Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Giao phó cho Chúa, để Chúa thánh hóa những ẩn giấu trong tầng hầm của tâm hồn

Ba điều kiện cho bất kỳ tội lỗi nào là: thứ nhất, bản chất của hành động phải là vấn đề đạo đức điều tốt hay điều xấu; thứ hai, chúng ta phải có kiến ​​thức về điều đó; và thứ ba, nó phải được thực hiện theo sự lựa chọn hoặc đồng ý tự do của chúng ta. Ba điều kiện cho một tội trọng, không chỉ làm suy yếu mà còn hủy hoại sự sống vĩnh cửu trong tâm hồn, là: thứ nhất, một vấn đề đạo đức “nghiêm trọng” hoặc rất nghiêm trọng; thứ hai, hiểu rõ rằng đó là điều xấu; và thứ ba, hoàn toàn tự do lựa chọn hoặc đồng ý.

Điều kiện thứ hai trong ba điều kiện này, hiểu biết, ngụ ý rằng nhiều thói quen tội lỗi, tệ nạn hoặc lỗi lầm là không được biết đến, bị ẩn giấu, nằm trong tiềm thức. Tất cả chúng ta đều rất khéo léo trong việc che giấu bản thân và lừa dối chính mình. Ví dụ, những người Pha-ri-sêu là những tội nhân nghiêm trọng, kiêu ngạo, tự phụ và tự cho mình là đúng, nhưng họ không biết điều đó; trên thực tế, họ nghĩ rằng họ là thánh nhân!

Những tội nhân lớn thường nghĩ rằng họ là thánh nhân, trong khi các thánh nhân luôn biết rằng họ là tội nhân. Tương tự như vậy, nhiều kẻ ngốc nghĩ rằng họ khôn ngoan, nhưng tất cả những người khôn ngoan đều biết rằng họ là kẻ ngốc. Nhiều người kiêu ngạo nghĩ rằng họ khiêm nhường, và họ tự hào về sự khiêm nhường của mình; nhưng tất cả những ai khiêm nhường đều biết rằng họ có tội kiêu ngạo.

Không cần Sigmund Freud để chúng ta có thể biết rằng hầu hết những gì diễn ra trong tâm hồn chúng ta là tiềm thức, không phải là luôn ý thức được. Người viết Thánh vịnh cũng biết điều đó. Và do đó, người ấy cầu nguyện, bằng tâm trí và ý chí có ý thức của mình, rằng Chúa sẽ làm sạch bụi bẩn và bóng tối trong tâm trí và ý chí vô thức của ông: "Xin hãy rửa sạch con khỏi những lỗi lầm con không hề biết đến”. Xin hãy quét sạch tầng hầm trong tâm hồn con.

Chúng ta không có kiến ​​thức trực tiếp hoặc không thể tiếp cận được tầng hầm đó, tầng ẩn giấu của tâm hồn và tính cách của chúng ta. Vì nó ẩn giấu hoặc vô danh có nghĩa là nó không được biết đến. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta không nên cầu nguyện về nó. Ngược lại, chúng ta càng cần phải cầu nguyện về những sự ẩn giấu nhưng chúng ta không biết đến. Nhưng Chúa biết nó, và có thể tiếp cận nó, và tác động vào nó, giống như mặt trời tác động vào sương mù lúc bình minh để dần dần nhưng không thể cưỡng lại được xua tan nó, hoặc như nhiệt tác động vào băng để làm tan băng, hoặc như thủy triều tác động vào cát để tưới nước cho nó.

Vậy hãy cầu nguyện với Chúa, Đấng điều khiển ánh sáng của mặt trời và cả ánh sáng của Con Một của Người. Hãy cầu nguyện với Chúa, Đấng kiểm soát sức nóng của mặt trời và sức nóng của tình yêu của Người, tức là Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa, Đấng điểu khiển sức mạnh của thủy triều biển cả và thủy triều của trái tim con người, và thủy triều của dòng nước tâm linh của ân sủng Người.

Chúa là nguyên nhân đầu tiên của mọi điều tốt lành; và mặc dù chúng ta phải chủ động cầu xin điều tốt lành và hợp tác với ân sủng Chúa, chứ không chỉ thụ động chờ đợi, nhưng sự thật là chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng của Chúa ở mọi nơi trong cuộc sống của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực tiềm thức này, lĩnh vực mà có những tội lỗi ẩn giấu và những lỗi lầm chưa biết. Chúng ta nên phó thác khu vực đen tối này cho Chúa mỗi ngày. Ngài đang chờ đợi sự cho phép của chúng ta để mở cửa hầm tâm hồn của chúng ta, để ánh sáng của Ngài chiếu vào bóng tối của chúng ta. Ngài sẽ làm sạch, thường là chậm rãi và dần dần như thủy triều, tầng hầm ẩn giấu của chúng ta. Bất cứ nơi nào Ngài được mời vào, Người sẽ vào, và bất cứ nơi nào Ngài vào, ánh sáng và niềm vui cũng sẽ vào cùng với Ngài.

Một trong những lý do để cầu nguyện ngay trước khi ngủ, mặc dù tâm trí chúng ta ít tỉnh táo và buồn ngủ hơn so với những thời điểm khác, là để giao phó cho Chúa đêm tối của tâm hồn chúng ta, vào buổi tối trở nên thụ động, dễ bị tổn thương và không có khả năng tự vệ khi chúng ta ngủ -- không có khả năng tự vệ trước cả những thần khí xấu xa của ma quỷ và cả với các thiên thần tốt của Chúa; họ mạnh mẽ hơn loài người rất nhiều. Brother Lawrence, trong cuốn The Practice of the Presence of God / Tập luôn sống trong sự hiện diện của Chúa, nói rằng “những ai có luồng gió của Chúa Thánh Thần sẽ tiến về phía trước ngay cả khi đang ngủ”. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B)

Share:

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2024

Những lợi ích của việc đọc Kinh Mân Côi

Bởi vì lời Kinh Kính mừng được đọc nhiều lần trong chuỗi Mân Côi, đừng nghĩ đó là một sự lặp lại vô ích.  Vì mỗi lần kinh này được đọc trong một khung cảnh hoặc bối cảnh khác nhau, chẳng hạn như khi đọc kinh ấy khi suy niệm Mầu Nhiệm Năm Sự Vui, Năm Sự Thương, Năm Sự Sáng, Năm Sự Mừng.  Khi bạn còn nhỏ, bạn đã chẳng bao giờ nghĩ lời “con yêu mẹ”, có cùng ý nghĩa như bạn vừa nói xong lời đó. Vì bối cảnh của tình cảm đã thay đổi nên sự khẳng định của nó cũng mới. Vẫn là mặt trời mọc vào mỗi buổi sáng, nhưng nó tạo nên một ngày mới.

Một số lợi ích của chuỗi Mân Côi:

1. Nếu bạn sốt sắng lần chuỗi Mân Côi, và đem lời kinh vào mỗi ngày trong cuộc sống bạn, bạn sẽ không bao giờ đánh mất linh hồn của mình.

2. Nếu bạn ước mong có sự bình an trong tâm hồn và trong gia đình bạn, và lãnh nhận nhiều hồng ân từ trời cao, thì mỗi tối hãy tập trung lại và lần chuỗi Mân Côi.

3. Nếu bạn đang lo lắng về việc đưa một linh hồn trở về với Chúa, để họ biết tình yêu và sự sống của Chúa, hãy dạy người đó lần hạt Mân Côi. Người đó hoặc sẽ ngừng lần chuỗi Mân Côi hoặc sẽ nhận được ơn Đức tin.

4. Nếu chúng ta có đủ quân số lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, thì giờ đây, cũng như Mẹ đã xảy ra trong quá khứ, Mẹ sẽ xin được từ Con Chí Thánh của Mẹ dập tắt những cơn bão tố hiện tại, đánh bại kẻ thù của nền văn minh nhân loại và một nền hòa bình thực sự trong trái tim của nhân loại yếu đuối và lạc lối.

5. Nếu lòng bác ái của bạn nguội lạnh khiến bạn buồn sầu từ nội tâm và hay chỉ trích người khác, thì chuỗi Mân Côi, qua việc suy niệm về Tình yêu cao cả Chúa dành cho bạn trên Thập giá và tình yêu của Mẹ Maria dành cho bạn trên đồi Canvê, sẽ thắp lại tình yêu của bạn đối với Chúa và người lân cận và khôi phục lại cho bạn sự bình yên vượt quá mọi sự hiểu biết.

Đừng nghĩ rằng khi tôn vinh Đức Mẹ bằng chuỗi Mân Côi, bạn đang bỏ bê Chúa của chúng ta. Bạn đã bao giờ biết ai phớt lờ bạn, bằng cách đối xử tốt với mẹ bạn chưa? Nếu Chúa của chúng ta đã nói với bạn “Đây là Mẹ của con,” thì chúng ta có trách nhiệm phải tôn trọng Người Mẹ mà Thiên Chúa đã chọn trên hết mọi thụ tạo. Dù thế nào đi nữa, hãy nhớ dù bạn muốn chỉ muốn đến với Mẹ và ngừng ở đó, Mẹ sẽ không để bạn ngừng với Mẹ thôi đâu. Như nhà thơ Francis Thompson đã nói:

Tên Cám dỗ từ trời ra tay,
Hết thảy nhân loại phúc thật phủi tay;
Với những lời dịu ngọt thánh thiêng
Và đôi mắt quyến rũ của Mẹ,
Xin lôi cuốn chúng con trở về lại với Thiên đàng.

Chuyển ngữ từ Seven Words of Jesus and Mary by Fulton J. Sheen

Share:

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2024

Tôn vinh Đức Mẹ Maria và thờ phượng Chúa

Chuyển ngữ từ Jesus and the Jewish Roots of Mary: Unveiling the Mother of the Messiah của Dr. Brant Pitre

Điểm thứ ba và cuối cùng, các Kitô hữu thời cổ xưa tôn vinh Đức Mẹ Maria và cầu xin sự chuyển cầu của Mẹ đã không “tôn thờ” Mẹ như thể Mẹ là Chúa. Thật vậy, chính những Kitô hữu ấy tôn vinh Mẹ với danh hiệu “Mẹ Thiên Chúa” cũng hoàn toàn bác bỏ ý tưởng thờ phượng Mẹ Maria và coi đó là một sự báng bổ và thờ ngẫu tượng.57

Ví dụ rõ ràng nhất về điều này đến từ nhà văn Kitô giáo thời cổ đại, Epiphanius xứ Salamis. Vào cuối cuốn sách khổng lồ chống lại tà giáo của mình, Epiphanius lên án một giáo phái cổ xưa vì họ thờ phượng Đức Maria như thể Mẹ là một vị thần.58 Ông gọi nhóm này là Collyridians, vì họ thờ phượng Đức Maria qua việc dâng “ổ bánh” hy lễ (tiếng Hy Lạp là kollyra) làm bánh tạ ơn cho Đức Maria.59 Sau đây là lời của chính Epiphanius:

Họ nói rằng một số phụ nữ Thracia tại Ả Rập… nướng một ổ bánh nhân danh Đức Nữ trọn đời đồng trinh [Đức Maria], họ tụ tập lại, và làm hai điều quá đáng và thực hiện một hành động bị ngăn cấm, phạm thượng nhân danh Đức Trinh Nữ thánh thiện, và dâng lễ vật nhân danh bà với những người chủ lễ là phụ nữ. Điều này hoàn toàn vô đạo đức, bất hợp pháp và khác với lời của Chúa Thánh Thần, và do đó là công việc thuần túy của ma quỷ, và là học thuyết của một linh hồn ô uế… Đức Maria phải được tôn vinh, nhưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phải được tôn thờ; không ai được tôn thờ Đức Maria. Không có lệnh truyền nào bắt buộc phải dâng hy tế tạ ơn ngay cả cho một người đàn ông, như thể dâng cho Chúa, chứ đừng nói đến một người phụ nữ; ngay cả các thiên thần cũng không được phép lãnh nhân vinh quang đó… Những người phụ nữ như vậy cần được Giê-rê-mi-a làm họ câm miệng, không gây hãi hùng cho thế giới. Họ không được nói, “Chúng ta nhào bột làm bánh dâng Thiên Nữ Hoàng (Jeremiah 7:18)”… Đức Maria phải được tôn vinh, nhưng Chúa phải được tôn thờ! (Epiphanius, Panarion 78.23, 4; 79.7, 5; 8, 3; 9, 4 [thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên])60

Lưu ý ở đây Epiphanius không chỉ lên án “việc tôn thờ” (tiếng Hy Lạp proskyneō) Mary của những người Collyridians là tà giáo và thờ ngẫu tượng. Ông thậm chí còn sử dụng đoạn văn của tiên tri Giê-rê-mi-a về “Thiên Nữ Hoàng” – cùng một đoạn văn mà mục sư Báp-tít của vợ tôi đã sử dụng nhiều năm trước – để mô tả những gì họ đang làm! Cùng lúc, Epiphanius cũng khăng khăng rằng Đức Maria phải được “tôn vinh” (tiếng Hy Lạp là timē).

Sự khác biệt giữa “tôn vinh” và “thờ phượng” là gì? Trong ngữ cảnh, câu trả lời rất rõ ràng: việc dâng hy tế. Trong cả Do Thái giáo cổ đại và Kitô giáo cổ đại – thật vậy, trong hầu hết các tôn giáo cổ đại – bản chất của việc thờ phượng là hy lễ. Chắc chắn, việc thể hiện các dấu hiệu tôn vinh (như quỳ gối hoặc phủ phục), cầu xin sự giúp đỡ hoặc cầu bầu (trong lời cầu nguyện) và ca ngợi (thường là qua các bài hát) là những phần tiêu chuẩn của việc thờ phượng. Tuy nhiên, bạn cũng có thể làm bất kỳ điều nào trong số những điều đó – tôn vinh, cầu xin, ca ngợi – đối với con người. (Hãy nghĩ đến những vinh dự dành cho một vị vua loài người.) Hành động duy nhất dành riêng cho Chúa – và chỉ mình Chúa – là dâng hy tế (offering sacrifice). Do đó, đối với Epiphanius, những người Collyridians đã phạm tội thờ ngẫu tượng khi dâng bánh hy tế của Lễ Tạ ơn cho Đức Maria.

Với những điều đã nói, tôi phải nhấn mạnh ở đây bằng những từ ngữ mạnh mẽ nhất có thể nói: [thờ phượng Đức Maria], đây chính xác là điều mà những người Công giáo và Chính thống giáo không làm. Họ không dâng hy tế cho Đức Maria; họ không dâng Lễ Tạ ơn (hy tế là Thánh Lễ) cho ngài. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa lòng tôn kính Đức Maria của Kitô hữu và lòng tôn thờ Thiên Chúa của họ. Theo lời của Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo:

Do đó Đức Trinh Nữ đáng được Hội Thánh tôn vinh bằng một sự sùng kính đặc biệt. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó... Sự tôn kính ấy… tự bản chất vẫn khác biệt với sự thờ phượng dâng lên Ngôi Lời nhập thể, lên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; việc tôn kính Đức Ma-ri-a khuyến khích thêm việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi.” – GLCG 971

Theo tôi, việc không phân biệt được giữa việc tôn vinh một con người (có thể bao gồm các dấu hiệu tôn kính và thậm chí là các bài hát ca ngợi) và việc tôn thờ Chúa (bao gồm việc dâng hy tế) là một trong những lý do chính khiến những người theo các nhóm Tin lành thường đánh đồng việc tôn kính Đức Maria của Công giáo với việc thờ ngẫu tượng. Trong các nhóm Tin lành truyền thống, việc thờ phượng chủ yếu tập trung vào việc tôn vinh: cầu nguyện và các bài hát ca ngợi.62 Vì Tin Lành không có chức tư tế (linh mục của Công giáo), và do đó không có hy tế. Tuy nhiên, đối với những người theo đạo Công giáo và Chính thống giáo, việc thờ phượng chủ yếu bao gồm việc dâng Thánh lễ.63 Và Thánh lễ luôn chỉ được dâng lên cho Chúa mà thôi. Từ thời xa xưa, người Kitô hữu đã nhận ra sự khác biệt cơ bản giữa lòng sùng kính dành cho Đức Mẹ và sự tôn thờ dành cho Chúa. Kitô hữu từ lâu đã tôn vinh Đức Maria là nữ hoàng “Mẹ Thiên Chúa”, nhưng họ không tôn thờ Mẹ như Chúa.64

Với điều này trong tâm trí, cuối cùng chúng ta có thể chuyển sang một niềm tin gây tranh cãi khác: ý tưởng rằng Đức Mẹ không chỉ thụ thai Chúa Giêsu khi còn là một trinh nữ mà còn là một trinh nữ trong suốt quãng đời còn lại.

57. See Shoemaker, “Marian Liturgies and Devotion in Early Christianity,” 132–34.
58. For arguments in favor of the historicity of the Collyridians, see Shoemaker, “Marian Liturgies and Devotion in Early Christianity,” 132, 137. I would add that Ambrose of Milan also insists that “no one” give the adoration due to the Holy Spirit “to the Virgin Mary,” for “Mary was the temple of God, not the God of the temple” (Ambrose, On the Holy Spirit, 3.11.80). The most plausible explanation for both Epiphanius and Ambrose denouncing the worship of Mary is that some people in the fourth century were actually doing it. See Schaff, NPNF2, 10:146.
59. Gambero, Mary and the Fathers of the Church, 122.
60. Translation in Williams, The Panarion of Epiphanius, 643–45.
61. Here the Catechism of the Catholic Church is quoting from Vatican II, Dogmatic Constitution on the Church, Lumen Gentium, no. 66.
62. See, e.g., James F. White, Protestant Worship: Traditions in Transition (Louisville: Westminster John Knox, 1989); Geoffrey Wainwright, Doxology: The Praise of God in Worship, Doctrine, and Life (New York: Oxford University Press, 1980).
63. It is important to stress that when the Catholic Church refers to the Eucharist as a sacrifice, it does not mean that Christ is being “resacrificed.” Instead, the one sacrifice of Calvary is made present. In the words of the Catechism of the Catholic Church: “When the Church celebrates the Eucharist, she commemorates Christ’s Passover, and it is made present: the sacrifice Christ offered once for all on the cross remains ever present” (CCC 1364). On the sacrificial character of Jesus’ actions at the Last Supper, see Brant Pitre, Jesus and the Last Supper (Grand Rapids: Eerdmans, 2015), 90–147, 403–43. For an Eastern Orthodox perspective, see McGuckin, The Orthodox Church, 288–95.
64. In the words of John Paul II: “There is an infinite distance between Marian veneration and worship of the Trinity and the incarnate Word.” For further discussion of the difference between veneration and worship, see John Paul II, Theotókos, 244–54 (here 248–49); Paul VI, Apostolic Exhortation for the Right Ordering and Development of Devotion to the Blessed Virgin Mary (Marialis Cultus, Feburary 2, 1974), available at www.vatican.va. Regarding Eastern Orthodox veneration of Mary, see McGuckin, The Orthodox Church, 210–11.

Share:

Đức Maria, Evà Mới

Khi lật sang các trang của Tân Ước, chúng ta thấy Đức Maria được miêu tả theo cách tương tự như bức chân dung trong Kinh thánh về Evà và “người đàn bà” bí ẩn của sách Sáng thế 3:15. Điều này xảy ra trong hai sách: Phúc âm thánh Gioan và sách Khải huyền. Chúng ta hãy dành một chút thời gian để xem xét kỹ lưỡng từng sách.

Tiệc cưới ở Cana và “Người đàn bà” trong sách Sáng thế

Trong Phúc âm thánh Gioan, Đức Maria xuất hiện hai lần: một lần trong đám cưới ở Cana (Gioan 2:1–12), và một lần trong khi Chúa Giêsu bị đóng đinh (Gioan 19:25–27). Khi hai đoạn này được đọc song song theo quan điểm của Do Thái giáo cổ đại về Adam và Evà, chúng tiết lộ manh mối rằng Đức Maria là “người đàn bà” của sách Sáng thế và “dòng dõi” bà sẽ chiến thắng con rắn (Sáng thế 3:15). Chúng ta hãy bắt đầu với tiệc cưới ở Cana:

Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giêsu. Đức Giêsu và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người: “Họ hết rượu rồi.” Đức Giêsu đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi ? Giờ của tôi chưa đến.” Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giêsu bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: “Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại  và nói: “Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ.”  Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. (Gioan 2:1-11)

Cho mục đích của chúng ta ở đây, có hai câu hỏi đòi hỏi sự chú ý của chúng ta. Tại sao Phúc âm nhấn mạnh rằng tiệc cưới tại Cana diễn ra vào “ngày thứ ba” (Gioan 2:1)? Và tại sao Chúa Giêsu gọi Đức Maria là “bà” (tiếng Hy Lạp gynē) (Gioan 2:4)? Chúng ta không có ví dụ nào khác về một người đàn ông Do Thái giáo xưng hô mẹ mình theo cách này.

Thoạt nhìn, việc Gioan nhắc đến “ngày thứ ba” (Gioan 2:1) có vẻ chỉ là thông tin theo trình tự thời gian. Tuy nhiên, khi đọc dưới góc độ toàn bộ chương, thì có vẻ như đó là một phần của một loạt các ám chỉ đến sách Sáng thế. Ví dụ, hãy xem xét hàng chữ  đầu tiên của Phúc âm thánh Gioan:

Sách Sáng thế bắt đầu với câu chuyện nổi tiếng về bảy “ngày” sáng tạo, Phúc âm thánh Gioan bắt đầu với bảy “ngày” đầu tiên trong chức vụ công khai của Chúa Giêsu:

Bảy ngày của Sáng tạo mới

NGÀY 1 Chứng ngôn của Gioan Tẩy giả (Gioan 1:19)
NGÀY 2 “Ngày hôm sau” (Gioan 1:29) – Chúa Giêsu chịu phép rửa
NGÀY 3 “Ngày hôm sau” (Gioan 1:35) – Chúa Giêsu gặp An-rê và Phêrô
NGÀY 4 “Ngày hôm sau” (Gioan 1:43) – Chúa Giêsu gặp Phi-líp-phê và Na-tha-na-en
NGÀY 7 “Ngày thứ ba” [đếm từ ngày 4] (Gioan 2:1) – tiệc cưới tại Cana

Lưu ý ở đây cách các học giả đưa ra con số bảy ngày là bằng việc giải thích ám chỉ của thánh Gioan theo trình tự và công thêm bốn ngày đầu tiên vào “ngày thứ ba” (4 Ngày + 3 Ngày = 7 Ngày). Dựa trên những điểm tương đồng như vậy, cả các nhà chú giải Kinh Thánh Tin lành và Công giáo đều kết luận rằng Phúc âm thánh Gioan đang mô phỏng bảy ngày đầu tiên trong sứ vụ của Chúa Giêsu dựa theo tuần đầu tiên của sự sáng tạo trong Sáng thế.23 Gioan đang mô tả Chúa Giêsu là một Adam mới, người có sứ vụ công khai là khởi đầu của “một sự sáng tạo mới".

Nếu cách giải thích này là đúng, thì nó cung cấp một lời giải thích hữu ích cho lý do tại sao Chúa Giêsu gọi mẹ mình là “bà” (tiếng Hy Lạp gynē) (Gioan 2: 4). Trái ngược với những gì một số người đọc nghĩ, Chúa Giêsu không hề bày tỏ sự thiếu tôn trọng đối với Đức Maria. Như một học giả Tin lành đã nhấn mạnh một cách đúng đắn: “Tuy nhiên, bản dịch gynē thành ‘bà’ không có nghĩa... thô lỗ hay thù địch từ phía Chúa Giêsu”.24 Trái lại, lời giải thích hợp lý nhất là Chúa Giêsu đang ám chỉ Đức Maria là người “đàn bà” trong Sáng thế 3:15. Theo lời của Raymond Brown, trong lời chú giải có ảnh hưởng mạnh mẽ của ông đối với Phúc âm Gioan: “Gioan nghĩ về Đức Maria trong bối cảnh của Sáng thế chương 3… Đức Maria là Evà Mới.”25 Để ủng hộ cho cách giải thích này, điều quan trọng cần nhớ là trong sách Sáng thế, Evà chỉ được gọi là “Evà” một lần; bà được gọi là “người đàn bà” mười một lần.26 Vì vậy, giống như Evà đầu tiên mời Adam đầu tiên phạm tội lần đầu tiên, thì bây giờ Đức Maria mời Chúa Giêsu thực hiện “dấu hiệu” đầu tiên của mình.

Mối liên hệ giữa Đức Maria và Evà thậm chí còn mạnh mẽ hơn trong lời tường thuật của Gioan về sự đóng đinh và cái chết của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, để thấy rõ điều này, chúng ta cần ghi nhớ hai điểm. Đầu tiên, trong Phúc âm Gioan, Chúa Giêsu mô tả cái chết của mình trên thập tự giá là giờ mà Ma quỷ sẽ bị đánh bại:

“Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.” (Gioan 12:31–33)

Thứ hai, vào đúng giờ mà Ma quỷ cuối cùng đã bị đánh bại, Chúa Giêsu một lần nữa gọi mẹ mình là “Bà”:

Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Gioan 19:25–27)

Với mảnh ghép cuối cùng này của câu đố, sự tương đồng giữa Evà và Đức Maria trong Phúc âm Gioan đã hoàn tất:

 

Dựa trên những điểm tương đồng như vậy, chúng ta có lý do chính đáng để kết luận rằng trong Phúc âm thánh Gioan, mẹ của Chúa Giêsu không phải là một người phụ nữ bình thường. Theo lời của học giả Tân Ước John Dominic Crossan: “Ngụ ý trong danh hiệu ‘đàn bà’ là số phận trọn vẹn của Đức Maria là ‘người đàn bà” của sách Sáng thế 3:15.”27

Chuyển ngữ từ Jesus and the Jewish Roots of Mary: Unveiling the Mother of the Messiah của Dr. Brant Pitre

23. See Richard Bauckham, Gospel of Glory: Major Themes in Johannine Theology (Grand Rapids: Baker Academic, 2015), 132–35; Francis Martin and William M. Wright IV, The Gospel of John (Grand Rapids: Baker Academic, 2015), 42–61; John F. McHugh, John 1–4 (International Critical Commentary; London: Bloomsbury T. & T. Clark, 2014), 176–77.
24.Beverly Gaventa, Mary: Glimpses of the Mother of Jesus (Minneapolis: Fortress, 1999), 85. So too McKnight, The Real Mary, 66: “For Jesus to have used the word woman for his mother at the Wedding at Cana was neither impolite nor rude.”
25. Raymond E. Brown, The Gospel according to John (2 vols.; Anchor Bible 29–29A; New York: Doubleday, 1965, 1970), 1:109 (slightly adapted; emphasis added).
26. See Genesis 2:22, 23; 3:1, 2, 4, 6, 12, 13 (2x), 15, 16.
27.John Dominic Crossan, The Gospel of Eternal Life: Reflections on the Theology of St. John (Milwaukee: The Bruce, 1967), 57 (emphasis added). So too Brown, The Gospel according to John, 2:926: “Jesus’ mother is the New Eve.”

 

Share:

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024

Về buôn chuyện

Bài đọc 1 của Chúa Nhật thứ 25 Mùa Thường niên, năm B

Phường vô đạo lên tiếng nói: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm. --Kn 2:12; 17-20

------

Sách Khôn Ngoan của Sa-lô-môn được viết trước khi Chúa Kitô ra đời, vì vậy tác giả của nó không biết chính xác những lời của ông sẽ áp dụng hoàn hảo như thế nào vào cuộc chiến tâm linh giữa Chúa Kitô và Satan… Kẻ gian ác luôn thích làm hư hỏng người công chính vì nếu họ thành công, điều đó sẽ cho họ một cái cớ và một lý do để biện minh cho việc làm gian ác ấy. Họ nói: “Thấy không? Cái tên thánh nhân này thực sự giống như chúng ta, một tội nhân. Nếu chúng ta có thể làm cho nó trông không tốt lành hơn chúng ta, thì điều đó có nghĩa là chúng ta không tệ hơn nó”.

Ngoài ra, còn có một sự đố kỵ tiềm ẩn trong ước muốn làm người công chính nên đồi bại, và họ luôn cảm thấy rất vui khi nhìn thấy sự gian ác hoặc thậm chí là yếu đuối nơi người công chính. Kẻ gian ác có niềm vui lệch lạc khi nhìn thấy sự gian ác của người khác và nỗi đau khi nhìn thấy sự công chính của người khác. Ngược lại, người công chính có được niềm vui thực sự khi nhìn thấy sự công chính của người khác và nỗi đau thực sự khi nhìn thấy tội lỗi của người khác.

Đây là lý do tại sao việc ngồi lê đôi mách là một tội nghiêm trọng hơn nhiều so với những gì chúng ta thường nghĩ: bởi vì nó bộc lộ mong muốn vạch trần và truyền bá tin xấu về việc những người được cho là công chính thật ra gian ác như thế nào.

Ngồi lê đôi mách có hại không chỉ vì nó gây hại cho những người bị gièm pha, mà còn vì sự ham muốn hạ thấp lòng tốt của người khác một nấc, niềm vui tiềm ẩn trong việc lan truyền tin xấu về sự gian ác của người khác, là một căn bệnh nghiêm trọng trong tâm hồn của người ngồi lê đôi mách. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B)

Share:

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2024

Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? - Chúa Nhật thứ XXV Mùa Thường niên, năm B

Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ (Gc 3,16-4,3)

Anh em thân mến, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.

Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.

 

Thật dễ để mỗi người chúng ta trở nên tối tăm và trở thành kẻ bách hại người công chính! Ở đây thánh Giacôbê đưa lời cảnh bảo để giúp chúng ta không quay trở về con đường tội lỗi trước đây. Xung đột và sự thiếu bình an trong tâm hồn và trong cộng đoàn của chúng ta thường bắt nguồn từ những gì thánh Giacôbê gọi là “đam mê” của chúng ta. Theo truyền thống, những “đam mê” này được tóm tắt trong công thức ba phần từ 1 John 2:16: “dục vọng của xác thịt, dục vọng của mắt và kiêu ngạo về cuộc sống vật chất”. Dục vọng của xác thịt bao gồm những ham muốn của chúng ta đối với khoái lạc thể xác: tình dục, thức ăn dư thừa, ma túy, sự thoải mái về thể xác, v.v. Dục vọng  của mắt bao gồm lòng tham hoặc tính hám lợi: ham muốn có được sự giàu có và những thứ đẹp đẽ. Sự kiêu ngạo của cuộc sống là sự tự tôn: ham muốn được biết đến, tôn trọng và thậm chí có thể là sợ hãi, ngưỡng mộ và được vâng lời.

Người Kitô hữu phải từ bỏ thứ đồ thải đi (junk) đó. Bao lâu chúng ta sống vì khoái lạc, lợi nhuận và kiêu ngạo, thì chúng ta không thực sự theo Chúa Kitô. Điều này liên quan đến việc chết đối với bản thân. Hàng ngày, chúng ta phải chấp nhận cái chết của chính mình, bởi vì bất kỳ ngày nào, việc theo đuổi con đường tình yêu cũng có thể bao gồm việc từ bỏ bản thân, thậm chí đến mức phải chết, và chúng ta phải sẵn sàng hy sinh nếu cần thiết.

------------

Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su không muốn cho ai biết, vì Người đang dạy các môn đệ rằng : “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ không dám hỏi lại Người...
Mác-cô 9:31-3
7

Chúa Giêsu trong bài đọc hôm nay không dạy các môn đồ bằng dụ ngôn hay ẩn dụ, nhưng bằng ngôn ngữ trực tiếp, Người mô tả cách Người sẽ chịu đau khổ và chết. Thế nhưng, các tông đồ “không hiểu lời nói đó”. Thật trớ trêu! Chúa Giêsu làm sao có thể rõ ràng hơn nữa? Nhưng họ vẫn không “hiểu”. Thì cũng như trong một lớp học, không ai muốn giơ tay phát biểu khi không hiểu, vì vậy không ai dám hỏi Chúa Giêsu ý Người là gì. Tất cả chỉ gật đầu đồng ý và tiếp tục lắng nghe.

Trong khi đó, trên đường trở về Capernaum, các môn đồ đang tham gia vào một cuộc tranh luận về “kiêu ngạo về cuộc sống vật chất” (1 John 2:16) -- sự tự tôn của họ. Họ chưa hiểu được thông điệp của Thập giá. Họ không hiểu rằng người công chính phải chịu đau khổ, một chủ đề từ sách Khôn ngoan nhưng cũng từ các ngôn sứ lớn trong Cựu ước. Họ vẫn bị kiểm soát, ít nhất là một phần, bởi “niềm đam mê” của họ đối với kiêu ngạo về cuộc sống vật chất.

Vì vậy, Chúa Giêsu dạy họ con đường của tuổi thơ: “Anh em phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Người ôm lấy một đứa trẻ và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Điều này có nghĩa là gì? Tiếp đón nhân danh Chúa phải có nghĩa là, ít nhất là một phần nào đó, tiếp đón vì Chúa Kitô, với tinh thần của Chúa Kitô. Do đó, lòng tốt dành cho một đứa trẻ, đối với người yếu đuối, người khiêm nhường, người dễ bị tổn thương, được Chúa Kitô coi là lòng tốt thể hiện cho chính Ngài và cho Chúa Cha. Đây là một cách suy nghĩ rất khác so với logic của “đam mê” đang điều khiển các tông đồ. Thế là thang giá trị của thế gian bị đảo ngược.

Vì vậy, các bài đọc vào Chúa Nhật hôm nay kêu gọi chúng ta từ bỏ các tiêu chuẩn thông thường của mình về sự đánh giá thành công trên thế gian này và áp dụng một quan điểm siêu nhiên triệt để về cuộc sống. Chúng ta cam kết theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận rằng chúng ta có thể bị từ chối và giết chết, và rằng chúng ta có thể không bao giờ đạt được bất kỳ vị trí có thẩm quyền hay sự công nhận nào. Nhưng đổi lại, điều chúng ta đạt được là chính Thiên Chúa, Đấng hiện diện một cách đặc biệt giữa “những trẻ nhỏ” của trái đất này, những người không được chú ý, những người yếu đuối, những người vô tội, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2024

Ép-pha-ta: hãy mở ra -- Chúa Nhật thứ XXIII Mùa Thường niên, năm B

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (7:31-37)

Khi ấy, Đức Giê-su bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói : Ép-pha-tha, nghĩa là : hãy mở ra ! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. Đức Giê-su cấm họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng cấm, họ càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc, và nóiL “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”

------------

Sự chữa lành này liên quan đến một số hình ảnh "sáng tạo mới". Người điếc này sống trong một vũ trụ không âm thanh, chỉ là “một phần của việc tạo dựng”. Chúa Giêsu đặt tay trên anh và nhổ nước miếng vào anh ta. Điều này gợi lại suy nghĩ về việc tạo dựng của người Do Thái vào thời đó. Họ nói về hình ảnh Thiên Chúa tự tay tạo nên con người đầu tiên, sau khi nhổ nước miếng vào bụi đất, làm nó trở thành đất sét có thể đúc thành hình được. Chúa Giêsu cũng thể hiện quyền năng sáng tạo. Với thời gian, chính Ngài sẽ được tuyên xưng là Đấng Tạo Hóa, nhưng mang lấy thân xác con người.

Tại sao Chúa Giêsu bảo người được chữa khỏi đừng nói cho ai biết?... Chúa Giêsu thực sự không muốn tin tức về các phép lạ của Ngài lan truyền khắp nơi, bởi vì nó thu hút đám đông tò mò và nó cản trở quyền tự do đi lại của Ngài (xem Mc 1:45) và làm xao lãng việc giảng dạy của Ngài, vốn là chủ yếu hơn là phép lạ trong sứ mệnh của Ngài.

Như đã đề cập ở trên, có lý do chính đáng để nghĩ rằng những lời tiên tri về sự chữa lành trong sách ngôn sứ Isaia mang tính biểu tượng về sự chữa lành tâm linh ngay cả trong nghĩa đầu tiên của lời tiên tri. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thực hiện việc chữa lành thể xác? Tôi nghĩ là vì chúng ta đần độn đến nỗi nếu không có những dấu hiệu thể lý thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra được Ngài (xem Gioan 4:48).

“Người điếc” trong Tin Mừng này ám chỉ về chúng ta, những người bị câm về mặt thiêng liêng đến mức chúng ta có mặt trong Thánh Lễ sáng Chúa Nhật nhưng không nhớ bài Phúc Âm đã nghe là gì trên con đường về nhà. Khi Tin Mừng nói “người câm nói được”, người câm đó là chúng ta, những người câm lặng đến mức không thể nghĩ ra điều gì để nói với hàng xóm hoặc đồng nghiệp của mình để thúc đẩy họ hướng tới đức tin vào Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô và Giáo hội, mặc dù chúng ta có thể đã là Kitô hữu trong suốt đời mình.

Tin Mừng là Chúa Giêsu có thể chữa lành người điếc và câm. Vì vậy, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu tháo gỡ những thứ bít tai và bịt miệng thiêng liêng của chúng ta, để chúng ta có thể hiểu lời Kinh thánh công bố trong Thánh lễ và rao giảng Tin Mừng một cách hiệu quả cho những người xung quanh. -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B

Share:

Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

Như bất kỳ người cha mẹ nào, Chúa tự hào về các thánh của Ngài

Có một thời mình cũng đã bị ảnh hưởng của những sách coi thường việc cầu xin sự hỗ trợ của các thánh. Cũng may thời gian ấy ngắn ngủi, đặc biệt là khi gặp ray rứt tâm hồn thì lòng tin tưởng đơn sơ của Thánh Têrêsa Hài đồng đã giúp mình phó thác và sau khi đã phó thác mọi sự cho Chúa thì nhận ra đó là sự tấn công tinh tế của ma quỷ.

Gần đây khi nghe cha Carlos Martins kể về sự hữu hiệu của thánh tích khi trừ quỷ, mình hiểu rõ hơn về những việc tôn sùng mà lối sống đức tin Công giáo truyền lại qua những thế kỷ.

Hôm nọ nghe một video cha Martins giải thích về tại sao chúng ta cầu nguyện cùng các thánh để xin các ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Cách cha giải thích vừa là được dựa trên cách diễn đạt của thánh Phaolô, vừa là trải nghiệm của cuộc sống thường hằng. Trang xin tạm dịch để lấy ý thôi ạ.

------------

Bryan (người dẫn podcast): Một thính giả Tin lành yêu thích chương trình đã viết và cho biết trong tập gần đây nhất với cha Zeta, Maria đã kêu cầu Chúa giúp đỡ cô (*cô bị quỷ ám vì bố, tuy nhiên cô được cha Zeta trừ khỏi quỷ. Vì không sống đời sống đức tin và có lẽ nhiều hơn nữa), lũ quỷ dường như đang chế nhạo cô trong lúc đang cố gắng tự tử. (*Trên con đường để tự tử, cô đi ngang qua tượng thánh Micae), cô gọi đến thánh Micae, và được chữa lành, hay tôi nên nói là đã được giải cứu…

Thính giả theo đạo Tin lành cảm thấy khó hiểu, họ nhận ra rằng tiếng kêu cầu sự can thiệp của thánh Micae cũng là tiếng kêu cầu Chúa theo một cách nào đó. Vậy cha có ý nghĩ gì (Cha Carlos Martins) về câu hỏi này không? Có lẽ câu hỏi họ đang đặt ra là… chúng ta có nên cầu xin sự giúp đỡ của thiên thần hay là đi thẳng đến với Chúa?

Cha Carlos Martins: Thánh Phaolô sử dụng đi sử dụng lại phép loại suy về các thánh (xem một ví dụ từ Kinh Thánh phía dưới). Khi nói với các Kitô hữu, thánh Phaolô cho rằng ngài đang nói với những vị thánh, khi bạn đang sống trong tình trạng ân sủng, dùng thuật ngữ của Công giáo, bạn không đang ở trong tội trọng. Nói cách khác, bí tích Rửa tội đang hoạt động và tác động đến bạn ở mức tối đa về mọi mặt. Vì vậy nếu bạn chết trong trường hợp này, bạn sẽ đi qua được cửa thiên đàng.

Thánh Phaolô nói đi nói lại là chúng ta là chi thể của thân thể Chúa Kitô, chúng ta là các chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô. Là thánh có nghĩa là như vậy. Vì vậy nếu thánh Micae, một vị thánh, ngài là một chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, và người ta đến với ngài, không phải đến thẳng với Chúa Kitô, thì bạn sẽ đến với Chúa Kitô, qua một chi thể trong thân thể Ngài. Đích điểm của bạn vẫn là Chúa Kitô. Câu hỏi là vậy thì tôi có thể đến thẳng với Chúa Kitô, Đầu của Nhiệm thể, không cần phải qua các thánh?

[Bạn nhờ các thánh] bởi vì Chúa tự hào về con cái của mình. Chúa là người Cha tự hào về con cái của mình. Và như bất kỳ cha mẹ tự hào về con cái của mình, Ngài cảm thấy vui mừng khi được con cái mình được người khác kính nể. Và đó chính là điều Chúa muốn. Chúa không muốn bạn bỏ qua con cái của anh ấy.

Cứ tưởng tượng bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu có một người bạn, là bạn của bạn, nhưng không thể chịu đựng được con cái của bạn và phớt lờ chúng. Khi bạn có con bên cạnh mình, người bạn ấy không ngó đến con của bạn; nhưng chúng là con của bạn. Bạn cảm thấy thế nào về con cái của bạn? Bạn nghĩ người bạn đáng lẽ phải cảm thấy và đối xử với con cái của bạn?

Đó là một ví dụ đơn giản về những động lực trong một mối quan hệ. Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều đủ trưởng thành để điền vào chỗ trống cho điều đó.

2 Cor. 1:1 Revised Standard Version Catholic Edition
Paul, an apostle of Christ Jesus by the will of God, and Timothy our brother. To the church of God which is at Corinth, with all THE SAINTS who are in the whole of Acha′ia:

Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng với mọi người trong dân thánh (with all the saints) trong khắp miền A-khai-a.

Share:

Blog Archive

Blog Archive