✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (11;1-13)
Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy ; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
Người còn nói với các ông : “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’, mà người kia từ trong nhà lại đáp : ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi : cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’? Thầy nói cho anh em biết : dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.
“Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?”
Hai đoạn văn theo sau Kinh Lạy Cha nhằm khích lệ chúng ta:
(1) kiên trì trong cầu nguyện, và
(2) tin tưởng vào lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Người ta có thể hỏi: nếu Thiên Chúa là một người Cha quảng đại như thế, thì tại sao Ngài lại muốn chúng ta phải kiên trì trong cầu nguyện? Sao Ngài không ban mọi sự ngay lập tức? Hoặc thậm chí tốt hơn, sao Ngài không ban cho chúng ta mọi điều chúng ta muốn và cần mà không cần phải cầu xin?
Triết gia Eleonore Stump thực sự đã đối diện trực tiếp với câu hỏi này và đưa ra những câu trả lời thật đáng suy ngẫm. Tiến sĩ Stump chỉ ra rằng: những bậc cha mẹ luôn chiều theo mọi yêu cầu của con cái thì sẽ khiến chúng trở nên hư hỏng. Ngược lại, những cha mẹ luôn nói “không” lại dễ khiến con cái xa cách mình. Nhưng Thiên Chúa là một người Cha tốt lành. Cuộc đối thoại trong lời cầu nguyện nuôi dưỡng một mối tương quan giữa Thiên Chúa và con cái Ngài, trong đó Ngài cho phép chúng ta cộng tác vào sự quan phòng của Ngài trong việc hướng dẫn vũ trụ.
Thiên Chúa không phải là một “ông bố tỷ phú” chỉ biết cho, cũng không phải là một “ông già keo kiệt” luôn khước từ, nhưng là một người Cha luôn khuyến khích chúng ta trình bày những nhu cầu và ước vọng của mình, đồng thời luôn mời gọi chúng ta tín thác vào lòng tốt lành của Ngài.
Món quà lớn nhất mà chúng ta có thể nhận được chính là Thiên Chúa ban chính mình Ngài qua Chúa Thánh Thần. Đây là điều chúng ta đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa Tội, và chúng ta tiếp tục được “đổ đầy” Chúa Thánh Thần qua việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh Giacôbê nhắc nhở chúng ta đừng phung phí lời cầu nguyện để xin những điều vật chất chỉ nhằm thỏa mãn dục vọng (Giacôbê 4:3); thay vào đó, trong Thánh lễ này, chúng ta hãy hướng lời cầu nguyện đến việc đón nhận dồi dào hơn Chúa Thánh Thần — món quà tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C
1. Dành thời gian; có mặt
2. Thật sự hiện diện
3. Khi bị xao lãng, hãy nhẹ nhàng
và kiên nhẫn với bản thân, rồi đưa lòng mình trở lại với Chúa
4. Ghi lại một điều bạn muốn mang theo sau giờ cầu nguyện
Đôi khi người ta nói: “Hôm nay tôi đã cầu nguyện rất tốt.” Bạn nghe vậy và tự hỏi: Cầu nguyện sốt sắng trông như thế nào?
Chào bạn, tôi là Cha Mike Schmitz từ kênh Ascension Presents. Làm sao bạn biết lời cầu nguyện của mình là tốt, là xứng đáng? Đây là điều tôi muốn chia sẻ:
1. Hiện diện: Bạn không thể có giờ cầu nguyện tốt nếu bạn không hiện diện. Điều đó hiển nhiên. Đôi khi, điều duy nhất bạn có thể nói về giờ cầu nguyện là: “Tôi đã đến.” Và đó là điều bạn có thể kiểm soát. Chúng ta không thể kiểm soát những điều khác – những điều sẽ được bàn đến ở phần sau – chẳng hạn như ân sủng Chúa sẽ ban hay không. Nhưng chúng ta có thể chọn hiện diện. Vì vậy, nếu bạn đã đến, đó đã là một lời cầu nguyện tốt – tiêu chí căn bản nhất.
Tiêu chí thứ hai là: Bạn có thực sự hiện diện không? Đôi khi, chúng ta có mặt ở phòng cầu nguyện nhưng tâm trí thì ở nơi khác. Không chỉ đơn thuần là xao lãng, mà là những xao lãng có chủ ý – có thể đến từ bên ngoài hoặc bên trong.
Tôi phải thành thật chia sẻ: Tôi có lịch cầu nguyện khá đều đặn, nên hầu như luôn đạt được tiêu chí đầu tiên. Nhưng cũng có lúc, đến cuối giờ cầu nguyện, tôi nhận ra mình đã dùng một phần lớn thời gian – thậm chí toàn bộ – để bị xao lãng. Tôi có thể bị phân tâm bởi điện thoại: gửi tin nhắn, tra cứu Kinh Thánh, hay phản hồi người khác. Những việc ấy không xấu, nhưng tôi nhận ra mình "nấn ná" và để sự chia trí kéo dài.
Đôi khi, Chúa chỉ đơn giản muốn tôi tĩnh lặng. Ngài muốn tôi đặt mọi thứ xuống, tháo tai nghe ra – dù tôi đang nghe Kinh Thánh hay cầu nguyện – và chỉ đơn giản hiện diện với Ngài. Dù việc đọc hoặc nghe Kinh Thánh là cách cầu nguyện tốt, nhưng đôi lúc Chúa cho tôi thấy rất rõ: “Lúc này không phải lúc cho điều đó.” Ngài có thể cho tôi thấy rằng tôi đang trốn tránh sau một cuốn sách, thậm chí sau chính Lời Chúa.
Tiêu chí thứ ba: Xao lãng vô ý. Những xao lãng này không phải lỗi của bạn, nhưng bạn cần ý thức khi nó xảy ra và nhẹ nhàng đưa sự chú ý trở lại với Chúa. Có thể bạn bị xao lãng bởi người khác trong nhà thờ, hoặc bởi chính suy nghĩ miên man trong đầu. Tâm trí chúng ta luôn vận hành – đó là điều tự nhiên.
Các thánh như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Thánh Têrêsa Avila khuyên rằng: Khi bạn nhận ra mình bị chia trí, hãy nhẹ nhàng và kiên nhẫn với bản thân, rồi đưa lòng mình trở lại với Chúa. Dù bạn phải làm điều đó hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lần trong một giờ cầu nguyện – vẫn là lời cầu nguyện tốt.
Tiêu chí thứ tư: Ghi lại một điều bạn muốn mang theo sau giờ cầu nguyện. Sau mỗi giờ chầu, tôi luôn nói: “Trước khi rời khỏi nhà nguyện, hãy viết lại một điều duy nhất mà bạn muốn mang theo trong suốt ngày.” Việc đó giúp bạn nhìn lại và nói: “Vâng, con đã đến; con đã cố gắng tập trung, con đã chiến đấu với chia trí, và đây là cách Chúa đã hành động nơi tâm hồn con.”
Điều tuyệt vời không chỉ là viết xuống, mà còn là việc bạn tự hỏi: “Lạy Chúa, điều gì đã xảy ra trong giờ cầu nguyện này?” Không chỉ đơn thuần là “Con đã đến, hẹn gặp lại Chúa lần tới”, mà là: “Con đã ở lại với Chúa. Đây là điều Chúa cho con thấy về trái tim Ngài. Đây là ánh sáng Chúa ban. Đây là cuộc chiến nội tâm sáng nay.” Dù bạn chỉ biết nghỉ ngơi trong Chúa vì quá mệt – đó cũng là cầu nguyện.
Khi ai đó nói: “Tôi đã có buổi cầu nguyện rất tốt” hoặc “Tôi đã cầu nguyện rất tệ”, bạn và tôi có thể hỏi: “Cụ thể là như thế nào?” Cầu nguyện không sốt sắng là: không hiện diện, hoặc hiện diện nhưng cố tình xao lãng, hoặc không đưa lòng mình trở lại khi bị chia trí, hoặc rời khỏi giờ cầu nguyện mà chẳng mang theo điều gì.
Cầu nguyện tốt là: bạn đến, bạn hiện diện, dù bị chia trí vẫn nhẹ nhàng trở lại, và bạn có thể nói: “Đây là điều con muốn mang theo hôm nay.” Nếu ta thực hành điều này thường xuyên, ta sẽ có đời sống cầu nguyện tốt.
Và đừng quên: Bạn không cầu nguyện một mình. Cầu nguyện không chỉ là công việc của con người. Đó là sự cộng tác giữa con người và Thánh Thần của Thiên Chúa – Đấng linh hứng, dẫn dắt và hành động nơi chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng hoạt động trong tâm hồn ta.
Vì thế, hãy đến. Hãy chiến đấu – nhẹ nhàng – với chia trí. Rồi hãy hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Ngài đã ở đâu trong giờ cầu nguyện này?” Hãy viết điều đó ra.
Thay mặt cho Ascension Presents, tôi là Cha Mike. Xin Chúa chúc lành.
Lướt trên mạng, thấy video nói về những linh hồn ngay khi qua đời được vào thiên đàng mà không trải qua thời gian thanh luyện nên dịch lại một đoạn ngắn.
Các chốt máng cửa đàng đều mở toang, và đại dương ân sủng tràn đổ xuống cho linh hồn khiêm nhượng. Ôi xinh đẹp thay một linh hồn khiêm nhượng! Từ lòng họ, như một chiếc bình, một làn hương thơm rất lạ lùng êm dịu nghi ngút qua các tầng trời và tỏa đến Thiên Chúa, làm cho Thánh Tâm Người được thỏa nguyện. Thiên Chúa không tiếc gì với linh hồn ấy; họ có toàn quyền và có ảnh hưởng trên toàn thế giới. Thiên Chúa nâng linh hồn ấy lên ngai tòa của Người, họ càng tự hạ, Thiên Chúa càng cúi xuống với họ, cho họ phủ phê những hồng ân, và đồng hành bên họ từng phút giây với quyền toàn năng của Người. Linh hồn ấy được kết hợp sâu xa với Thiên Chúa. Ôi đức khiêm nhượng, hãy cắm rễ thật sâu vào toàn thể con người tôi. Ôi Đức Trinh Nữ cực tinh cực sạch và rất mực khiêm cung, xin giúp con đắc thủ được đức khiêm nhường.
Giờ đây, tôi hiểu được vì sao có ít thánh nhân đến thế: chỉ vì có quá ít linh hồn khiêm nhượng thẳm sâu. –NKLTX 1306
Hết lần này đến lần khác, Chúa Giêsu đã mạc khải cho thánh Faustina rằng khiêm nhường chính là mảnh đất nơi lòng thương xót của Ngài tuôn trào cách dồi dào nhất. Khiêm nhường không phải là sự yếu đuối. Không phải là sự tự ghét bản thân. Mà là một sự thừa nhận chân thành và thinh lặng về con người thật của chúng ta trước mặt Thiên Chúa: không xứng đáng, nhưng được yêu thương cách sâu sắc.
Trong nhật ký đoạn số 1563, Chúa Giêsu nói với Thánh Faustina: “Sự khốn cùng lớn lao nhất cũng không ngăn cản Ta kết hợp với một linh hồn, nhưng nơi đâu có kiêu ngạo, Ta sẽ không hiện diện ở đó.”
Hãy để câu nói ấy thấm vào lòng bạn.
Thiên Chúa không bị xúc phạm bởi quá khứ của bạn, cũng không bởi những vết thương của bạn, thậm chí không bởi những tội lỗi tái phạm của bạn. Nhưng khi sự kiêu ngạo đóng cánh cửa lại, lòng thương xót không thể bước vào.
Những linh hồn mà thánh Faustina thấy được vào thiên đàng ngay lập tức thường là những người giản dị, thầm lặng, không được người đời để ý. Nhưng sâu thẳm bên trong, họ sống trong sự thật. Họ biết rằng mình chẳng là gì nếu không có Thiên Chúa. Và chính vì thế, họ hoàn toàn cậy dựa vào Ngài.
Khiêm nhường không có nghĩa là nghĩ mình kém cỏi, mà là nghĩ về bản thân mình ít hơn. Đó là biết rõ sự thật về Thiên Chúa là ai, và để sự thật ấy định hình mọi thứ trong cuộc sống.
Những linh hồn ấy không tranh cãi với ân sủng, không cố gắng “mua” thiên đàng bằng công trạng. Họ phó thác trọn vẹn. Và chính vì thế, Chúa Giêsu đã mở cánh cửa thiên đàng cho họ ngay tức thì.
Và đây cũng là lời cảnh báo được ẩn chứa trong đó: Kiêu ngạo có thể làm trì hoãn cuộc hành trình của linh hồn bạn đến với thiên đàng. Dù bạn có cầu nguyện, có phục vụ, có tin, nhưng nếu kiêu ngạo vẫn bám víu, thiên đàng sẽ chờ, nhưng chưa mở ra ngay.
Chúa Giêsu đã nói với Thánh Faustina điều này, và trong một trong những đoạn nhật ký mạnh mẽ nhất, Thánh Faustina ghi lại lời Ngài:
“Các linh hồn tội lỗi nhất cũng sẽ đạt đến mức thánh thiện cao vời nếu như họ tín thác vào lòng thương xót của Cha.” -- NKLTX 1784
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ 21 Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.” (Luca 12:13-21)
-------
Sự nghèo khó vật chất tự thân không phải là một nhân đức, vì nghèo về vật chất có thể là kết quả của sự lười biếng, thiếu khôn ngoan, nghiện ngập hay một tật xấu nào đó. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu dạy rằng: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3), có thể được hiểu là “những ai nghèo vì Thần Khí Chúa” – tức là vì những mục tiêu thiêng liêng, chứ không chỉ đơn thuần do lười biếng hay bất tài.
Tương tự như vậy, việc làm ra của cải qua lao động đạo đức là một điều tốt tự thân, như các văn chương khôn ngoan trong Kinh Thánh nhấn mạnh: “Kẻ biếng nhác phải chịu cảnh nghèo hèn, người siêng năng được giàu sang phú quý.” (Cn 10,4). Tội lỗi nằm ở chỗ chúng ta sử dụng của cải mình có được để phục vụ khoái lạc và tiện nghi bản thân, thay vì sử dụng nó vì tình yêu – tình yêu tha nhân và tình yêu Thiên Chúa. Vì vậy, người phụ nữ đảm đang trong sách Châm ngôn đã làm ra nhiều của cải, nhưng bà dùng nó để chăm lo cho gia đình, cho người làm và cho người nghèo (Cn 31,20). Không có những người tạo ra của cải, xã hội sẽ thiếu tài nguyên để giảm nhẹ nghèo đói. Ngay cả các chính phủ xã hội chủ nghĩa cũng cần có một số người giàu để tái phân phối tài sản của họ cho người nghèo. Nhưng khi tất cả người giàu biến mất, thì chủ nghĩa xã hội chỉ còn có thể thiết lập sự bình đẳng trong cảnh khốn cùng (ví dụ như Venezuela).
Của cải được ban cho chúng ta là để được tiêu dùng cho tình yêu thương, điều này thường có nghĩa là để làm dịu nỗi khổ của người nghèo. Nhưng ta cũng nhớ rằng sự nghèo khó lớn nhất là nghèo khó mặt linh hồn, và con người không sống chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng còn nhờ Lời Thiên Chúa (Mt 4,4). Hơn nữa, bánh chóng hư nát không cần thiết bằng bánh “ban sự sống đời đời,” chính là thịt của Đức Kitô (Ga 6,27.51). Vì vậy, ta cũng cần tiêu dùng của cải mình có để hỗ trợ các nhu cầu vật chất của Giáo hội, là tổ chức duy nhất có thể làm dịu nỗi nghèo khó linh hồn.
“Thương xót kẻ khó nghèo là cho ĐỨC CHÚA vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm.” (Cn 19,17), nhưng ta cũng đừng quên rằng sự nghèo khó thiêng liêng thì ở khắp nơi, nên không đúng khi Giáo hội “bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo phục vụ bàn ăn” (Cv 6,2). Giáo hội thời sơ khai là mẫu gương cho chúng ta: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung; họ bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu… Và Chúa thêm vào số họ những người được cứu độ hằng ngày” (Cv 2,44–47).
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (10:38-42)
Khi ấy, Đức Giê-su vào một làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” Chúa đáp: “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất, và sẽ không bị lấy đi.”
------
“Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” là chuyện gì? Một số người cho rằng Mátta đang chuẩn bị một bữa ăn cầu kỳ, và Chúa Giêsu ngụ ý rằng chỉ một món đơn giản là đủ rồi. Có thể đúng là vậy. Nhưng Kinh Thánh có nhiều tầng ý nghĩa. Ở một mức độ sâu xa hơn, “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” ấy chính là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Đó thực sự là điều quan trọng duy nhất, và cũng là điều duy nhất chúng ta sẽ làm và tận hưởng trong cõi đời đời. Việc quá bận rộn đã khiến Mác-ta đánh mất sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Vì mải phục vụ, cô đã không dành thời gian nào để ở bên Người.
... Maria dường như hiểu điều này, khi cô ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Về cô Maria, chúng ta có thể áp dụng một cách diễn giải sâu sắc của một đoạn văn Cựu Ước quan trọng. Sau khi giao ước Xi-nai được thiết lập trong Xuất Hành 24:1–8, các vị lãnh đạo Israel đã lên núi Sinai và dùng bữa với Thiên Chúa: “Họ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và sau đó họ ăn uống.” (Xh 24,11). Một số rabbi thời xưa hiểu câu này là: “Họ chiêm ngắm Thiên Chúa, và chính bằng cách đó mà họ ăn và uống.” Nói cách khác, Thị kiến chân phúc (tức là chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong cõi vinh quang) chính là lương thực nuôi dưỡng họ. Chúng ta có thể áp dụng điều này cho Maria: trong khi Mác-ta lo chuẩn bị bữa ăn thể lý, thì Maria chiêm ngắm Chúa Giêsu, và điều đó đã là lương thực đủ cho cô. Chúng ta có thể liên quan điểm này với việc Chầu Thánh Thể.
Chúa nhật này, chúng ta nghe những lời ấy được công bố trong Thánh lễ, trong bữa tiệc Giao ước của chúng ta với Thiên Chúa đang hiện diện trong Mình và Máu Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Thánh lễ không phải là điều chúng ta làm cho Thiên Chúa, cũng không phải là bữa ăn mà chúng ta khoản đãi Người. Thánh lễ là điều Thiên Chúa làm cho chúng ta; chính Người là chủ bữa tiệc. Chúng ta không làm ơn cho Chúa khi đến nhà thờ ngày Chúa nhật hay bỏ vào giỏ dâng cúng vài đồng. Điều đó không làm được gì cho Thiên Chúa. Nó không làm tăng thêm phẩm giá, quyền năng hay vinh quang của Người. Chính Thiên Chúa đã làm ơn cho chúng ta khi chủ động khoản đãi một bữa tiệc mỗi Chúa nhật, trong đó Người hiến dâng chính mình làm của ăn, bằng hành vi hiệp thông thân mật nhất mà ta có thể tưởng tượng được.
Thánh lễ không xoay quanh những gì ta làm cho Thiên Chúa, mà là những gì Thiên Chúa làm cho ta. Trong Thánh lễ Chúa nhật này, chúng ta hãy cầu nguyện sốt sắng hơn để Thiên Chúa hoạt động trong tâm hồn ta: tha thứ tội lỗi ta, biến đổi cách suy nghĩ và hành động của ta, để chúng ta có thể trở nên giống như người công chính trong Thánh vịnh 15 –xứng đáng hiện diện trước thánh nhan Thiên Chúa – hay giống như Maria, người đã hiểu ra “Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi” và can đảm nói “không” với những xao lãng và áp lực, để có thể đắm mình trong sự hiện diện và giáo huấn của Chúa Giêsu.
-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C
Khi ta xét đến mười tai ương mà Thiên Chúa giáng xuống Ai Cập do lòng chai dạ đá của Pharaô, mỗi tai ương rõ ràng là một cuộc tấn công vào các “thần” giả dối của Ai Cập, nhằm cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới là Thiên Chúa thật. Tai ương thứ nhất — biến sông Nin thành máu — là đòn giáng vào thần Hapi, thần sông Nin của người Ai Cập, tượng trưng cho sự màu mỡ và lũ lụt. Tai ương thứ hai — ếch nhái sinh sôi đầy đất — là đòn đánh vào nữ thần Hekhet, vị nữ thần thường được mô tả với thân người đầu ếch, mà người Ai Cập tin là có quyền năng cai quản loài ếch.
Tai ương thứ ba và thứ tư — bầy côn trùng bay (có thể là muỗi hoặc ruồi) — có thể được xem như một cuộc tấn công vào thần Kheper, thần phục sinh, được khắc họa dưới hình dạng một con bọ bay. Tai ương thứ năm — súc vật chết hàng loạt — là một đòn giáng vào bảy vị “thần bò” khác nhau của Ai Cập: Apis, Buchis và Mneuis liên kết với khả năng sinh sản, đặc biệt là sự sinh sản và bảo vệ súc vật; Ptah được cho là hiện thân trong các con bò; thần Mặt Trời vĩ đại Re cũng được cho là hiện thân trong hình dạng bò; Isis là một nữ thần phổ biến, thường được mô tả với cặp sừng bò; và Hathor là nữ thần nổi tiếng với chiếc đầu bò.
Tai ương thứ sáu — ghẻ lở và mụn nhọt — là một đòn đánh vào Imhotep, một nhà cai trị người Ai Cập được thần thánh hóa sau khi chết và được tôn kính như một vị thần chữa lành; vào Sekhmet, một vị thần chữa lành khác, nổi tiếng với việc chữa các bệnh dịch; và Amon-Re, cũng là một vị thần chữa lành. Tai ương thứ bảy — mưa đá dữ dội — là đòn đánh vào Nut, nữ thần bầu trời; Shu, thần đỡ bầu trời; và Tefnut, nữ thần độ ẩm.
Tai ương thứ tám — châu chấu phá hoại — có thể là đòn đánh vào Senehem, vị thần bảo vệ chống lại nạn châu chấu và các dịch bệnh mùa màng khác — hoặc thậm chí là một cuộc tấn công tổng thể vào tất cả các thần Ai Cập, bởi vì tất cả đều được tin là có liên quan đến việc bảo vệ mùa màng.
Tai ương thứ chín — bóng tối bao trùm — là đòn giáng vào Amon-Re, thần Mặt Trời và là vị thần tối cao của Ai Cập. Cuối cùng, tai ương thứ mười — cái chết của các con đầu lòng — là đòn đánh vào chính Pharaô, người được xem là chủ của sự sống và cái chết tại Ai Cập, và cũng được tôn thờ như một vị thần, con trai của Re.
Những chi tiết này cho thấy sách Xuất Hành phản ánh một cái nhìn chính xác về mặt lịch sử đối với Ai Cập cổ đại. Hiểu được bối cảnh này giúp ta hiểu sâu sắc hơn câu chuyện Xuất Hành. -- Trích từ The Catholic Guide to the Old Testament
“Đừng phán xét, và bạn sẽ không bị phán xét. Vì bạn phán xét người khác thế nào, bạn cũng sẽ bị phán xét như vậy.”
— Kinh Thánh, Mát-thêu 7:1
Trong quá trình tìm hiểu điều gì khiến chúng ta xa rời bản chất nhân ái của mình, tôi đã xác định được một số hình thức giao tiếp làm suy giảm lòng trắc ẩn và góp phần khiến chúng ta hành xử một cách bạo lực – cả với bản thân lẫn người khác. Tôi gọi những hình thức giao tiếp này là “giao tiếp xa rời sự sống” (life-alienating communication).
Phán xét đạo đức
Một dạng của “giao tiếp xa rời sự sống” là phán xét đạo đức – tức là việc đánh giá những người có hành vi không phù hợp với các giá trị của chúng ta là xấu xa, sai trái hoặc đáng trách. Ví dụ về những phán xét kiểu này bao gồm:
“Bạn thật ích kỷ”, “Cô ấy thật lười biếng”, “Họ thật thành kiến”, “Nó không thích hợp.”
Đổ lỗi, lăng mạ, sỉ nhục, dán nhãn, chỉ trích và so sánh – tất cả đều là những hình thức của phán xét đạo đức. Những cách giao tiếp như vậy làm suy yếu mối liên hệ giữa người với người và khiến chúng ta xa rời lòng trắc ẩn vốn có trong bản tính mình.
Nhà thơ Rumi từng viết:
“Có một thế giới không chứa đựng khái niệm đúng – sai. Tôi sẽ gặp bạn ở đó.” “Giao tiếp xa rời sự sống” nói chung và “phán xét đạo đức” nói riêng giam cầm chúng ta trong thế giới của đúng và sai. Đó là thứ ngôn ngữ phân tích, phân loại con người và những hành động của họ. Khi nói thứ ngôn ngữ này, chúng ta phán xét người khác và hành vi của họ trong khi tâm trí bị lấp đầy bởi những khái niệm đúng – sai, tốt – xấu, bình thường – khác thường, trách nhiệm – vô trách nhiệm, thông minh – ngu dốt, v.v...
Từ khi còn nhỏ, tôi đã học cách giao tiếp “vô cảm”, thiếu sự suy xét đến những cảm xúc và nhu cầu căn bản thẳm sâu của người khác. Khi ai đó hành xử theo cách tôi không thích, tôi lập tức phán xét họ. Chẳng hạn, nếu giáo viên bảo tôi làm một việc tôi không muốn làm, thì tôi sẽ phán xét họ là “vô lý và xấu tính.” Nếu ai đó cắt ngang đầu xe tôi trên đường, thì phán ứng của tôi sẽ là “Thằng ngu!”. Khi dùng thứ ngôn ngữ này, chúng ta giao tiếp dựa trên suy nghĩ về sự sai trái của người khác vì đã không hành xử như chúng ta kỳ vọng. Chúng ta tập trung vào đánh giá và chỉ trích hơn là vào những nhu cầu không được đáp ứng của bản thân và của người khác. Theo đó, nếu tôi muốn tôi quan tâm nhiều hơn, thì cô ấy là “đòi hỏi và phụ thuộc.” Nhưng nếu tôi muốn cô ấy quan tâm nhiều hơn, thì cô ấy là “xa lánh và vô cảm.” Nếu đóng nghẹt để ý đến chi tiết nhiều hơn, thì anh ấy là “khó tính và bắt bẻ.” Nhưng nếu tôi để ý đến chi tiết nhiều hơn, thì anh ấy là “cẩu thả và lơ là.”
Khi phán xét người khác, thực ra là chúng ta đang muốn bày tỏ những nhu cầu và giá trị của mình, nhưng chúng ta đã làm điều đó theo cách rất “bi kịch”, bởi khi làm như vậy, chúng ta sẽ chỉ khiến người nghe trở nên phản kháng và phòng thủ hơn. Hoặc nếu họ đồng ý thay đổi hành vi theo ý muốn của chúng ta, thì nhiều khả năng hành động đó xuất phát từ cảm giác sợ hãi, tội lỗi hoặc xấu hổ vì họ cho rằng mình bị phán xét như vậy là đúng.
Khi hành động của họ không xuất phát từ trái tim mà xuất phát từ cảm giác sợ hãi, tội lỗi, xấu hổ hay bị ép buộc, thì cả hai bên đều sẽ phải trả giá đắt. Khi làm vậy, nhiều khả năng họ sẽ cảm thấy ức chế, tức giận và lòng tự trọng bị ảnh hưởng. Hơn nữa, sự thiện chí, lòng trắc ẩn và ý muốn cho đi chân thành cũng bị giảm đi, mang lại những hệ quả tiêu cực cho mối quan hệ giữa hai bên.
Điều quan trọng là chúng ta cần phân biệt giữa phán xét đạo đức (moralistic judgment) và đánh giá dựa trên giá trị (value judgment). Tất cả chúng ta đều có những đánh giá dựa trên giá trị, về những thứ mà chúng ta xem trọng trong cuộc sống: sự trung thực, sự tự do hay sự hòa thuận. Những đánh giá đó phản ánh niềm tin của chúng ta về cách thức của cuộc sống này. Còn khi hành vi của ai đó không hòa hợp với giá trị của chúng ta, chúng ta có xu hướng sử dụng phán xét đạo đức đối với họ. Một ví dụ về sự phán xét đạo đức là: “Bạo lực là xấu. Người gây bạo lực là độc ác, xấu xa.” Nếu chúng ta được dạy sử dụng một thứ ngôn ngữ khác giúp khơi dậy lòng trắc ẩn, thì chúng ta sẽ học cách nói rõ những nhu cầu, giá trị và cảm xúc của mình một cách trực tiếp. Ví dụ, thay vì nói “Bạo lực là xấu”, chúng ta có thể nói: “Tôi cảm thấy e ngại đối với việc sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn. Tôi xem trọng hòa bình và muốn mọi người tìm cách khác để giải quyết mâu thuẫn.”
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và bạo lực là đề tài nghiên cứu của giáo sư tâm lý O.J. Harvey tại Đại học Colorado, ông thu thập mẫu ngẫu nhiên những tài liệu từ nhiều quốc gia trên thế giới và lập bảng liệt kê tần suất xuất hiện của những từ ngữ phân loại và phán xét con người. Nghiên cứu của ông cho thấy có một mối tương quan cao giữa tần những vụ xung đột xảy ra. Tôi không hề ngạc nhiên khi biết những nơi có văn hóa suy nghĩ và giao tiếp tập trung vào nhu cầu của con người có tình trạng bạo lực xảy ra ít hơn rất nhiều so với những nơi có văn hóa dán nhãn con người là “tốt” hay “xấu”, và tin rằng “người xấu” xứng đáng bị trừng phạt. Tại Mỹ, trong 75% chương trình truyền hình được chiếu vào khung giờ mà trẻ con xem nhiều nhất, nhân vật anh hùng hoặc giết chết hoặc đánh bại “kẻ xấu.” Và khi những cảnh bạo lực này diễn ra vào lúc cao trào của chương trình, chúng ta đã bị nhồi nhét vào đầu khái niệm “tốt - xấu” và niềm tin rằng bạo lực cần được sử dụng để trừng phạt “người xấu”.
Nguyên nhân gốc rễ của hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả bạo lực - dù là bạo lực về thể xác, cảm xúc hay ngôn từ, dù là bạo lực giữa các cá nhân, các nhóm hay các quốc gia - là lối suy nghĩ rằng mâu thuẫn xảy ra là do sự sai trái của người khác, và tương ứng với điều đó là sự thiếu khả năng suy xét những cảm xúc và nhu cầu nằm sâu hơn của bản thân và của người khác. Chúng ta nhìn thấy cách suy nghĩ nguy hiểm này trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Chính phủ Hoa Kỳ xem Liên Xô là “đế chế độc ác” đang quyết tâm phá hủy nước Mỹ. Ngược lại, chính phủ Liên Xô xem Hoa Kỳ là “bọn đế quốc áp bức” đang cố gắng khuất phục nước mình. Không bên nào nhận ra những sự sợ hãi và tổn thương ẩn đằng sau những sự “dán nhãn” đó.
So sánh
Một loại “giao tiếp xa rời sự sống” khác là so sánh, và về bản chất thì nó cũng là một loại ngôn ngữ phán xét. Trong cuốn sách How to Make Yourself Miserable (tạm dịch: Cách tự làm mình khổ), Dan Greenburg trình bày một cách hài hước về tác động của sự so sánh đối với chúng ta. Ông nói rằng nếu độc giả muốn cảm thấy đau khổ, họ có thể làm một vài bài tập so sánh bản thân với người khác. Bài tập đầu tiên có bức hình một người mẫu nam và một người mẫu nữ với các số đo “lý tưởng” theo chuẩn của xã hội. Độc giả được yêu cầu tự lấy các số đo của mình, so sánh chúng với các “người mẫu”, và tự kặng cho mình điểm khác biệt.
Bài tập này lập tức tạo ra cảm giác muộn phiền ở độc giả, những khi họ lật sang trang tiếp theo, họ nhận ra có lời khuyên để khôi động. Ở bài tập thứ hai, độc giả có cơ hội so sánh điểm số với người khác ở mức độ cao hơn: sự thành công. Greenburg cho độc giả một cái tên danh nhân để so sánh. Cái tên đầu tiên là nhà soạn nhạc vĩ đại Mozart. Bài tập liệt kê số lượng những gì mà Mozart biết chơi và sáng tác, những điều anh đã sáng tác ở tuổi 12. Độc giả được yêu cầu ngẫm nghĩ về những thành tựu họ đã đạt được trong toàn bộ cuộc đời, so sánh chúng với những thành tựu Mozart đã đạt được ở tuổi thiếu niên, và tập trung vào những điểm khác biệt.
Khi làm hai bài tập trên, bạn sẽ có thể nhận ra sự so sánh gây ảnh hưởng lên cảm nhận như thế nào, đối với cá nhân và đối với người khác.
...
Tổng kết
Bản chất con người chúng ta là nhân ái và muốn cho đi và đón nhận tình yêu thương. Tuy nhiên, chúng ta đã được dạy nhiều loại “giao tiếp xa rời sự sống” khiến chúng ta nói và hành xử theo cách gây tổn thương cho bản thân và người khác. Loại thứ nhất là phán xét đạo đức, tức đánh giá người có hành vi không hòa hợp với những giá trị của chúng ta là tốt hay sai trái. Loại thứ hai là so sánh, gây cản trở lòng trắc ẩn đối với cả .bản thân và người khác. Loại thứ ba là chối bỏ trách nhiệm, tức giao tiếp dựa trên sự thiếu nhận thức rằng mỗi chúng ta chịu trách nhiệm cho những suy nghĩ, cảm xúc và hành động của chính mình. Và loại thứ tư là ra lệnh, tạo cho người nghe cảm giác lo ngại rằng họ sẽ bị đổ lỗi hoặc trừng phạt nếu không làm theo. -- Trích từ Giao Tiếp Bất Bạo Động: Ngôn ngữ của lòng trắc ẩn
Lila: Nhờ bác sĩ cho chúng tôi biết về tình hình sức khỏe của trẻ em ngày nay so với khoảng một hoặc hai thập kỷ trước.
Dr. Sears: Vâng, trước hết, có một thuật ngữ trong tự điển y học gọi là “bệnh khởi phát ở người lớn” (adult onset diseases). Nhưng bây giờ từ đó không còn tồn tại nữa, vì trẻ em đang mắc phải những căn bệnh này.
Chúng tôi đang thấy bệnh tim mạch ở trẻ 10 tuổi, thấy huyết áp cao ở trẻ 10 tuổi, tiểu đường loại 2 hiện đã trở thành dịch bệnh nơi trẻ em. Và dự đoán, mà tôi hy vọng là sai, là: 50% trẻ em ngày nay rồi sẽ mắc bệnh tiểu đường, Alzheimer nữa.
Hôm qua tôi có ăn trưa với Tiến sĩ Vince Hartness, bác sĩ ấy là chuyên gia về Alzheimer, tác giả cuốn Anti-Alzheimer’s Prescription (Đơn thuốc chống Alzheimer). Tôi hỏi: “Vince, bệnh Alzheimer bắt đầu từ khi nào?” Ông ấy nói: “Từ tuổi vị thành niên.”
Lila: Làm sao điều đó có thể xảy ra?
Dr. Sears: Vì đó là lúc não bắt đầu thay đổi một chút. Vậy nên nếu bạn có Alzheimer, tiểu đường, ung thư... Ung thư hiện cũng đang ở mức cao kỷ lục ở trẻ em. Nhưng tin tốt là gì? Tin tốt là, Lila, tất cả những điều đó đều có thể phòng ngừa được.
Tôi không phải là người chuyên về số liệu thống kê, nhưng tất cả những gì chúng ta vừa nói đến đều là những vấn đề có thể được phòng ngừa, có thể được đảo ngược, và điều chỉnh được. Chúng ta có cách.
Ví dụ, khi một bệnh nhân đến phòng khám của tôi, hay khi họ đọc sách của chúng tôi, tôi muốn họ sau đó có một “bộ công cụ” trong tay, để họ có thể trao lại cho con cái mình, giúp các em không phải gánh chịu những căn bệnh đó về sau.
Lila: Vậy thì chúng ta hãy cùng khám phá “bộ công cụ” đó, vì tôi thực sự rất muốn biết! Tôi có một bé 5 tuổi, 3 tuổi và một bé 1 tuổi. Gia đình tôi đang ở giai đoạn khởi đầu của quá trình nuôi dạy con, và tôi biết nhiều người nghe chương trình này cũng là cha mẹ, hoặc những người chuẩn bị làm cha mẹ, hay là cô, chú, bác rất yêu thương trẻ em. Tất cả đều quan tâm sâu sắc đến sức khỏe của các em nhỏ.
Nhưng trước khi đi vào “bộ công cụ”, tôi phải hỏi điều này: Bác sĩ vừa nói rằng tỷ lệ ung thư đang ở mức cao nhất từ trước đến nay, rằng trẻ em ngày nay thậm chí đã mắc bệnh Alzheimer, rằng tỷ lệ tiểu đường ở trẻ chưa bao giờ cao đến thế. Và tự kỷ cũng là một vấn đề lớn.
Dr. Sears: Và cả ADHD (Rối loạn tăng động giảm chú ý) rữa. Rất nhiều thứ khác... Về ADHD (rối loạn tăng động giảm chú ý), chúng tôi có một cuốn sách tên là The A.D.D.
Có lần chúng tôi lên một chương trình của Today show, và người dẫn chương trình Katie hỏi Martha, vợ tôi: “Chị lấy thông tin cho cuốn sách The A.D.D. từ đâu vậy?” Và vợ tôi đã nói ngay trên truyền hình quốc gia rằng: “Đó là tự truyện của chồng tôi.” Vì đó là ví dụ điển hình cho việc chúng ta đang gắn nhãn "rối loạn" cho những đứa trẻ chỉ đơn giản là khác biệt.
ADHD được gọi là một “rối loạn” (disorder). Thuật ngữ “rối loạn” được dùng vì các bác sĩ không thể lập hóa đơn nếu một tình trạng không có có từ "rối loạn" trong đó. Nhưng thật sự thì chỉ là một số trẻ em thì sự khác biệt, một số trẻ em có cách não bộ vận hành khác với bình thường. Vì vậy, mục tiêu của chúng tôi là hướng dẫn và định hướng sự khác biệt đó và không phải là thay đổi các em.
Đây là điều tôi luôn nhấn mạnh khi nhắc đến ADHDr. Sears: Nó là sự khác biệt, không phải là "sai lệch".
Lila: Vậy theo bác sĩ, việc chẩn đoán tự kỷ và ADHD ngày nay gia tăng không hẳn là do có nhiều trẻ em thực sự mắc tự kỷ, ADD hoặc ADHD, tôi biết chúng khác nhau mà là do nhiều người đi chẩn đoán hơn? Một số người cho rằng thống kê có thể đã tồn tại từ chỉ là ngày nay chúng ta phát hiện và ghi nhận tốt hơn.
Dr. Sears: Tôi nghĩ là cả hai. Chúng ta đang chẩn đoán tốt hơn, phương pháp điều trị cũng hiệu quả hơn, chăm sóc y tế cũng tốt hơn. Nhưng điều chưa tốt hơn, là não bộ của trẻ em ngày nay.
Tôi luôn quay lại với não bộ vì đó cơ quan vĩ đại nhất. Và hiện nay, não bộ của trẻ em đang phát triển trong một thế giới bị ô nhiễm. Cho đến khi chúng ta thay đổi môi trường đó, chúng ta sẽ không thể chặn đứng được “dịch bệnh” tự kỷ. Sự việc là như vậy.
Lila: Bác sĩ muốn nói là rất nhiểu những vấn đề này, bao gồm tự kỷ, ADHD… phần lớn là do môi trường ô nhiễm, chứ không hẳn là do yếu tố di truyền được truyền qua các thế hệ. Mặc dù tôi đoán rằng, theo thời gian, các vấn đề môi trường cũng có thể thay đổi gen và những gì được di truyền. Nhưng dường như bác sĩ muốn nói, phần lớn là sự độc hại trong thế giới hôm nay. Có phải đồ nhựa gây nên sự độc hại không?
Dr. Sears: Chị vừa nhắc đến một từ kỳ diệu – "độc tố" (toxicity). Thật ra tôi thường hay mơ, và có lần tôi mơ một giấc mơ như thế này... Các bà mẹ luôn có cách để thay đổi mọi thứ. Hãy nhìn xem các bà mẹ đã thay đổi hoàn toàn môi trường sinh nở như thế nào.
Cách đây khoảng 30 năm, các bà mẹ bắt đầu nói: Đây là con tôi, là cơ thể tôi, là việc sinh nở của tôi. Tôi sẽ không sinh con trong mấy căn phòng vô trùng như phòng mổ nữa. Và kết quả là, nếu bệnh viện muốn tiếp tục làm dịch vụ sinh con thì phải thay đổi: phòng sinh hiện đại, bồn ngâm trong khi chuyển dạ, đủ thứ tiện nghi... Vì các bà mẹ đã đòi hỏi điều đó.
Tôi đã có một giấc mơ rằng hàng triệu bà mẹ cùng nhau diễu hành đến Washington và hô lên: ‘Hãy ngừng đầu độc con cái chúng tôi!’
Lila: Bác sĩ có giấc mơ đó khi nào?
Dr. Sears: Khoảng một năm trước. Tôi vẫn thường mơ như thế: Hãy ngừng đầu độc con cái chúng tôi. Ngừng tiếp tục sử dụng những chất diệt cỏ (trong rau củ) con cái chúng tôi đang ăn vào. Hãy ngừng đưa vào cơ thể chúng những thứ nhân tạo. Vì vậy, đó là giấc mơ của tôi: Rằng cuối cùng, các bà mẹ sẽ chiến thắng. Rằng họ sẽ nói: Tôi sẽ không mua thứ đó cho đứa con yêu quý của tôi rồi nó ăn vào não nó. Các bà mẹ có uy quyền.
Lila: Tôi là một người mẹ, chắc rằng rất nhiều bà mẹ, và các bố đang nghe, bác sĩ sẽ nói gì… tôi biết là chúng ta sẽ nói đến “hộp dụng cụ” (toolbox), theo bác sĩ, đâu là 5 chất độc hại hàng đầu chất ô nhiễm, những thứ độc hại, bác sĩ đã nói đến thuốc diệt cỏ trong rau quả mà con cái chúng ta sẽ ăn vào, những thức ăn không là hữu cơ... tôi không biết hết. Tôi rất muốn nghe quan điểm của bác sĩ về điều đó. Theo bác sĩ, những thủ phạm chính là những thứ nào?
Dr. Sears: Thuốc diệt cỏ là số một. Họ phun để tiêu diệt cỏ dại, còn cây trồng thì phát triển tốt hơn nhờ đó họ kiếm được tiền. Những tác nhân khác có thể là: Chất tạo ngọt nhân tạo, như aspartame, phải loại bỏ ngay.
Lila: Còn Stevia thì sao?
Định hình vị giác của trẻ
Dr. Sears: Stevia là thì ổn, thứ stevia tốt.
Nhân tiện nhắc đến điều đó, một trong những điều chúng tôi dạy các bậc cha mẹ là cái gọi là: Sớm định hình vị giác của trẻ (shaping young tastes). Trẻ em ngày nay đang được định hình vị giác thiên về đường, đó là lý do vì sao người ta thêm rất nhiều chất tạo ngọt. Trẻ em không được ăn thực phẩm thật nữa. Vì vậy, chúng tôi bắt đầu với bệnh nhân bằng một điều mà tôi gọi là bài giảng nhỏ về việc định hình vị giác sớm, shaping young tastes / định hình vị giác sớm.
Bắt đầu khi trẻ được 6 tháng tuổi, tức là khi bắt đầu ăn dặm sau khi bú mẹ. Tôi nói với các bậc cha mẹ: Giờ là lúc bạn muốn con mình phát triển một vị giác tự nhiên với thực phẩm thật, chứ không phải thực phẩm nhân tạo. Và vì vậy, chúng tôi bắt đầu bằng quả bơ.
Đó là món đầu tiên. Thìa đầu tiên tốt nhất chính là ngón tay của mẹ, vì mềm mại và em bé đã quen với điều đó rồi. Chúng tôi bắt đầu bằng bơ (avocado), khoai lang,... Và đến 7 tháng tuổi, chị nghĩ đâu là thức ăn số một, trên hành tinh này, món ăn bổ dưỡng nhất mà chị có thể bắt đầu cho bé ăn để hình thành khẩu vị cho bé? Chị đoán xem là món gì?
Lila: Ngoài bơ và khoai lang? Ngoài bơ ra... Tôi muốn trả lời cho đúng. Thứ này là trái cây hay rau củ?
Dr. Sears: Chưa đâu, tôi sẽ cho chị một gợi ý: nó bơi dưới biển.
Lila: Cá hồi!
Dr. Sears: Đúng rồi! Cá hồi. Chị thử tra Google xem giá trị dinh dưỡng của cá hồi, chị sẽ thấy 10 dưỡng chất chỉ trong khoảng 250 calo, một nắm nhỏ cá hồi thôi, và tất cả những dưỡng chất đó đều có lợi cho sự phát triển trí não và hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh. Giống như sữa mẹ giúp phát triển não bộ, hệ miễn dịch, hệ vi sinh đường ruột... thì cá hồi cũng vậy. Vì thế, chúng tôi bắt đầu với cá hồi. Chúng tôi có một câu châm ngôn nhỏ: Cá hồi lúc 7 tháng tuổi, cá hồi hoang dã từ Alaska. Đó là hình thành khẩu vị sớm (shaping young taste).
Tự làm đồ ăn dặm cho con, không mua đồ ăn sẵn, để trẻ lớn lên với khẩu vị dành cho thực phẩm thật.
Tôi muốn thú tội điều này: tôi dùng phòng khám của mình như một phòng thí nghiệm nhỏ để quan sát. Và tôi phát hiện ra rằng, nhiều bà mẹ đến và nói: Chúng tôi có bốn đứa con, và đây là đứa đầu tiên tôi kiên trì cho ăn thực phẩm thật ngay từ đầu. Bây giờ cháu 5 tuổi rồi và cháu ăn được cá hồi, rau củ, tất cả những thứ mà các anh chị nó không chịu ăn bởi vì tôi đã bắt đầu từ sớm với thực phẩm thật.
Trẻ em được hình thành khẩu vị từ thực phẩm thật, nếu sau đó đi dự tiệc, và được dọn đồ ngọt nhân tạo gì đó, các bé sẽ về nhà nói: Yucky! Yucky! Yucky!" vì miệng và bụng của bé đã quen với thực phẩm thật, nên khi gặp thứ gì đó không phải là thức ăn thật, phản ứng của bé là “Không, cái này không hợp với mình”. Đây là việc hình thành khẩu vị sớm là một công cụ dạy con cực kỳ hiệu quả.
Lila: Tôi phải hỏi thêm, vì chúng ta đang nói về chủ đề này: Nếu tôi dùng bột mì hữu cơ, đường hữu cơ, nướng bánh quy, làm bánh cà phê chẳng hạn... tôi chỉ đang nói về bản thân thôi. Tôi thường làm nó. Rồi tôi cho em bé 1 tuổi ăn một chút, bác sĩ có đồng ý với việc cho đứa bé dưới 1 tuổi, ăn đường mía (cane sugar)không? Ở độ tuổi nào thì có thể ăn bánh ngọt, donut?
Dr. Sears: Các bé sẽ gặp những thứ đó ở trường học, ở các bữa tiệc. Bạn không cần phải giới thiệu những thực phẩm đó. Nếu muốn ngọt, hãy cho một chút mật ong vào. Tôi đôi khi uống nước với mật ong trước khi đi phỏng vấn vì tôi cần dinh dưỡng. Nhưng điều quan trọng vẫn là: khẩu vị thật, vị ngọt tự nhiên.
Epigenetics / Di truyền học biểu sinh
Dr. Sears: Chị có nói đến di truyền... Con của chúng tôi, đứa thứ bảy, chúng tôi đặt số cho mỗi đứa con. Chúng tôi thường đùa với nhau, Bố quên tên con rồi, nhưng con là số bảy. Đứa con số bảy của chúng tôi là Steven, cháu đến với gia đình chúng tôi với một khuyết tật bẩm sinh, hội chứng Down, một biến thể di truyền.
Tôi còn nhớ ngày Steven chào đời, Martha (vợ tôi) và tôi nói rằng: Con mình có một điểm khác biệt về di truyền. Và tôi bắt đầu tìm hiểu về điều đó.
Thuật ngữ là biểu sinh học: epigenetics. Chúng ta không thể thay đổi gen của cháu, cháu sẽ luôn có thêm một nhiễm sắc thể, điều đó không thay đổi được.
Nhưng... biểu sinh học có nghĩa là bạn có thể thay đổi cách các gen hoạt động. Vì vậy, chúng tôi bắt đầu cho cháu ăn tất cả các loại thực phẩm lành mạnh và tự nhiên.
Martha đã cho con bú sữa mẹ trong ba năm; điều này rất khó, bởi vì những đứa trẻ như vậy không bú được. Cháu ăn thức ăn thật, và ăn cá hồi lúc bảy tháng tuổi. Hai ngày trước tôi ăn trưa với cháu, và cháu nói: “Bố, gọi cho con một phần cá hồi nhé.” Cháu 35 tuổi rồi, và là đứa con khỏe mạnh nhất. Cháu tham gia mọi môn thể thao.
Căn bệnh ngồi lì
Dr. Sears: Bởi vì chúng ta cần sự vận động. Ngày nay, trẻ em mắc phải thứ mà tôi gọi là “căn bệnh ngồi lì”, có lẽ lát nữa chúng ta sẽ nói thêm về điều này, rằng vận động là một trong những loại “thuốc” tốt nhất cho trẻ đang lớn. Vì vậy, Steven đã ra ngoài chơi từ lúc Giờ đây cháu vẫn chơi golf, và người ta gọi cháu là “Harry Potter trên sân golf”. Đó chỉ là một ví dụ.
Tôi thường nói nếu cha mẹ có một đứa con với bất kỳ sự khác biệt di truyền nào, với biểu sinh học (epigenetics), cha mẹ vẫn có thể thay đổi và tác động đến cách mà các gen đó hoạt động, thông qua cách nuôi dạy và cách cho con ăn uống.
Lila: Chủ đề dinh dưỡng, tôi nghĩ sẽ tiếp tục được nhắc lại nhiều lần trong cuộc trò chuyện này, bởi vì đó là một trong những yếu tố then chốt để bảo vệ trẻ em. Bác sĩ đang nói về thời điểm để giới thiệu một số loại thực phẩm. Tôi đã học được vài điều. Cảm ơn bác sĩ nhiều. Đứa con một tuổi của tôi thì đã ra khỏi những thức ăn đó, nhưng với đứa kế tiếp, tôi rất thích cách bác sĩ đề nghị.
Vậy một số công cụ trong “hộp dụng cụ” để bảo vệ con cái chúng ta là gì? Bác sĩ từng nói chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa được một số căn bệnh nghiêm trọng đang hoành hành nơi trẻ em, hoặc nếu các bé đang gặp vấn đề thì ta vẫn có thể đảo ngược tiến trình đó hoặc tiến tới việc cải thiện dần. Chúng ta đã nói đến dinh dưỡng, đến thuốc diệt cỏ, và mức độ độc hại khủng khiếp của chúng. Vậy bác sĩ có nghĩ rằng chúng ta nên chỉ ăn thực phẩm hữu cơ không? Quan điểm của bác sĩ về thực phẩm thế nào?
Dr. Sears: Tôi sẽ nói rằng: Hãy làm một khu vườn. Tự trồng lấy. Trẻ em sẽ ăn những gì chúng tự trồng; chúng tôi đã học được điều đó vì chúng tôi luôn có một khu vườn nhỏ sau nhà. Chúng tôi thường bảo tụi nhỏ: Ra hái ít cà chua đi, ra hái ít rau xà lách đi. Trẻ con sẽ ăn những gì chính tay chúng hái trồng. Hiện nay thậm chí bạn có thể có những “vườn tháp” nhỏ (tower garden) để trồng rau ngay trong nhà nữa. Hãy có một vườn rau.
Nhưng điều quan trọng nhất, là phải kéo tụi nhỏ ra khỏi ghế và cho chúng vận động. Hãy tưởng tượng Đấng Tạo Hóa của công trình sáng tạo tuyệt vời nhất từ trước đến nay, chính là cơ thể con người. Cơ thể người phụ nữ vẫn là tuyệt vời nhất, và trẻ sơ sinh thì thật đáng yêu. Nhưng Đấng Tạo Hóa biết con người chúng ta sẽ làm hỏng mọi thứ bởi cách chúng ta ăn uống, sống và suy nghĩ.
Cơ thể ta có một hiệu thuốc nội tại
Dr. Sears: Vì vậy, Thiên chúa đã đặt trong chính cơ thể chúng ta một hiệu thuốc, một hiệu thuốc nội tại. Khi tôi nói điều này với các bậc cha mẹ, họ thường bảo: Chúng ta có nhà thuốc ngay trong người mình á? Chưa từng nghe đến điều đó! Nhưng đúng rồi. Đúng rồi Bác sĩ Bill. Điều này giải thích những gì ta trải nghiệm. Nhưng nhà thuốc ấy thì ở đâu?
Tôi nói: “Cơ thể bạn có nhiều hiệu thuốc bên trong, nhưng hiệu thuốc lớn nhất thì ở đâu? Bạn sẽ đặt nhà thuốc đó ở đâu? Nếu bạn muốn các loại thuốc này đi vào máu nhanh nhất, để chúng thực hiện công việc của chúng hiệu quả nhất, thì bạn sẽ đặt nó ở đâu? Họ suy nghĩ... không biết.
Lớp lót của các mạch máu, gọi là nội mô (endothelium). Đây là một trong những từ quan trọng nhất trong y học mà nhiều người chưa từng nghe đến. Lớp nội mô (endothelium) là lớp lót bên trong các mạch máu của bạn. Hãy tưởng tượng lớp nội mô này chứa hàng nghìn tỷ “lọ thuốc siêu nhỏ”, và các “lọ thuốc” đó sẽ tiết ra khoảng
Những loại thuốc tự nhiên này giúp hạ các chỉ số cao như: huyết áp cao, cholesterol cao, mức đường trong máu cao hơn bình thường. Các loại thuốc giúp nâng lên những thứ bị hạ thấp: như thuốc chống trầm cảm, thuốc chống lo âu. Các loại thuốc chữa lành tổn thương của bạn: thuốc chống viêm; các loại thuốc giúp máu không đông quá nhanh: thuốc chống đông. Những loại thuốc ấy, cơ thể bạn tự tạo ra từ bên trong.
Nhưng vì một lý do, “nhà thuốc” (pharmacy) trong cơ thể lại bị đóng một phần ở hầu hết trẻ em và người lớn. Vậy nên, điều quan trọng nhất là: làm sao để giữ cho nhà thuốc ấy luôn mở? Câu trả lời chỉ gói gọn trong một từ đơn giản: “di chuyển” (move).
Chúng ta được tạo ra để vận động, không phải để ngồi. Chúng ta được tạo ra để di chuyển; đó là cách mà chúng ta được thiết kế. Và điều tôi sắp nói với bạn đã từng đoạt giải Nobel. Tôi được học điều này từ Tiến sĩ Lou Ignarro, người đã đoạt giải Nobel.
Khi ấy, ông Mô-sê nói với dân Ít-ra-en rằng: “Anh em hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ.
“Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh em phải nói: ‘Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?’ Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển, khiến anh em phải nói: ‘Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành?’ Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành.”
--------------
Ai mà biết Chúa thực sự muốn gì nơi tôi? Làm sao tôi có thể chắc chắn mình phải làm gì? Mọi thứ đều phức tạp, không rõ ràng, mọi thứ đều là tuỳ hoàn cảnh … Rốt cuộc thì ai có thể biết chắc được?”
Chúng ta đã nghe câu đó bao nhiêu lần — không chỉ từ người khác, mà còn từ chính những lý lẽ biện hộ vang lên trong tâm trí mình?
Đó là một lời dối trá.
Và ông Môsê đã vạch trần không khoan nhượng lời dối trá mà ta vẫn thường tự nói với mình: rằng Thiên Chúa thì xa vời, thiên đàng thì ở mãi tít trời cao, ý Chúa thì khó hiểu, tôn giáo là một cú nhảy mù quáng vào bóng tối, không chắc chắn như khoa học, như lẽ thường hay kinh nghiệm sống hằng ngày của ta.
Đó là một lời dối trá.
Chúng ta biết rất rõ và chắc chắn điều Thiên Chúa muốn nơi ta, vì Người không nói với ta từ trên trời hay từ bên kia đại dương, mà nói ngay từ lương tâm của chính chúng ta. Mười Điều Răn rất rõ ràng. Điều không rõ ràng chính là ý chí của chúng ta. Nó bị chia rẽ. Một phần trong ta muốn làm chúa tể của bản thân và nói: “Điều tôi muốn phải được thực hiện.” Phần khác thì muốn vâng phục Thiên Chúa và nói: “Xin cho ý Chúa được thể hiện.” Vậy nên chúng ta làm gì?
Để biện minh cho ý chí yếu đuối và chia rẽ của mình, chúng ta giả vờ rằng ý Chúa không rõ ràng. Chúng ta “diễn giải” Mười Điều Răn một cách tinh vi, chúng ta giả bộ rằng những điều ấy mơ hồ và khó hiểu, chỉ vì ý chí nổi loạn của ta không muốn vâng lời.
Chúng ta nói rằng luật Chúa quá xa tầm hiểu biết, rằng muốn hiểu được thì ta phải đi thật xa khỏi chính mình, như thể phải vượt đại dương hay bay lên trời.
Nhưng Thiên Chúa phá tan mọi sự biện hộ ấy khi ban cho chúng ta lương tâm. Tận sâu thẳm, nếu thành thật, chúng ta đều biết rất rõ mình nên làm gì và không nên làm gì đến 99% thời gian. Thiên Chúa ban cho chúng ta không chỉ một mà là hai thẩm quyền rõ ràng:
- thẩm quyền bên ngoài chúng ta: Mười Điều Răn, - và thẩm quyền trong chúng ta: lương tâm.
Tất nhiên, chúng ta phải thành thật với lương tâm mình. Bởi vì ta có thể dễ dàng lờ nó đi, làm thinh với nó, làm cho nó mù mờ, hay thỏa hiệp với nó.
Chúng ta phải thành thật không thỏa hiệp, và luôn tự hỏi: “Đâu là sự thật? Đâu là điều thiện đích thực?” Đó là bổn phận đầu tiên mà lương tâm chỉ cho ta:
Tìm kiếm sự thật một cách trung thực, khao khát sự thật, và muốn biết đâu là điều đúng sai. Và sau đó là: vâng phục sự thật ấy.
Biết điều đúng thì dễ. Làm điều đúng mới khó. Vì thế chúng ta bào chữa bằng cách giả vờ rằng biết đúng – sai cũng là điều khó, để rồi việc không vâng lời trở nên dễ dàng. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)
Khi ấy, Đức Giê-su còn đang nói với các môn đệ ông Gio-an, thì bỗng một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và nói : “Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống.” 19 Đức Giê-su đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi với Người.
23 Đức Giê-su đến nhà viên thủ lãnh ; thấy phường kèn và đám đông ồn ào. 24 Người nói : “Lui ra ! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy !” Nhưng họ chế nhạo Người. 25 Khi đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy. 26 Và tin ấy đồn ra khắp cả vùng (Mt 9:18-26).
Chúa Giêsu xua đuổi phường kèn và tiếng khóc lóc của sự chết. “Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy”. Ở đâu có Chúa Giêsu, ở đó không có khóc lóc, buồn sầu, nhưng sự sống và sự sống dồi dào của Thiên Chúa trong ta. Hãy nhớ trong lòng bạn Chúa Giêsu yêu bạn và kêu cầu đến Danh Thánh Chúa Giêsu để xua đuổi bóng tối của khóc lóc, nản lòng, của sự chết vì Chúa muốn bạn có sự sống đầy tràn ý nghĩa và lòng biết ơn.
“Khi bạn cầu nguyện, ký ức sẽ mang đến cho bạn những hình ảnh tưởng tượng—hoặc về những điều đã qua, hoặc những lo lắng gần đây, hoặc khuôn mặt của người nào đó đã làm bạn bực mình.
Ma quỷ rất ghen tị với chúng ta khi chúng ta cầu nguyện, và nó dùng mọi mưu mẹo để cản trở mục đích của ta. Vì thế, nó luôn lợi dụng ký ức của ta để khơi gợi đủ loại ý nghĩ, và lợi dụng thân xác để đánh thức các đam mê, nhằm ngăn trở con đường ta hướng lên với Thiên Chúa. -- Evagrios, On Prayer