Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. (6,17.20-26)

Khi ấy, Đức Giê-su ở trên núi xuống cùng với Nhóm Mười Hai, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, có nhiều môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng đến từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn.

Thấy vậy, Đức Giê-su ngước mắt nhìn các môn đệ và nói :
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.

“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.”

Đây là “Bài giảng trên núi” của Thánh Luca, có nhiều điểm tương đồng cũng như sự khác biệt rõ rệt so với “Bài giảng trên núi” của Thánh Mát-thêu (Mt 5–7). Trong những “phúc” mà Chúa Giêsu công bố trong bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe thấy sự vang vọng của những Phúc Thật nổi tiếng hơn được ghi lại trong Mt 5:1–9. Tuy nhiên, trong Mát-thêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho “những người có tinh thần nghèo khó”, trong khi ở Luca, Ngài chỉ nói “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó”.

… Lần này, Chúa Giêsu dạy rằng những ai trải qua cảnh nghèo khó, đói khát, sầu muộn và bị bách hại vì “Con Người” – Chúa Giêsu chính là người ấy – họ hãy vui mừng vì những đau khổ này là dấu hiệu cho thấy họ đang đi đúng hướng và sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng “trên trời”. Nhưng ngược lại, những ai sống cuộc đời giàu có, hưởng thụ và nổi tiếng nên rất lo lắng về ơn cứu rỗi đời đời của mình vì những dấu hiệu hạnh phúc bên ngoài này thường đi theo những tiên tri giả và những “kẻ giả dối” trong lịch sử cứu độ.

Lời của Chúa Giêsu thực sự là một lời cảnh tỉnh cho những ai, ít nhất là đối với chúng ta, đã hưởng được một phần thành công “được nhìn thấy” trong thế giới này. Chúa Giêsu đang nói rằng những dấu hiệu bên ngoài thường xuyên là giả dối, rằng những người thực sự được chúc phúc lại là những người dường như bị nguyền rủa, và những người có vẻ được chúc phúc lại đang đối diện với nguy cơ bị nguyền rủa. Vì vậy, chúng ta cần phải định nghĩa lại “thành công” và đánh giá lại những gì chúng ta tôn vinh và những gì chúng ta than vãn. Thông thường, chúng ta chỉ rơi vào khuôn mẫu chung của thế giới này, than vãn về những khó khăn chúng ta gặp phải và ghen tị với những người mà chúng ta cho là thịnh vượng. Các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc kiểm tra lương tâm:

Liệu sự thành công hay thịnh vượng mà tôi đang hưởng có thể thực sự do tôi không công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu, mà chỉ là do hành động và nói năng như mọi người trong thế giới này không?

Mặt khác, liệu những nỗi buồn và khổ đau mà tôi đang chịu đựng có thực sự là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa và phần thưởng Ngài đã chuẩn bị cho tôi trong cuộc sống vĩnh cửu?

Liệu tôi có rơi vào cái bẫy đánh giá cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác dựa trên của cải vật chất và những dấu hiệu bên ngoài của sức khỏe và thịnh vượng?

Cuối cùng, tôi có phải là người đàn ông hay người phụ nữ tin tưởng vào Chúa, vui thú với lề luật Chúa và nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày? Nếu không, tôi đang tin vào điều gì?-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year C

Share:

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

Sự thánh thiện tuyệt mỹ của Đức Maria

Lời từ video:

Một lần, [trong khi trừ quỷ], tôi đã gặp một trường hợp trong đó con quỷ đã nhìn thấy đời sống nội tâm của Đức Mẹ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi nó được tạo dựng.

Nếu bạn thực sự xem xét những gì xảy ra khi các thiên thần được tạo ra, thì quá trình đó được gọi là ba khoảnh khắc.
Khoảnh khắc đầu tiên là khi các thiên thần được tạo dựng và đặt trong toàn bộ hệ thống phẩm trật thiên thần. Hàng tỷ tỷ thiên thần được tạo ra ngay lập tức trong một hệ thống có phẩm trật. Trong khoảnh khắc đầu tiên đó, họ được tạo dựng với một hành động nhận thức hoàn hảo, nghĩa là họ biết Thiên Chúa là ai, mối quan hệ của họ với Ngài, nhiệm vụ được giao phó cho họ là gì, và tại sao Thiên Chúa tạo ra họ. Điều đó có nghĩa là họ hiểu rõ bản chất của chính họ và mối quan hệ của họ với tất cả các thiên thần khác.

Thánh Tôma A-qui-na nói rằng họ thậm chí còn thấy được sự cám dỗ và điều gì sẽ xảy ra nếu Lu-xi-phe sa ngã, ai sẽ là kẻ thống trị họ nếu họ sa ngã, hình phạt của họ nếu họ sa ngã, cũng như phần thưởng nếu họ trung thành. Họ thấy toàn bộ mọi thứ ngay lập tức, cùng một lúc. Và ngay vào khoảnh khắc đó, Thánh Tô-ma nói rằng vì họ nhìn thấy điều đó bằng trí tuệ, nên ý chí của họ cũng đồng thời hưởng thụ sự vui thích khi nhận ra sự tuyệt mỹ của kế hoạch Thiên Chúa. Và sau đó, họ đưa ra lựa chọn của mình, đó là khoảnh khắc thứ hai.

Sự khác biệt giữa chúng ta và các thiên thần là chúng ta rất ngu ngốc, chúng ta kém thông minh hơn họ rất nhiều. Đơn giản, bạn chỉ cần bật TV lên là bạn sẽ thấy ngay điều đó. Có vẻ như số lượng người mang mang trên mình vũ khí của sự ngu dốt ngày càng gia tăng. Nghĩa là khi loài người có một lựa chọn, họ không thấu hiểu lựa chọn đó.

Định nghĩa của tự do: Tự do là lựa chọn của ý chí, trong đó ý chí có khả năng chọn giữa những điều tốt lành khác nhau. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta đưa ra một lựa chọn, chúng ta dần dần cố định ý chí của mình vào sự gì đó. Và theo thời gian, vì chúng ta không thông minh lắm, nên sự cố định đó phát triển dần cho đến khi chúng ta ngày càng bám chặt vào điều thiện hoặc điều ác.

Nhưng với các thiên thần, vì họ có sự hiểu biết hoàn hảo về những gì họ đang làm, họ không có sự ngu muội hay yếu đuối như chúng ta. Khi chúng ta thấy sô-cô-la, chúng ta có thể bị cám dỗ ngay lập tức, nhưng họ không như vậy. Họ hiểu hoàn toàn những gì họ đang làm, và điều đó có nghĩa là sự lựa chọn của họ tự do hơn chúng ta rất nhiều. Và khi họ đã chọn, ý chí của họ được cố định vĩnh viễn trong điều đó, dù là tốt hay xấu.

Thật vậy, có một lần tôi tra vấn một con quỷ về việc nó được tạo ra để hưởng kiến dung nhan Chúa. Tôi hỏi nó:
- “Ngươi được tạo ra để có thị kiến vinh phúc đúng không?” Nó trả lời: “Đúng.”
-“Ngươi được tạo ra để thực hiện một nhiệm vụ vĩ đại đúng không?” “Đúng.”
-“Ngươi được tạo ra để có một mối quan hệ tuyệt vời với tất cả mọi người trên thiên đàng đúng không?” “Đúng.”
- Sau đó tôi tiếp tục hỏi: “Và ngươi biết rằng nếu ngươi chọn chống lại điều đó, ngươi sẽ kết thúc trong địa ngục đúng không?” “Đúng.”
- “Ngươi sẽ không bao giờ được nhìn thấy Thiên Chúa nữa đúng không?” “Đúng.”
- “Ngươi sẽ phải chịu đau khổ vĩnh viễn đúng không?” “Đúng.”
- “Và nếu có cơ hội, ngươi sẽ làm chính điều đó lại một lần nữa?” ”Đúng.”

Họ thực sự bị cố định trong điều đó. Đây là lý do tại sao ngày nay chúng ta thỉnh thoảng nghe về một lạc giáo được hồi sinh, xuất phát từ giáo phụ tên Origen, gọi là Apo-ka-tas-tasis. Lạc giáo ấy tuyên bố rằng những người ở địa ngục sẽ có cơ hội thứ hai để vào thiên đàng. Giáo hội đã chính thức lên án quan điểm này trong Công đồng Constantinople. Một khi ở địa ngục, số phận của họ là vĩnh viễn.

Trên thực tế, trong các buổi trừ tà, tôi có thể làm cho  những con quỷ đau đớn hơn bằng cách nói về sự đau khổ vĩnh cửu của chúng. Chúng nhận thức rõ rằng nỗi đau này sẽ không bao giờ thay đổi, và điều đó làm tăng thêm sự thống khổ của chúng.
Mỗi thiên thần sa ngã sẽ nói với bạn rằng thất bại căn bản của chúng là về sự hy sinh. Thánh Tô-ma nói rằng khi các thiên thần được tạo ra, họ nhìn thấy tất cả những phẩm hạnh hoàn hảo của các thiên thần có phẩm trật cao hơn, các thánh, và Thiên Chúa. Họ biết rằng có một sự hy sinh đặc biệt mà họ phải chấp nhận để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu họ sẵn sàng từ bỏ điều đó vì Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời.
Khoảnh khắc thứ ba là ngay khi các thiên thần đưa ra lựa chọn của mình, họ hoặc bị đày xuống địa ngục ngay lập tức, hoặc được hưởng nhan thánh Chúa ngay lập tức. Mọi thứ diễn tiếp cách tức thời.
Ngay từ khoảnh khắc đó, họ hoặc là trải nghiệm sự đau khổ vì đã đánh mất việc được nhìn thấy Chúa, hoặc tận hưởng vinh quang thiên đàng. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian ngắn, các thiên thần tốt và các thiên thần sa ngã vẫn còn ở cùng nhau. Đây là một trong những lý do tại sao có một cuộc chiến giữa họ trong một thời gian. Sau đó, Thiên Chúa trao quyền cho Tổng lãnh thiên thần Micae để đánh bại và trục xuất tất cả các thiên thần sa ngã xuống địa ngục. Đây là một trong những sự kiện quan trọng đã xảy ra. Vậy tại sao tôi lại đề cập đến điều này?

Trước hết, khi tôi tra vấn con quỷ này trong quá trình trừ quỷ, bởi vì ngay từ khoảnh khắc đầu tiên khi nó được tạo dựng, một phần nhiệm vụ được giao cho nó là phục vụ Đức Mẹ, nó đã được nhìn thấy chuyển động nội tâm của Mẹ khi Người sẽ trải nghiệm Cuộc Khổ Nạn.

Nó nói rằng khi nhìn thấy đời sống nội tâm của Mẹ… Trong trường hợp này, có hai con quỷ khác nhau, và cả hai đều đã sa ngã vì vẻ đẹp nội tâm của Mẹ. Quỷ nói rằng khi hắn chứng kiến vẻ đẹp nội tâm của Đức Mẹ, nó quá đỗi tuyệt mỹ, đến mức nó không thể chấp nhận việc chia sẻ Mẹ ngay cả với Thiên Chúa. Hắn muốn nắm giữ Mẹ cho riêng mình. Điều này cho thấy vẻ đẹp của Đức Mẹ thật vĩ đại biết bao.

Lúc đó, con quỷ khác trong trường hợp này là Bê-en-dê-bun (một tên gọi khác cho Xa-tan). Nó nói rằng khi chứng kiến vẻ đẹp của Đức Mẹ, nó biết rằng nó luôn phải là đứa thứ hai. Nó nhận ra nó không bao giờ có thể đạt đến mức độ thánh thiện đó, và nó ước muốn vẻ đẹp ấy cho riêng mình.

Vậy nên, khi Bê-en-dê-bun đề cập đến điều này, trong một phiên trừ tà sau đó, tôi ra lệnh cho hắn nói cho tôi biết:

”Điều gì về vẻ đẹp của Đức Mẹ mà ngươi không thích?” Vì hắn đã từ chối phục vụ Thiên Chúa, từ chối thực hiện thánh ý Chúa, bởi vì Chúa đã ban cho Đức Mẹ vẻ đẹp đó mà không ban cho hắn. Vậy nên tôi hỏi lại:

- “Cái gì ở vẻ đẹp của Người mà ngươi không thích?”
- Hắn trả lời: “Đó là sự trong sạch của vẻ đẹp của Người.”
- Tôi đáp: “Đó là một câu trả lời quá chung chung. Điều gì ở sự trong sạch ấy mà ngươi không thích?”
- Hắn nói: “Đó là sự trong sạch trong tình yêu của Người.”
Tôi lại nói: “Câu trả lời đó cũng quá chung chung. Điều gì trong tình yêu trong sạch của Người mà ngươi không thích?”
-Hắn nói: “Khi Người hy sinh cho Thiên Chúa, Người chưa bao giờ tính toán thiệt thòi cá nhân.”

Điều này có nghĩa là Đức Mẹ khác biệt hoàn toàn với mọi người chúng ta. Chúng ta luôn luôn tính toán hy sinh cá nhân mà mình phải trả. Chúng ta suy nghĩ về việc mình sẽ chịu đau khổ đến mức nào khi phải từ bỏ điều gì đó.

Là một linh mục trừ quỷ, tôi thường khuyên bảo mọi người làm việc ăn chay, và ngay lập tức tôi nhận được những lời than vãn: “Cha ơi, con không thể ăn chay được!” Nhưng tôi nói với họ: “Nó đâu có là quá khó khăn!”

Điểm mấu chốt là chúng ta luôn tính toán giá chúng ta phải trả. Ngay cả trong các mối quan hệ của chúng ta, kể cả trong hôn nhân. Trong các mối quan hệ, chúng ta đong đếm nhau; vì bị tổn thương, người ta cũng tính toán xem họ sẵn sàng hy sinh bao nhiêu, dựa trên việc hy sinh đó sẽ làm họ mất mát bao nhiêu.

Nhưng con quỷ tiếp tục nói: ”Không chỉ là việc Người không bao giờ tính toán cái giá cá nhân, mà ngay cả khi Thiên Chúa muốn bất cứ điều gì từ Bà, Bà cũng không bao giờ đặt bản thân vào phương trình. Bà chỉ đơn giản nói 'Vâng' và thực hiện nó.”

Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ hoàn toàn quên đi bản thân trong quá trình thực thi ý Chúa. Và điều này khiến Đức Maria khác biệt với tất cả chúng ta. Khác biệt với mọi con người từng sống. Vì chúng ta luôn luôn đong đếm cái giá của sự hy sinh.

Nhưng rồi hắn nói: “Không chỉ là Người không tính toán cái giá của sự hy sinh, mà Người đã làm điều đó hết lần này đến lần khác, liên tục, và không bao giờ nghĩ đến thiệt thòi cá nhân, một lần nào.”

Điều đó có nghĩa là Đức Mẹ không chỉ khác biệt với chúng ta, mà Người còn khác biệt với tất cả các vị thánh, với tất cả các thiên thần trên thiên đàng.

Hắn nói tiếp: “Điều làm tao tức giận nhất là thực tế rằng Người đã có thể hy sinh bản thân hết lần này đến lần khác, còn ta chỉ có thể hy sinh một lần duy nhất.”

Và hắn kết luận: “Ta biết rằng ta không bao giờ có thể đạt được mức độ vẻ đẹp nội tâm như của Người.” Hãy để ý điều hắn đang nói: Không có một thiên thần nào giống Đức Mẹ. Đây là lý do tại sao các thánh nhân nói rằng sự thánh thiện của Đức Mẹ không thể sánh được.

Hãy quay lại với lời của Thánh Louis-Marie de Montfort: “Một tiếng thở dài của Đức Mẹ có giá trị hơn tất cả những cuộc tử đạo, những lời cầu nguyện, đau khổ và việc lành của tất cả các thánh hợp lại.” Lý do là bởi vì không ai ngoài Con Mẹ đã hy sinh theo cách mà Mẹ đã làm.

Không một ai cả. Trên thực tế, các thánh nhân nói rằng sự thánh thiện của Đức Mẹ vĩ đại hơn tất cả các thánh và tất cả các thiên thần hợp lại.

Share:

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2025

Qua giáo dân Giáo Hội đi vào thế giới

Kho tàng sức mạnh tâm linh lớn nhất chưa được khai thác trong Công giáo là giáo dân. Chính qua giáo dân mà Giáo Hội đi vào thế giới. Nam giới và nữ giới là nơi gặp gỡ giữa người Công giáo và người không Công giáo. Họ là cầu nối giữa thiêng liêng và trần tục, giữa tôn giáo và thế tục. Giáo dân thực hiện ơn gọi Công giáo của mình trong thế giới. Khi họ đến nhà thờ, họ đón nhận sự sống, sự thật và ân sủng, nhưng họ lãnh nhận chúng để phục vụ Chúa giữa lòng thế giới. Trong thế giới này, chân lý, ân sủng và đời sống Công giáo của họ gặp gỡ với những người có thể thiếu chúng hoặc không có đầy đủ sự phong phú của đức tin Công giáo. Ơn gọi của người Kitô hữu Công giáo là để vinh quang Chúa được thể hiện qua những biểu hiện thông thường của cuộc sống.

Có hai nguy cơ. Một là giáo dân Công giáo có thể hình thành một loại “ghetto, nhóm đặc biệt,” nghĩ rằng các hoạt động tôn giáo của họ chỉ giới hạn trong nhà thờ, tuân thủ các Điều răn. Cũng có thể có những người Công giáo tụ tập với nhau trong một kiểu “lều tuyết”, hoàn toàn tách biệt đức tin ra khỏi hành động. Mặt khác, sự cực đoan sẽ là trở nên quá thế tục, đến mức đức tin không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống thế tục của họ.

Hệ quả của việc tách biệt tôn giáo và thế giới là văn hóa đã được giải phóng khỏi Đức Kitô và trở thành văn hoá của sự dữ. Nếu giáo dân muốn có hiệu quả, họ phải ý thức rằng họ là thành viên của dân Chúa; họ thuộc về cộng đồng thờ phượng. Họ phải am hiểu về thần học. Như thánh Phêrô đã nói, họ phải có khả năng đưa ra lý do cho niềm tin của mình (1Pt 3:15). Họ phải giao tiếp với thế giới như những người Công giáo. Họ tham gia vào thế giới. Như John Donne đã nói rất hay:

"Không ai là một hòn đảo, hoàn toàn tách biệt; mỗi người là một phần của đại lục, một phần của đại gia đình; nếu một cục đất bị cuốn đi bởi biển, châu Âu trở nên thiếu thốn, như thể một mũi đất bị cuốn đi, cũng như thể một người bạn của bạn hay trong gia đình bạn bị mất; cái chết của một người làm giảm bớt tôi, vì tôi tham gia vào nhân loại. Và vì thế, đừng bao giờ hỏi chuông rung vì ai; nó rung cho bạn." (MEDITATION 17, Devotions upon Emergent Occasions)

Không ai có thể chu toàn ơn gọi Kitô hữu Công giáo của mình hoặc đạt được bất kỳ sự toàn vẹn cá nhân nào trong thế giới hiện đại nếu họ không quen thuộc với máy tính, biết đến những khu ổ chuột, hiểu biết về việc phân biệt chủng tộc, về các vấn đề thế giới, với mọi thứ. Chính giáo dân đứng ở điểm giao nhau giữa Phúc Âm và thế giới. Như cây Thập giá đứng ở giao điểm giữa các nền văn hóa và nền văn minh của Athens, Jerusalem và Rome, giáo dân vượt qua tất cả các biên giới, và họ làm điều này nhân danh Đức Kitô. Khi chúng ta thấy giáo dân đến nhà thờ vào Chủ nhật, chúng ta hỏi họ, Liệu họ có thực sự yêu thương nhau không? Họ có là một yếu tố trong cộng đồng thống nhất không? Họ đến đây chỉ để hoàn thành nghĩa vụ, tránh một tội trọng thay vì làm mạnh mẽ sự sống mà họ cần làm lan toả? Họ có đang tìm kiếm sự thánh hóa chỉ cho bản thân, quên rằng Chúa Giêsu đã nói, “Vì họ mà Con thánh hóa chính mình" (Ga 17:19)? Liệu họ ngoài thói quen hàng tuần đi nhà thờ, chẳng khác gì những người chung quanh họ trong cuộc sống? Khi người khác nhìn vào nhóm tín hữu này, liệu họ có nói: “Tôi cần nên giống như họ; tôi cần có tình yêu, sự thật và bình an mà những người này đang chiếm hữu”. Nhưng thường thì ngược lại.

Giáo dân sẽ phải nhận thức rằng Chúa Giêsu của chúng ta đã bị đóng đinh không phải trong một nhà thờ giữa hai ngọn nến, mà là giữa thế giới, trên một con đường, trong một đống rác của thị trấn, tại giao lộ nơi có ba thứ tiếng được ghi trên Thập giá. Đúng, đó là tiếng Híp-ri, Latin và Hy Lạp, nhưng chúng có thể là tiếng Việt, Anh hoặc tiếng Tàu. Điều đó không quan trọng. Chúa Giêsu đã đặt mình ở trung tâm của thế giới, giữa những vũng bùn, những tên trộm, lính và những người đánh bạc. Ngài ở đó để mở rộng sự tha thứ cho họ. Đây là ơn gọi của giáo dân: ra ngoài thế giới và làm cho Đức Kitô được biết đến. -- ĐTGM Fulton Sheen, Your Life Is Worth Living

Share:

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2025

“Ite! Missa est!”: ‘Hãy đi! Thánh Lễ đã hoàn tất!’

Hôm nọ đoạn chú giải này cho bài đọc một từ ngôn sứ Isaia (6,1-2a;3-8) của Dr. John Bergsma nói: “Thánh Lễ kết thúc bằng một cụm từ Latin mạnh mẽ: “Ite! Missa est!” mà theo cách diễn đạt thông thường có thể hiểu là ‘Hãy đi! Hy lễ đã hoàn tất!’… Cụm từ Latin với giọng điệu dứt khoát này nhắc nhở rằng, khi Thánh Lễ kết thúc, chúng ta phải lập tức quay lại với sứ mạng Thiên Chúa trao phó: loan báo Tin Mừng bằng chính lời nói và hành động của mình”.

Đọc xong đoạn đó làm mình nhớ đến Chúa Tể Các Chiếc hẫn. Câu chuyện như thể một củ hành, ý nghĩa này lột ra chưa hết thì ta đã thấy một lớp ý nghĩa khác.

Trước khi Gandalf bị rơi xuống nơi “âm phủ”, Hiệp hội nhẫn thần như thể không rõ hướng đi: biết là chiếc nhẫn phải bị tiêu diệt nhưng sức mạnh của kẻ thù thì có vẻ mạnh hơn rất nhiều. Gandalf và hiệp hội khi biết mình gặp Balrog chỉ có thể bỏ chạy và kết cục là Gandalf bị rơi vào “âm phủ”.

Nhưng sau khi Gandalf “sống lại” từ cõi chết, ông không sợ ngay cả quyền lực của chiếc nhẫn. Những người trong Hiệp hội ấy vẫn phải chiến đấu, vẫn phải đổ máu, nhưng Gandalf như thể có quyền năng hơn; Aragorn, người được coi là hình ảnh của Đức Kitô, tỏ lộ nguồn gốc của mình khiến Sauron sợ hãi.

Chúng ta KHÔNG tham dự Thánh Lễ vì đây là một bổn phận điều răn Chúa đòi hỏi.

Mỗi lần tham dự Thánh Lễ chúng ta chứng kiến sự chết và tội lỗi đã bị đánh bại. Chúa Kitô đã hiến mình để chúng ta được sống và còn hơn thế nữa: Chúng ta vẫn chiến đấu, vẫn phải đổ máu, nhưng ma quỷ đã mất đi vũ khí của nó: sự chết bị đánh bại bởi sự phục sinh của Chúa Kitô và tội lỗi bị đánh bại bởi ơn tha tội.

Thánh Lễ đã xong, chúng ta không chỉ “đi về bình an” mà là hãy đi thi hành mệnh lệnh: “Đi vào thế giới và đánh bại vương quyền sự dữ bằng vũ khí và sức mạnh của Thần Khí của Chúa Kitô chịu đóng đanh nhưng đã sống lại”. Hãy cầm kiếm, áo giáp và đi vào chiến trường để đập tan mưu mô cùng quyền lực của Satan. Bạn có thể mất mạng nhưng bạn luôn thuộc về đạo binh đã thắng trận của Chúa Kitô.

Share:

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2025

“Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Bạn tin ai? Sự thông hiểu của bản thân hay Thiên Chúa -- CN V Mùa Thường niên, năm C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (5:1-11)

Khi ấy, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.

Giảng xong, Người bảo ông Si-môn : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Si-môn đáp : “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.

Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói : “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn : “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

----------

Chú ý đến sáu giai đoạn của đời sống Kitô hữu trong câu chuyện từ Tin Mừng Luca này:

Thứ nhất, nhu cầu, sự thất vọng ban đầu, tình huống xảy ra, đối với những ngư dân này là việc không bắt được gì cả;
Thứ hai, lời mời gọi hãy đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu để chèo ra chỗ nước sâu;
Thứ ba, phản ứng tích cực của các môn đệ đối với lời mời gọi của Chúa Kitô, cả về tâm hồn lẫn thể xác, cả niềm tin và sự vâng lời;
Thứ tư, kết quả của sự tin tưởng, trong trường hợp của họ là mẻ cá lạ lùng;
Thứ năm, sự khiêm nhường trước ân sủng thần linh này;
Thứ sáu, lời kêu gọi trở thành kẻ lưới người, làm nhà truyền giáo.

Chúng ta không thích bị thiếu thốn, phải cần đến sự gì đó ta không có; chúng ta gánh chịu chúng. Tại sao Thiên Chúa để chúng ta đau khổ nếu Người yêu thương chúng ta? Thiên Chúa để chúng ta đau khổ vì Người yêu thương chúng ta và biết rằng nếu chúng ta không đau khổ, nếu chúng ta không trải nghiệm sự thiếu thốn, mất mát và trống rỗng, thì chúng ta sẽ không thể cảm nhận được sự cứu độ và sự viên mãn. Tay của chúng ta phải trống rỗng để Người đến và lấp đầy chúng.

Cuộc sống là một câu chuyện, và mỗi câu chuyện đều có hai phần: vấn đề và giải pháp, thử thách và đáp ứng, nhu cầu và sự thỏa mãn, mất mát và sự tìm thấy. Nếu các môn đệ đã bắt được cá đêm đó thay vì trải qua một đêm đầy thất vọng và mệt mỏi vì không bắt được gì, họ sẽ không cần đến sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, hoặc nhận được sự giúp đỡ, và sự nhận biết cùng với lòng biết ơn. Nếu bạn không đói, bạn sẽ không cảm thấy thức ăn ngon và thích thú. Không ai thích bị đói, nhưng hãy tưởng tượng nếu bạn không bao giờ cảm thấy đói. Bạn sẽ không bao giờ trân trọng thức ăn. Hãy tưởng tượng nếu bạn không bao giờ cảm thấy cô đơn. Không ai thích cô đơn, nhưng nếu bạn không bao giờ cảm thấy cô đơn, bạn sẽ không bao giờ trân trọng một người bạn. Thiên Chúa phải gieo vào lòng bạn sự khao khát Người trước khi Người ban chính mình làm lương thực cho bạn.

Điều này không giải đáp hết mọi câu hỏi về đau khổ, đặc biệt là những chi tiết cụ thể, nhưng nó cho chúng ta thấy rằng một thế giới (sau tội tổ tông) không có đau khổ sẽ là một thế giới nhàm chán. Sẽ không có những câu chuyện, không có kịch tính, không có vấn đề, không có những nhu cầu. Những điều này là một phần của kế hoạch yêu thương và khôn ngoan vô hạn của Thiên Chúa dành cho cuộc đời chúng ta, cũng như việc Người đáp ứng những nhu cầu ấy là một phần khác của kế hoạch đó. Như Frank Sinatra đã nói ngắn gọn, “Cuộc sống là thế”.

... Thiên Chúa luôn can thiệp vào kế hoạch của chúng ta. Nếu bạn muốn làm Chúa bật cười, hãy kể cho Người nghe kế hoạch của bạn cho cuộc đời mình. Thiên Chúa luôn vượt xa sự mong đợi của chúng ta. Ở đây, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người “chèo ra chỗ nước sâu,” chấp nhận rủi ro, làm điều gì đó có vẻ vô ích và điên rồ. Họ phàn nàn: “Chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì.” Nhưng rồi có một chữ “nhưng” cứu rỗi—“nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới.” Và họ đã làm điều đó. Phêrô làm điều đó. (Phêrô luôn là người lãnh đạo.) Họ làm điều đó chỉ vì một lý do duy nhất: họ tin tưởng Người.

Đó là sự sa ngã của tội tổ tông, một thử thách về hành động và sự vâng lời, nhưng trước hết là thử thách về đức tin và lòng tin tưởng. Ma quỷ đã nói với Evà: “Tin ta, đừng tin Thiên Chúa. Thiên Chúa đang giữ điều gì đó khỏi ngươi với thứ trái cấm này. Người đã nói ngươi sẽ chết nếu ăn nó ư? Đừng tin lời Người. Ngươi sẽ không chết; ta hứa với ngươi. Tin ta, đừng tin Người. Lời khuyên của Người chẳng có lý chút nào. Nhìn trái đó đi. Ngươi có thể tự mình thấy nó đẹp đẽ thế nào. Hãy tin vào mắt ngươi, vào lý trí của ngươi, vào những ham muốn của ngươi—tin ta; đừng tin Thiên Chúa.”

Lời của Chúa Giêsu với các môn đệ không có lý lẽ gì đối với các môn đệ. Họ biết rằng không có cá ở đó. Họ đã đánh bắt cả đêm mà không được gì. Thiên Chúa cố ý yêu cầu chúng ta làm điều gì đó mà chúng ta không hiểu, để chúng ta tin tưởng Người dù có những bằng chứng trái ngược. Người nói rằng Người vô cùng tốt lành, toàn năng, và khôn ngoan vô hạn, thế nhưng lại có quá nhiều điều xấu xa và đầy những sự dữ vô tích sự. Đó là bằng chứng chống lại Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể tin tưởng Người khi có quá nhiều bằng chứng dường như chống lại Người?

Thế thì, lựa chọn duy nhất khác chính là tin vào tâm trí của mình thay vì tin vào Người. Ai có khả năng biết điều tốt nhất cho chúng ta hơn: chính chúng ta hay Đấng Tạo Hóa của chúng ta? Câu trả lời cho câu hỏi đó phụ thuộc vào một điều quan trọng trên hết mọi sự: Thiên Chúa có yêu thương chúng ta không? Nếu Người yêu thương chúng ta, thì Người luôn làm điều tốt nhất cho chúng ta về lâu dài, ngay cả khi chúng ta không thấy điều đó. Và bởi vì chúng ta không thấy điều đó, lý do duy nhất để chúng ta vâng lời Người là đức tin, đức tin cá nhân, bạn tin vào người với người, bạn tin Thiên Chúa.

“Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Người lại đem ai đó đi khỏi con bằng cái chết, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa Giêsu, con không hiểu làm sao Người vừa hoàn toàn là Thiên Chúa vừa hoàn toàn là con người, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa, con không hiểu tại sao Người lại gọi một nhóm người ngu ngốc, nông cạn, ích kỷ là những chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của Người và là Giáo Hội có thẩm quyền của Người, nhưng con tin tưởng Người.” “Lạy Chúa, con không hiểu làm sao kế hoạch của Người cho đời sống tình dục của con lại đem đến hạnh phúc nhiều hơn kế hoạch của con, nhưng con tin tưởng Người.” Đó chính là sự lựa chọn của chúng ta: Bạn sẽ tin vào ai? Ai thông biết nhất? Ai là Cha của bạn?

Rồi khi chúng ta chọn tin tưởng và hành động dựa trên sự tin tưởng đó, sự chọn lựa đó luôn là đúng, đôi khi ngay lập tức và đôi khi sau một thời gian dài thử thách. Những lời hứa của Thiên Chúa luôn được thực hiện. Đó là điều duy nhất trong cuộc sống được đảm bảo hoàn toàn, 100%, không bao giờ thất bại. Con người thất bại, ngay cả những người vĩ đại, khôn ngoan và thánh thiện nhất. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Nếu Người thất bại, Người sẽ không phải là Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là Thiên Chúa, thì những lời hứa của Người là không thể sai lầm. Nếu chúng không thể sai lầm, thì Người không phải là Thiên Chúa. Không có khả năng thứ ba.

Sự lựa chọn của chúng ta không phải là giữa Thiên Chúa này và một vị thần thấp kém hơn. Chúng ta không thể chọn một thần thấp kém nào khác cả. Sự lựa chọn của chúng ta là Thiên Chúa hoặc hư không.

Rồi phần thưởng sẽ đến. Phần thưởng đầy đủ sẽ đến trong cuộc sống đời sau, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy nó sẽ đến ngay cả trong cuộc sống này; nhiều “món khai vị” của bữa tiệc thiên đàng được ban ngay trên trần gian; nhiều niềm vui đến từ việc tin tưởng Thiên Chúa ngay bây giờ. Bao nhiêu niềm vui? Luôn nhiều hơn những gì chúng ta mong đợi. Mẹ Têrêsa từng nói: “Thiên Chúa sẽ không bao giờ để bạn hơn Người về sự quảng đại.” Làm sao Thiên Chúa lại kém quảng đại, kém yêu thương hơn những gì chúng ta nghĩ về Người? Làm sao khái niệm của chúng ta về Thiên Chúa lại đúng đắn hoặc tốt đẹp hơn Thiên Chúa thật? Làm sao những điều Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những người yêu mến Người lại ít hơn, thay vì nhiều hơn, tất cả những gì mắt chúng ta đã thấy, tai chúng ta đã nghe, và lòng chúng ta đã khao khát?

Và phản ứng của chúng ta đối với sự khôn ngoan, tình yêu và lòng quảng đại tràn đầy của Thiên Chúa tất nhiên là sự kinh ngạc. Chúng ta dần nhận ra rằng những điều Thiên Chúa yêu cầu chúng ta làm, dù không có ý nghĩa gì vào lúc đó, hóa ra lại là sự khôn ngoan vượt trội hơn trí hiểu của chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và khiêm tốn. Và đó chính là sự khôn ngoan. Đó là sự khôn ngoan của Mẹ Maria trong biến cố Truyền Tin: “Xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Đó là sự khôn ngoan của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng làm theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22:42).

Hết lần này đến lần khác, chúng ta nhận ra rằng con đường của Thiên Chúa là con đường tốt nhất, và “Tôi đã làm theo ý mình” không phải là bài hát của các thánh khi họ tiến vào thiên đàng, mà là bài hát của những người bị đoán phạt khi họ tiến vào hỏa ngục. Hết lần này đến lần khác, chúng ta được nếm trải những “món khai vị” của thiên đàng trên trần gian khi chúng ta tin tưởng và vâng lời, và những “món khai vị” của hỏa ngục khi chúng ta nghi ngờ và bất tuân. Chỉ có một con đường đến thiên đàng. Một bài thánh ca cũ diễn đạt đơn giản: “Tin và vâng lời, vì không có con đường nào khác.” Con đường khác dẫn đến một nơi khác.

Cuối cùng, Thiên Chúa giao cho chúng ta một nhiệm vụ mới: làm nhân chứng, và chia sẻ kinh nghiệm của chính chúng ta về Tin Mừng, rằng Thiên Chúa là tình yêu, rằng Thiên Chúa hoàn toàn đáng tin, và rằng “tin và vâng lời” là con đường dẫn đến sự khôn ngoan và hạnh phúc. Đó được gọi là việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Tin Mừng qua cả lời nói lẫn việc làm, giống như cái kéo thì có hai lưỡi. Bạn có thể cắt giấy bằng một lưỡi dao, nhưng kéo hoạt động tốt hơn nhiều. Việc làm tốt là điểm khởi đầu, khiến người khác tò mò, và họ sẽ hỏi lý do tại sao; đó là lúc để dùng lời nói. Lời nói mà không có việc làm là không đủ, vì người ta có thể tranh luận với lời nói của bạn, nhưng họ không thể tranh luận với việc làm của bạn.

Không phải mọi Kitô hữu đều được gọi làm giáo hoàng, hồng y, giám mục, linh mục, nữ tu, tu sĩ, ngôn sứ, giáo lý viên, thần học gia, người làm phép lạ, hay người chữa lành. Nhưng mọi Kitô hữu đều được gọi làm nhà truyền giáo, giống như mọi Kitô hữu đều được gọi làm thánh. Thực ra, hai điều này là một, vì sống thánh thiện là cách tốt nhất để loan báo Tin Mừng. Việc làm chứng cho Tin Mừng không phải là một kỹ thuật, một phương pháp, hay một kiểu công nghệ thiêng liêng nào, như nghệ thuật bán hàng hay nghệ thuật quảng cáo. Đánh bắt cá là một nghệ thuật chuyên biệt, nhưng đánh bắt người thì không. Đó không phải là thứ có thể được dạy, mà là thứ được lan toả, giống như một “bệnh truyền nhiễm tốt lành.” -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 5 tháng 2, 2025

Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy

“Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con” (Híp-ri 12:5-7).

Dù mắt chúng ta không thấy, bên cạnh chúng ta là thiên thần hộ thủ, ngài được Chúa ủy thác chức vụ làm thiên thần hộ thủ của ta từ khi ta được hình thành trong lòng mẹ. Dù mắt chúng ta không thấy, chung quanh chúng ta là ma quỷ như “sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Chúng ta thường không nhớ rằng chúng ta đang sống trong chiến trường, đang phải tập luyện để làm công dân nước trời. Và qua mọi khó khăn, chúng ta cần hỏi Chúa muốn tôi học hỏi điều gì qua sự kiện này.

Khi chúng ta sống đúng theo con đường Chúa vạch ra trong các giới răn, tình thức nhờ học biết Lời Chúa, cầu nguyện, chúng ta không dễ rơi vào những cạm bẫy sự dữ bày ra cách rất tinh tế. Nó không khờ dại gì để bảo ta đi ăn trộm, nhưng nó sẽ khơi dậy ước muốn chính đáng chẳng hạn như “Ồ, cô ấy mặc cái đó đẹp”, rồi ta suốt ngày nghĩ về nó và ước muốn ấy ngày càng mạnh mẽ hơn nếu chúng ta không tỉnh thức để kiềm chế.

Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta như AI robot, tải hết những ý định trong não chúng ta, nhưng Chúa đã không làm như vậy. Ngài dựng nên chúng ta tự do để chọn lựa để rồi Ngài có thể như người cha vô cùng tự hào khoe con mình như Chúa đã làm với ông Gióp. Giữa biết bao tai hoạ, ta nhờ cầm lấy vũ khí Chúa ban, không những không bị tai hoạ vùi lấp mà còn giỏi hơn trước. Điều này làm ông bố nào cũng hãnh diện về con mình.

Không có sự thánh thiện của đời sống đức tin, chúng ta sẽ không có sự sáng suốt của một trí óc tỉnh thức để nhận ra âm mưu tinh tế nhưng rất xảo quyệt của ma quỷ. Đừng để nó đến gần giả làm bạn, lấy dù che hết mưa hồng ân. Rút cục ơn Chúa luôn đổ tràn nhưng bạn không hứng được dù chỉ một giọt. Hãy lắng nghe lời Chúa sửa dạy qua những khó khăn đến với ta vì những lựa chọn của mình.

Share:

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2025

Nổi loạn, Cam chịu, Bằng lòng

Trước khi đi xa hơn, chúng ta cần làm rõ các thuật ngữ. Khi chúng ta đối mặt với những gì bất ưng hay được xem là tiêu cực trong chính mình hay trong hoàn cảnh của mình; lúc bấy giờ, ba thái độ có thể xảy ra:

Trước hết là nổi loạn. Chẳng hạn, chúng ta không chấp nhận con người mình; chúng ta nổi loạn chống lại Thiên Chúa, Đấng đã tác thành chúng ta; chống lại cuộc sống cho phép sự kiện này, sự kiện kia xảy đến; chống lại xã hội .v.v.. Quả thực, nổi loạn không phải luôn luôn tiêu cực - nó có thể là một phản ứng theo bản năng và cần thiết trong những hoàn cảnh cùng cực nào đó.

Như vậy, đó là một phản ứng lành mạnh miễn là chúng ta không đeo bám nó. Nổi loạn cũng có thể tích cực như sự từ khước một tình huống không thể chấp nhận được, một tình huống mà ai ai cũng hành động chống lại từ những động cơ chính đáng với những phương tiện hợp pháp và tương xứng. Tuy nhiên, điều chúng ta xem xét ở đây chính là: nổi loạn như là sự khước từ thực tại.

Thông thường, đó là phản ứng đầu tiên, tức thời của chúng ta trước khó khăn hay đau khổ nhưng nó không bao giờ giải quyết được điều gì. Tất cả những gì mà hình thức nổi loạn này mang lại là làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Đó là nguồn cội của thất vọng, bạo lực và nổi giận. Một loại chủ nghĩa lãng mạn văn chương tự do nào đó đã bênh vực tính nổi loạn, nhưng lẽ thường bảo cho chúng ta rằng, không gì cao cả hay tích cực đã từng được xây dựng trên nổi loạn như một sự khước từ thực tại, nó chỉ làm tăng thêm và nhân rộng cái sai lầm mà nó cố giải quyết.

Nổi loạn có thể kéo theo cam chịu. Chúng ta nhìn nhận rằng, không thể thay đổi hoàn cảnh hay không thể thay đổi chính mình và rốt cuộc chúng ta cam chịu. Cam chịu có thể biểu thị một mức độ tiến triển nào đó đàng sau cuộc nổi loạn theo nghĩa nó dẫn đến một lối tiếp cận ít gay gắt và thực tế hơn. Nhưng ngần ấy thì không đủ. Nó có thể là một đức hạnh đối với các triết gia nhưng không phải là một nhân đức theo Kitô giáo vì nó không bao hàm một niềm hy vọng. Cam chịu là lời tuyên bố về sự bất lực vốn không thể tiến xa hơn. Nó có thể là một giai đoạn cần thiết nhưng nếu dừng lại ở đó thì nó vẫn vô ích.

Thái độ phải hướng tới là bằng lòng. So với cam chịu, bằng lòng dẫn đến một thái độ nội tâm hoàn toàn khác. Chúng ta nói ‘vâng’ với một thực tại mà thoạt tiên được cho là tiêu cực bởi chúng ta nhận ra một điều gì đó tích cực có thể nảy sinh từ đó.

Điều này gợi lên niềm hy vọng. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói ‘vâng’ trước những gì làm nên chính mình bất chấp những khiếm khuyết của bản thân bởi chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương mình; chúng ta tin chắc Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu từ những thiếu sót của chúng ta. Chúng ta có thể nói ‘vâng’ trước những nguyên liệu thô thiển bần cùng và kém cỏi nhất của con người vì tin rằng, “Tình yêu thật mạnh mẽ trong mọi việc đến nỗi nó có thể rút ra điều lành từ mọi sự, cả điều tốt lẫn điều xấu mà nó tìm thấy trong tôi” như Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu thổ lộ.

Sự khác biệt tối hậu giữa cam chịu và bằng lòng là khi bằng lòng, thì dù thực tại khách quan vẫn là như nhau, thái độ tâm hồn chúng ta vẫn rất khác nhau. Có thể nói, chúng đã thai nghén các nhân đức tin, cậy, mến. Chẳng hạn, bằng lòng với những khuyết điểm thể lý của con người mình có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, Đấng tác thành chúng ta như con người chúng ta. Vì thế, hành động bằng lòng chứa đựng niềm tin vào Thiên Chúa, tín cẩn Người và vì thế yêu mến Người nữa, vì tin tưởng ai cũng là một cách yêu mến người đó. Do sự hiện diện của lòng tin, cậy, mến nên sự bằng lòng đạt được giá trị, tầm mức và sinh hoa kết quả thật lớn lao. Vì ở đâu có tin, cậy, mến, thì sự mở lòng ra với ân sủng của Thiên Chúa, chấp nhận thánh ân của Người và không sớm thì muộn, những hiệu quả tích cực của ân sủng sẽ được trao ban lúc cần thiết. Ở đâu ân sủng được đón nhận, nó sẽ không bao giờ trở nên vô hiệu nhưng trái lại, luôn hiệu quả một cách phi thường. -- Jacques Philippe, Tự Do Nội Tâm

Share:

Sự bình an không ai lấy mất được

“Con người không được tạo dựng để làm nô lệ, nhưng để làm chúa của thụ tạo”.

Chúng ta thường nghĩ khi không có kiềm chế này, hạn chế kia tôi sẽ tự do hơn. Nhiều người để thoát khỏi cảm giác của một cuộc đời chán nản vì không thoát nổi những ràng buộc của cuộc sống con người, lâm vào cảnh cuộc sống ngày càng tệ hơn do những chọn lựa sai lầm.

Là người Công giáo, chúng ta biết chuyện của các thánh, họ có thể sống trong tu viện, trong gông cùm tù đày của việc bị bách hại, nhưng vẫn có sự tự do tâm hồn. Câu chuyện của Etty Hillesum cho thấy tự do Chúa ban, bằng việc tìm thấy Thiên Chúa của sự bình an bên trong mình.

------------------

Chỉ khi mọi tự do bên ngoài của cô ngày này qua ngày khác bị lấy đi, cô mới khám phá trong mình niềm hạnh phúc và tự do nội tâm không ai có thể cướp mất được kể từ đó trở đi.

Một nhân chứng cho thời đại chúng ta, Etty Hillesum

Etty Hillesum, một thiếu nữ Do Thái chết tại Auschwitz tháng 11 năm 1943, và nhật ký của cô được xuất bản năm 1981. “Chuyện một tâm hồn” của cô mở ra ở Hà Lan vào lúc mà sự tàn sát người Do Thái của Phát xít diễn ra gay gắt nhất.

Khi Etty bắt đầu viết bài báo, thì đời sống đạo đức của cô không hề sáng sủa tí nào. Cô bị tổn thương tình cảm, không có những nguyên tắc luân lý cố định và trước đó đã có một vài tình nhân.

Tuy nhiên, cô bị thôi thúc bởi một khát khao mãnh liệt muốn biết sự thật về chính mình. Nhờ một trong những người bạn của cô, một nhà tâm lý và cũng là người Do Thái, cô khám phá (mà không công khai trở thành người Kitô hữu) một số giá trị cốt lõi của Kitô giáo như: cầu nguyện, sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng và lời Tin Mừng mời gọi cô tin tưởng phó mình cho Đấng Quan Phòng. Khi còn là tù nhân ở trại tị nạn Hà Lan trước khi bị chuyển đến Auschwitz, cô biểu lộ niềm tin vào Thiên Chúa, can đảm chịu đựng và hy sinh cho tha nhân. Tất cả điều đó chứng tỏ thực tại đời sống thiêng liêng của cô bất chấp bóng tối bao phủ đời mình.

Thật ngạc nhiên khi đọc cách thức thiếu nữ này hiến dâng chính mình để sống những giá trị Tin Mừng mà cô khám phá dần dần. Chỉ khi mọi tự do bên ngoài của cô ngày này qua ngày khác bị lấy đi, cô mới khám phá trong mình niềm hạnh phúc và tự do nội tâm không ai có thể cướp mất được kể từ đó trở đi. Đây là một đoạn rất ý nghĩa trong kinh nghiệm thiêng liêng của cô: Sáng nay tôi đạp xe dọc theo Station Quay, tận hưởng những con đường vòng rộng lớn của bầu trời ở ven thành phố, hít thở không khí trong lành, tự do. Khắp nơi nhan nhản những biển báo ngăn chặn người Do Thái đến những con đường và vùng quê rộng mở. Nhưng phía trên những con đường chật hẹp đó vẫn còn cho chúng tôi những bầu trời vươn rộng không tỳ tích. Họ không thể làm gì chúng tôi, thật sự họ không thể. Họ có thể quấy rầy chúng tôi, họ có thể cướp đi của cải vật chất, tự do đi lại của chúng tôi, nhưng chính chúng tôi lại đánh mất những tài sản lớn nhất của bản thân bằng sự khúm núm dại dột của mình, bằng chính cảm giác mình bị tra tấn, làm nhục và đàn áp; bằng sự thù hằn của chúng tôi; bằng vẻ vênh váo che giấu nỗi sợ của mình. Dĩ nhiên chúng tôi có thể buồn và thất vọng trước những gì họ đã làm cho mình; điều đó hoàn toàn là con người và dễ hiểu thôi. Tuy nhiên, tổn thương nghiêm trọng nhất vẫn là tổn thương mà chúng tôi gây ra cho chính mình. Tôi thấy cuộc sống tươi đẹp, tôi tự do. Bầu trời trong tôi bát ngát như bầu trời đang giang rộng trên đầu tôi. Tôi tin vào Chúa và tôi tin vào con người, tôi nói thế mà không bối rối. Cuộc sống thật khắc nghiệt, nhưng đó không phải là điều tồi tệ. Nếu ta bắt đầu bằng cách đề cao tầm quan trọng của mình, thì phần còn lại cũng thế. Không phải chủ nghĩa cá nhân thiếu lành mạnh tác động đến ta. Bình an đích thực sẽ chỉ đến khi mỗi cá nhân tìm thấy bình an trong chính mình; khi chúng ta đánh bại tất cả và biến nỗi thù hằn đồng loại dù họ thuộc sắc tộc nào - thậm chí thành tình yêu một ngày nào đó, dù có lẽ điều đó đòi hỏi quá nhiều.

Tuy nhiên, đó là giải pháp duy nhất. Tôi là người hạnh phúc và tôi thực sự yêu mến cuộc đời, trong năm của Chúa 1942, năm chiến tranh không biết lần thứ mấy. – Jacques Philippe, Tự Do Nội Tâm

Share:

Thứ Bảy, 1 tháng 2, 2025

Chúa Giêsu, Vị Thượng Tế nhân từ

Trước hết, Chúa chúng ta phải là một con người. Ngài phải giống chúng ta để có thể chia sẻ trong nhân tính của chúng ta. Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta. Nhưng đồng thời, dù Chúa Giêsu là một con người hoàn hảo, Ngài không thể là một con người tội lỗi. Ngài phải là một con người không hề vướng mắc tội lỗi. Ngài phải đứng ngoài dòng chảy khủng khiếp của tội lỗi đã truyền sang và làm ô nhiễm toàn thể nhân loại.

Bạn có nhìn thấy vấn đề không? Ngài phải là một con người; nhưng đồng thời, Ngài cũng phải khác với tất cả những con người khác ở chỗ Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, là Ađam mới và vô nhiễm tội lỗi.

Vấn đề này có thể được ví như một con tàu. Hãy tưởng tượng một con tàu đang lướt trên một vùng biển rất ô nhiễm và dơ bẩn. Nó muốn tiến vào một vùng biển hoặc một cái hồ gần đó, nơi nước trong suốt và tinh khiết. Rõ ràng cần phải có một ranh giới nào đó giữa dòng nước dơ bẩn và dòng nước tinh khiết, nếu không, cả hai sẽ hòa lẫn vào nhau. Vậy điều gì sẽ xảy ra? Thường thì người ta sẽ xây một cửa cống. Con tàu đi qua dòng nước dơ bẩn, rồi tiến vào cửa cống, nơi mà những dòng nước bẩn hoàn toàn bị tách ra khỏi nó, và cuối cùng, con tàu được nâng lên và tiến vào vùng nước trong lành.

Chúa chúng ta phải liên kết với nhân loại tội lỗi đã đi trước, liên kết theo nghĩa rằng Ngài sẽ là một con người. Ngài phải vô nhiễm tội lỗi để chính Ngài không cần được cứu chuộc, nhưng trở thành Đấng Cứu Chuộc chúng ta. Chúa chúng ta đã được nâng lên khỏi dòng chảy tội lỗi của nhân loại và trở thành thủ lãnh mới của dòng dõi loài người qua việc được sinh ra bởi người trinh nữ.

Hãy suy nghĩ về ứng dụng tuyệt đẹp của điều này đối với tất cả chúng ta. Mẹ Chí Thánh là nguồn cảm hứng của mọi người. Một người mẹ là đấng bảo trợ của bậc trinh khiết, và người trinh khiết là nguồn cảm hứng của tình mẫu tử. Nếu không có các bà mẹ, sẽ không có những trinh nữ trong thế hệ kế tiếp, và nếu không có những trinh nữ, các bà mẹ sẽ quên đi lý tưởng cao cả vươn xa khỏi trần thế.

Bao nhiêu lần khi thăm một gia đình, bạn nghe người ta nói: “Ồ, đứa bé trông giống hệt cha nó.” Nếu chúng ta nhìn Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nói: “Ngài trông giống hệt Mẹ Ngài.” Ngài nhận được từ Cha Ngài thiên tính. Nhưng Ngài cũng nhận được từ Mẹ Ngài một nhân tính vô nhiễm tội lỗi. Đó là lý do chúng ta yêu mến Mẹ Maria. Kính mừng Maria đầy ơn phúc! -- ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive