bạn thử nghĩ những đau khổ Chúa phải chịu, cắn răng nhìn chúng ta như người cha nhìn con trên bàn mổ. Công việc biến đổi trái tim ích kỷ và nhỏ bé thành trái tim biết yêu thương và quảng đại, người cha mẹ nào cũng biết – sức người không thể làm được. Đứa con cần biết bao nhiêu tình yêu vẫn không biết cha mẹ yêu thương con. Nhưng Thiên Chúa sẽ làm việc ấy cho chúng ta, ngay cả điều đó đòi hỏi Ngài phải chết khổ nhục trên cây thập giá.

Không một nhu cầu, ước mong của chúng ta dù nhỏ chừng nào mà Chúa không biết đến, mà Chúa không quan tâm.

Share:

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2025

Giống chúng ta về mọi mặt ngoại trừ tội lỗi

Chúa của chúng ta đã mang lấy bản tính con người để Ngài có thể cảm thông với những yếu đuối của chúng ta. Thư gửi tín hữu Híp-ri có một đoạn rất rõ ràng về điểm này: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”

Chúa chúng ta trên thiên đàng là vị Thượng tế của chúng ta. Ngài là Đấng trung gian của chúng ta. Ngài là người có thể hiểu chúng ta. Ngài không tách biệt khỏi chúng ta, vì Ngài đã mang lấy bản tính con người của chúng ta. Bản tính con người đó, khi còn trên trái đất này, rất nhạy cảm đến mức bị xúc động bởi vẻ đẹp của một bông hoa huệ. Ngài đã xúc động khi một con chim sẻ bị thương và rơi xuống đất. Ngài đã cảm động cách mạnh mẽ bởi bất cứ điều gì có thể chạm vào trái tim con người, dù cao hay thấp, tốt hay xấu, bạn hay thù.

Không ai có thể nằm ngoài tầm với của sự cảm thông siêu việt đó, vì không ai có thể vượt ra khỏi vòng tay yêu thương đó. Chúa Giêsu có thể cảm thông với người nghèo, vì Ngài đã từng là nghèo; với những người mệt mỏi và nặng nề, vì Ngài đã từng mệt mỏi và kiệt sức; với những người cô đơn, bị hiểu lầm và bị bách hại, đơn giản vì Ngài đã từng ở trong hoàn cảnh đó.

Ngài có thể cảm thông vì Ngài đã bị thử thách, cả về tâm trí lẫn cảm xúc, bị thử thách bởi sợ hãi, bởi sự buồn bã không lường trước, bởi sự bối rối trong tâm trí, và bởi cuộc đấu tranh kịch liệt với sự ác. Ngài có thể cảm nhận đến tận cùng những nỗi đau sâu sắc nhất trong cuộc đời trần thế của chúng ta. Điều tuyệt vời nhất là Người bị thử thách này không vướng mắc tội lỗi. Đó là điều khiến Ngài có thể đón nhận mọi sự với lòng cảm thông, không gì khác ngoài sự cảm thông trong mọi nỗi buồn, đơn giản vì Ngài không phạm tội. – ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2025

Sự quan trọng của việc thờ phượng

Trích thư của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo, gửi tín hữu Ê-phê-xô.

Anh em hãy cố gắng hội họp thường xuyên hơn để tạ ơn Thiên Chúa và ngợi khen Người. Vì khi anh em đến gặp gỡ nhau thường xuyên thì sức mạnh của Xa-tan bị tiêu diệt, và sự phá hoại do nó gây nên ắt bị dẹp tan bởi anh em sống hợp nhất trong đức tin. Không gì quý trọng hơn một nền hoà bình loại trừ được mọi cuộc giao tranh với kẻ thù trên trời và dưới đất.

Trong những điều ấy, không có gì là bí ẩn đối với anh em, nếu anh em có lòng tin và lòng mến hoàn hảo đối với Đức Giê-su Ki-tô. Đó là khởi đầu và cùng đích của cuộc sống : lòng tin là khởi đầu, lòng mến là cùng đích. Khởi đầu và cùng đích hợp lại là Thiên Chúa, còn tất cả những điều khác liên quan tới đời sống công chính đều xuất phát từ đó. Không ai tuyên xưng đức tin mà lại phạm tội, không ai có lòng mến mà lại ghét người. Xem quả thì biết cây. Cũng vậy, người ta nhận biết những ai xưng mình là người của Đức Ki-tô qua các việc những người ấy làm. Quả thế, vấn đề không phải là tuyên xưng bây giờ, nhưng là bền đỗ trong đức tin cho đến cùng.

Thà im lặng mà làm còn hơn nói mà không làm. Dạy dỗ là điều tốt, nếu người ta làm điều người ta nói. Chỉ có một thầy dạy là Đấng đã phán, và tất cả được dựng nên. Và cả những gì Người đã làm trong thinh lặng cũng xứng đáng với Chúa Cha. Ai có lời của Đức Giê-su thì có thể thật sự nghe được cả sự thinh lặng của Người để nên hoàn thiện mà hành động bằng lời nói và được người ta nhận biết nhờ sự thinh lặng của mình. Không có gì bí ẩn đối với Chúa, và cả những điều bí mật nhất của chúng ta cũng ở kề bên Người. Vậy chúng ta hãy làm mọi sự với ý thức rằng chính Người đang ở trong chúng ta, để chúng ta nên đền thờ của Người và chính Người ở trong chúng ta, Người là Thiên Chúa của chúng ta, Đấng đang có và sẽ xuất hiện trước mặt chúng ta, nếu chúng ta yêu mến Người cho phải đạo.

Thưa anh em, anh em đừng lầm. Những kẻ phá hoại gia đình người khác sẽ không được Nước Thiên Chúa làm gia nghiệp. Những kẻ phá hoại gia đình phần xác mà còn phải chịu án tử hình, thì kẻ đem giáo thuyết xấu xa mà làm hư hỏng đức tin vào Thiên Chúa, đức tin mà Đức Giê-su Ki-tô đã chịu đóng đinh thập giá để đem lại, thì càng đáng chết hơn biết bao ! Kẻ vướng vào tội như thế sẽ phải vào lửa không hề tắt, cả người nghe theo nó cũng vậy.

Chúa đã chịu xức dầu trên đầu là để đem cho Hội Thánh sự bất hoại. Anh em đừng xức vào mình dầu hôi thối là giáo thuyết của thủ lãnh thế gian này, kẻo nó bắt được anh em mà kéo khỏi sự sống đã được ban tặng cho anh em. Tại sao chúng ta không trở nên khôn ngoan hết thảy nhờ đón nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô ? Tại sao chúng ta lại chịu hư đi một cách ngu xuẩn bởi không nhận biết ân huệ mà Chúa đã thật sự gửi đến ?

Tâm trí tôi đã gắn chặt vào thập giá, thập giá đó là cớ vấp ngã cho kẻ không tin nhưng lại là ơn cứu độ và sự sống đời đời cho chúng ta. -- Trích từ Kinh Sách

Share:

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2025

Chúa Giêsu biến nước thành rượu -- Chúa Nhật thứ II Mùa Thường niên, năm C

Khi ấy, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giê-su đáp : “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Gioan 2:1-5).

Gioan là người duy nhất trong bốn Thánh sử ghi lại câu chuyện này, có lẽ vì thánh Gioan là người đã đưa Đức Maria về nhà mình sau khi Chúa Giêsu nói với Gioan từ cây thánh giá: “Này là Mẹ của con,” và với Đức Maria, “Này là con Bà.” Đây hẳn là một trong những câu chuyện yêu thích của Đức Maria.

Câu chuyện bắt đầu trong một lễ cưới. Tiệc cưới thường kéo dài bảy ngày trong nền văn hóa đó. Họ coi trọng cả hôn nhân và việc ăn mừng hôn nhân hơn chúng ta rất nhiều. Đức Maria có mặt ở đó nhưng không có thánh Giuse, điều đó có nghĩa là thánh Giuse đã qua đời trong khoảng thời gian mười tám năm giữa đám cưới này, khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của mình, ở tuổi ba mươi, và lần cuối cùng chúng ta nghe về thánh Giuse là khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi và ở lại trong đền thờ Giê-ru-sa-lem ba ngày.

Việc hết rượu là một sự bẽ mặt khủng khiếp cho chú rể của một buổi lễ cưới. Đức Maria đã đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Ngài vấn đề này – điều đó có nghĩa là Mẹ phải biết khả năng làm phép lạ của Ngài. Nhưng Ngài vẫn chưa làm bất kỳ phép lạ nào trước công chúng, vì Ngài chưa có ý định bắt đầu sứ vụ công khai của mình.

Điều này tự nó là một sự thật đáng chú ý và đầy ý nghĩa: rằng Chúa Giêsu đã trì hoãn ba năm dài sứ vụ công khai của mình cho đến khi Ngài ba mươi tuổi. Ngài đã dành gấp mười lần thời gian để chuẩn bị cho công việc của mình trước khi thực hiện nó. Bất kỳ họa sĩ nào cũng hiểu điều đó… Những năm tháng lặng lẽ trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng quan trọng như những năm tháng thực thi sứ vụ công khai mà chúng ta biết đến.

Lời thỉnh cầu của Đức Maria với Chúa Giêsu để giải quyết vấn đề gây xấu hổ của việc hết rượu là một ví dụ hoàn hảo về sự khéo léo của phụ nữ. Mẹ không bảo Chúa Giêsu phải làm gì. Mẹ không tranh luận, không cầu xin. Mẹ không quấy rầy hoặc làm phiền Chúa Giêsu, không làm Ngài cảm thấy mắc lỗi. Mẹ chỉ đơn giản nói với Ngài sự thật: “Họ hết rượu rồi.” Lời cầu nguyện ấy biểu lộ đức tin lớn lao. Mẹ không thêm gì vào sự thật mà chỉ đơn giản là họ đã hết rượu vì Mẹ biết rõ Chúa Giêsu. Mẹ biết lòng trắc ẩn của Ngài. Mẹ chắc hẳn đã trao cho Chúa Giêsu ánh mắt thông hiểu Chúa sẽ làm gì, hơn cả triệu lời nói…

Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu thử thách đức tin của Mẹ. Về cơ bản, Ngài nói: Điều đó có thể là vấn đề của Mẹ, nhưng không phải của con. Mẹ không nghĩ đó là câu trả lời cuối cùng của Chúa Giêsu. Mẹ biết Chúa quá rõ để nghĩ như thế. Phản ứng của Mẹ không phải là quay lại tranh luận với Chúa Giêsu mà chỉ đơn giản cho rằng câu trả lời cuối cùng của Ngài sẽ trái ngược với những gì Ngài đã nói với Mẹ; rằng Ngài sẽ thực sự coi đây là vấn đề của Ngài, không chỉ của Mẹ. Ngài sẽ coi đó là vấn đề của Ngài chính xác vì nó là vấn đề của Mẹ. Ngài cũng biết điều đó. Ngài biết Mẹ quá rõ để biết Mẹ mình biết Ngài đến mức nào. Không ai trong toàn vũ trụ biết Chúa Giêsu rõ hơn Mẹ của Ngài.

Thực tế là Chúa Giêsu thay đổi kế hoạch bắt đầu sứ vụ công khai của mình vì sự can thiệp nhẹ nhàng của Mẹ. Sự cầu bầu của Mẹ phải đem lại cho chúng ta lòng tin tưởng lớn lao vào sức mạnh cầu nguyện của Mẹ. Mẹ Maria có thể thay đổi suy nghĩ của Chúa Giêsu! Nếu Chúa Giêsu nói không với lời cầu nguyện của bạn, hãy đến với Mẹ Maria. Ngài không thể nói không với Mẹ! Ngài là Chúa của vũ trụ, nhưng Mẹ là Mẹ của Chúa của vũ trụ. Ngài là Đầu của Giáo Hội, là Thân thể của Ngài, và Mẹ Maria tượng trưng cho Giáo Hội; nhưng Mẹ là cái cổ có thể xoay được Đầu.

Điều tiếp theo Đức Maria nói không phải là với Chúa Giêsu. Mẹ biết rằng Mẹ không cần nói thêm lời nào với Chúa Giêsu. Mẹ biết rằng Mẹ không cần cố gắng thay đổi ý định của Ngài. Mẹ cần thay đổi suy nghĩ của những người phục vụ bữa tiệc. Vì vậy, Mẹ đưa ra cho họ điều răn tốt nhất mà bất cứ ai từng đưa ra cho người khác, lời khuyên rất tốt nhất trên thế giới, lời khuyên tóm tắt và chứa đựng tất cả mọi thứ trong cuộc sống của một người Kitô hữu, trong một câu ngắn: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Đó là những lời cuối cùng của Mẹ được ghi lại. Gioan ghi lại chúng vì thánh sử biết rằng chúng không chỉ dành cho những người phục vụ tại bữa tiệc mà còn là cho tất cả Kitô hữu, cho toàn thể Giáo Hội và mọi cá nhân trong đó cho đến ngày tận thế. Đó là lời khuyên duy nhất mà không ai có thể sai lầm khi làm theo. Nó là ý nghĩa toàn bộ của cuộc sống, và đó là bí quyết để trở thành một vị thánh: đơn giản là tuân theo điều răn này, hãy nói với Thiên Chúa làm người, “Xin cho ý Chúa được thực hiện,” với tất cả trái tim, linh hồn, tâm trí và sức mạnh của bạn.

Và kết quả là phép lạ đầu tiên trong nhiều phép lạ của Chúa Giêsu, biến nước thành rượu… [Phép lạ] mời gọi chúng ta đặt tất cả đức tin vào Chúa Giêsu, vì Ngài là Thiên Chúa, và “với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể” (Mat. 19:26).

Qua tất cả các phép lạ, Chúa Giêsu làm điều gì đó dường như bất khả thi, như biến nước thành rượu. Bằng cách nào đó, chúng xoay chuyển tình thế, biến điều tồi tệ thành tốt hơn, biến điều đã là trở thành tương lai, biến trống rỗng thành đầy đủ, biến không đủ thành đủ.

Và không chỉ là đủ: như người quản tiệc ngạc nhiên nói với chàng rể, “Anh đã giữ rượu ngon cho đến bây giờ.” Chúa không chỉ khôi phục lại tình hình đã mất; Ngài làm cho nó tốt hơn bao giờ hết.

Thiên Chúa cũng làm điều đó với chúng ta. Ngài giữ những điều tốt nhất cho đến cuối cùng. Khi bạn ra khỏi đời này, bạn sẽ thấy điều gì đó đẹp đẽ vô hạn hơn bất cứ điều gì bạn từng thấy trước đây, điều mà không ai có thể diễn tả thành lời, điều mà Thánh Phaolô mô tả bằng những lời này: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người” (1 Cor. 2:9–10). -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2025

Ai cũng có thể nên thánh

Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. (Titô 3:6-7)

Để trở nên thánh là điều rất khó, thực sự là điều sức người không thể làm được. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức loài người để tập tành nhân đức trở nên người thánh thiện, xứng đáng được Chúa thương thì 99.99% loài người không còn hy vọng. Và 0.001% loài người nghĩ họ có thể vào được thiên đàng nhờ đời sống liêm chính của mình, thực sự không biết gì về Thiên Chúa, không biết về chính bản thân.

Nhưng không ai chúng ta vì thế mà nản lòng. Để nên thánh là điều AI AI (không phải artificial intelligence đâu ạ) cũng CÓ THỂ làm được. Làm giàu không phải ai cũng làm được nhưng nên thánh, vào thiên đàng, ai cũng có thể làm được. Vì không ai trong chúng ta có thể tự cứu rỗi mình mà là chính Chúa Cha đã làm mọi sự cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.

Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời như chúng ta vẫn hy vọng (Titô 3:6-7).

Và đời sống đạo đức, công chính là để cộng tác với Chúa và không cho phép sự dữ dẫn đưa chúng ta trật khỏi kế hoạch của Chúa. Đời sống đức tin: tham dự Thánh Lễ, xưng tội, cầu nguyện, hỏi hỏi Kinh Thánh giúp chúng ta đặt mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu, quyền năng của Ngài bảo vệ chúng ta khỏi những tấn công của kẻ thù. Chúa có thừa đủ quyền năng để dùng mọi sự, ngay cả những vấp ngã, những chướng ngại vật trên đường đời để huấn luyện, làm chúng ta “thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1).

“Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Titô 2:11-12).

Share:

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2025

Phép rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa -- Chúa Giêsu chịu phép rửa, Năm C

“Phần tôi, tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần và bằng lửa." (Luca 3:16)

Bí tích Rửa tội luôn đi kèm với đức tin, luôn bao hàm đức tin, và luôn giả định có đức tin—hoặc là đức tin của người lớn muốn trở thành Công giáo đang được rửa tội, hoặc là đức tin của cha mẹ và Giáo Hội trong trường hợp rửa tội cho trẻ sơ sinh. Tin Mừng theo Thánh Gioan nói rằng khi chúng ta “tin” thì chúng ta “đón nhận” (xem Gioan 1:12–16). Khi chúng ta mở cửa, Thiên Chúa đến. Thiên Chúa đến thực sự, chứ không chỉ là biểu tượng.

Đây không chỉ là một lối sống mới, hoặc một bộ lý tưởng hay nguyên tắc mới; đây là một sự sống mới, một kiểu sống mới. Nó giống như Pinocchio biến từ một con rối gỗ thành một sinh vật sống, hoặc như con cóc biến thành hoàng tử khi công chúa hôn nó. Nhiều câu chuyện cổ tích được viết có biểu tượng Kitô giáo.

Câu chuyện về Pinocchio chính xác hơn câu chuyện hoàng tử cóc, vì khi con cóc được hôn, nó không còn là cóc nữa, nhưng khi Pinocchio trở nên sống động, cậu ta vẫn là một cái đầu làm bằng gỗ, và cậu ta chọn những người bạn sai lầm và học cách nói dối, khiến mũi cậu dài hơn sau mỗi lần nói dối. Đó chính là chúng ta.

Chúng ta có sự sống của Chúa, chúng ta có Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nhưng chúng ta sống như những người không biết đến sự sống mới. Chúng ta có hai sự sống trong mình: tự nhiên và siêu nhiên, thuộc về con người và thuộc về Thiên Chúa, tạm thời và vĩnh cửu, xác thịt và thần khí. Thánh Phaolô gọi chúng là “con người cũ” và “con người mới” (Ê-phê-sô 4:22–24).

Con người cũ đến từ A-đam thứ nhất, con người mới đến từ Đức Kitô, A-đam mới. Đó là ý của Thánh Phaolô khi ngài nói rằng “xác thịt có những ham muốn chống lại Thần Khí, và Thần Khí chống lại xác thịt” (Ga-lát 5:17). Xác thịt và thần khí không có nghĩa là thân xác và linh hồn. Chúng có nghĩa là con người cũ, con người tội lỗi mà chúng ta nhận từ A-đam và con người mới được cứu chuộc mà chúng ta lãnh nhận từ Đức Kitô.

…Không giống như lửa vật chất, lửa của Thánh Thần chỉ đốt cháy những điều xấu. Càng đến gần ngọn lửa thông thường, bạn càng bị hủy hoại, nhưng càng đến gần ngọn lửa thánh thiêng liêng, bạn càng sống mãnh liệt hơn. Ngọn lửa này càng làm bạn cảm thấy bị đốt cháy bạn khi bạn càng xa rời nó.

Lửa là biểu tượng tự nhiên cho đam mê và cường độ. “Thiên Chúa chúng ta là ngọn lửa thiêu,” thư gửi người Do Thái nói (Híp-ri 12:29). Thiên Chúa không phải là một ông già ngủ gật; Ngài là một người Cha yêu thương và do đó Ngài có quyền đòi hỏi. Ngài dễ được chúng ta làm hài lòng nhưng khó thỏa mãn. Chúng ta không thoải mái khi gặp Ngài; đối với chúng ta Ngài không là người chán ngắt, không nửa nóng nữa lạnh. Ngài là ngọn núi lửa của tình yêu. Ngài không yêu rồi lại hết yêu như chúng ta, vì Ngài là tình yêu. Thiên Chúa không thể yêu đậm sâu hơn nữa cũng như mặt trời không thể sáng hơn hay biển không thể ướt hơn.

Càng để ngọn lửa này cháy trong tâm hồn mình, để nó thiêu đốt mọi sự ích kỷ tìm thoải mái của mình, cuộc sống của bạn sẽ càng được biến đổi. Hãy hỏi bất kỳ vị thánh nào.

Tình yêu là ngọn lửa sống động. So với những ham muốn của chúng ta, tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn rất nhiều. Tình yêu của Chúa đối với những ham muốn của con người thì  như mặt trời đối với que diêm. Nó giống như ánh sáng laser cắt xuyên qua thép cứng nhất. Bất cứ khi nào bạn cầu nguyện, bạn đang chịu phẫu thuật laser trên linh hồn mình. Cầu nguyện là phòng mổ của Chúa. Ngài đang chờ sự đồng ý của bạn để thực hiện ca mổ. Và bạn có thể tin tưởng bác sĩ này vì đôi tay cầm dao mổ có lỗ đinh trên đó. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 8 tháng 1, 2025

Cảnh tỉnh nhưng không cần sợ hãi

Hôm nọ đọc được câu này trong bài đọc của Thánh lễ: Ai phạm tội, KẺ ẤY LÀ NGƯỜI CỦA MA QUỶ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá huỷ công việc của ma quỷ (1 Gioan 3:8).

Đọc xong, nghĩ con là kẻ tội lỗi, có những lần con đã là con cái của ma quỷ. Nhưng mình không thích chút nào việc bị liệt kê là “người của ma quỷ”. Chẳng lẽ con đường đi theo Chúa bấp bênh quá sức vậy? Hễ chút là sa hỏa ngục và Thiên Chúa sao mà “dữ” quá vậy?

Phúc âm thánh Gioan có câu: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Gioan 10:28), nghĩa là người Kitô hữu có thể tin tưởng để bình an đi theo Chúa.

Còn nữa, Giáo hội cũng dạy chỉ tội trọng mới cắt đứt chúng ta hoàn toàn khỏi ân sủng và Chúa nhân từ sẽ tha hết mọi tội chúng ta thực lòng ăn năn. Tìm cách để khỏi bứt rứt, mình tìm chú giải (đáng tin cậy của Công giáo) xem họ nói gì thì tìm thấy đoạn này:

“Ngược lại với sự công chính, ai phạm tội thuộc về ma quỷ, vì ma quỷ đã phạm tội từ lúc ban đầu. Một lần nữa, bản dịch ESV, “Whoever makes a practice of sinning is of the devil” diễn đạt chính xác hơn thì hiện tại tiếp diễn của động từ và chỉ ra khuynh hướng phạm tội liên tục mà Gioan dường như đang nghĩ đến.”

Thấy bản dịch này được cho là chính xác hơn, mình đi tìm định nghĩa của cụm từ “makes a practice” và tìm thấy nó là “to do something regularly or habitually”. Từ đó mình tìm dịch lại câu ấy thành: “Ai thực hành trong cuộc sống việc phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ” hoặc có thể dịch “Ai thường hằng cứ thế mà phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ”.

Vấn đề là đúng thực ma quỷ không dễ thả kẻ nào rơi vào cạm bẫy của nó vì nó rất thù ghét con người. Nó sẽ tìm mọi cách để kẻ dù đã được Chúa tha tội qua việc sám hối, qua việc đi xưng tội, đã được cứu, nhưng vẫn còn những vết thương trong ta, nó sẽ dùng để ta không thể vững bước. Nhưng mà chẳng lẽ con đường cứu chuộc quá là khó khăn vậy sao?

Thánh Phaolô có nói: “Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao ? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (1 Cô-rin-tô 6:9).

Thế nhưng không ai bỗng một hôm gọi người nào đó là kẻ dâm đãng trừ khi người đó sống một cuộc đời dâm đãng, không chút hối hận. Đa số chúng ta nếu phạm một trong những tội này, sẽ hối hận và xin lòng thương xót Chúa, cho chúng ta cơ hội để thực lòng sám hối để thay đổi cuộc sống.

Và còn có những câu Kinh Thánh dưới đây để bổ sung cho những câu trên:

Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian. Hễ ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa (1 Gioan 4:14-15).

Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. 3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô (Gioan 17:2-3).

Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rôma 10:9).

Nhìn lại ta thấy Chúa thật nghiêm túc, nếu không nói là nghiêm khắc. Hoặc Chúa như một người cha rất dễ mủi lòng với đứa con biết nũng nịu của mình. Nhìn vào lịch sử của các thánh, mình sẽ chọn hình ảnh Thiên Chúa là Cha rất mực yêu thương con mình.

Có những người đã nghĩ Chúa rất nghiêm khắc, nhưng họ không là những người gần gũi với Chúa. Có những người nghĩ Chúa là Cha nhân từ và mình nhận ra họ là những thánh lớn trong Giáo hội.

Là người Kitô hữu, mình sẽ chọn sống tin tưởng vào Chúa, phó thác vào tình yêu quan phòng của Chúa và sống gần gũi với Chúa. Chúa sẽ nghiêm khắc với những ai muốn Ngài nghiêm khắc. Nhưng tận căn, Chúa là Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một, để dù yếu đuối, tệ hại đến đâu, mình sẽ học từ tên trộm lành và nói, “Lạy Ngài, xin nhớ đến con, khi Ngài vào Nước của Ngài”. Mình sẽ luôn tập nhẫm, “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Và mình tin lời Kinh Thánh nói là thật: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rôma 10:9) vì Thiên Chúa sẽ không để bất cứ ai Ngài dựng nên vì yêu phải hư mất. Không ai cướp được tôi khỏi tay Chúa tôi.

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive