Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Tư tưởng xấu có phải là tội không? Làm sao để đối phó?

Bài viết của Linh mục John Bartunek, LC

Kính thưa Cha John,

Cảm ơn Cha về loạt bài rất tuyệt vời về ám ảnh cưỡng chế về tội lỗi (scrupulosity). Con có một câu hỏi liên quan đến chủ đề này, cụ thể là về hiện tượng “tư tưởng xấu” – những ý nghĩ tiêu cực, tục tĩu, hay thậm chí phạm thượng chống lại bất kỳ Ngôi Vị nào trong Ba Ngôi Thiên Chúa, hoặc chính Đức Mẹ. Con hiểu rằng những điều này có thể xảy ra trong các trường hợp mất cân bằng tâm lý hoặc sự chưa trưởng thành nghiêm trọng, và trong những tình huống như vậy thì mức độ trách nhiệm luân lý có lẽ là rất thấp.

Tuy nhiên, trong bối cảnh của những người đang cố gắng phát triển đời sống thiêng liêng, thì những tư tưởng xấu dường như là những cơn cám dỗ được ma quỷ ném vào như một hình thức chiến tranh thiêng liêng. Con hiểu rằng cám dỗ thì không phải là tội, và điều tốt nhất là nên phớt lờ chúng. Thêm nữa, vì người ta dễ bị những tư tưởng này hơn khi mệt mỏi, đói hoặc căng thẳng, nên theo lẽ thường, điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc ăn uống, ngủ nghỉ, thể dục và cầu nguyện. Nhưng dù vậy, “ranh giới” cụ thể là ở đâu? Con yêu mến Chúa và hoàn toàn không bao giờ muốn đến gần điều gọi là “tội chống lại Chúa Thánh Thần không thể được tha thứ” nhưng những tư tưởng như vậy thực sự khiến con hoảng sợ. Khi nào và như thế nào thì người ta nên xưng tội những điều này? Làm sao để sắp xếp đời sống thiêng liêng sao cho tư tưởng được trong sạch?

Câu hỏi của bạn thật ra chứa rất nhiều sự khôn ngoan. Và cũng bao gồm nhiều câu hỏi (cụ thể là ba). Trước khi trả lời, chúng ta cần phân biệt thêm một điểm nữa.

Đối với những ai đang chân thành và tích cực bước đi theo Đức Kitô, những tư tưởng xấu có thể do ma quỷ trực tiếp ném vào như bạn nói, nhưng còn có hai nguồn khác nữa.

Trước hết, chúng có thể xuất hiện từ tiềm thức của chính chúng ta. Nếu ai đó đã trở lại với Chúa sau một thời gian dài sống trong lối sống ích kỷ và tội lỗi, thì những vang vọng của lối sống cũ vẫn còn âm ỉ dưới bề mặt tâm trí. Thỉnh thoảng, chúng sẽ nổi lên, tìm cách chiếm lại sự điều ý chí của bạn. Trong trường hợp này, tư tưởng xấu không phải do ma quỷ trực tiếp gieo vào. Nếu chúng ta chống lại những tiếng vọng cuối cùng của các thói quen xưa, chúng sẽ dần yếu đi và xuất hiện ngày càng ít.

Thứ hai, tư tưởng xấu có thể là kết quả của sự thiếu cẩn trọng. Chúng ta sống trong một môi trường đầy rẫy những ảnh hưởng phi Kitô giáo, thậm chí phản Kitô giáo: hình ảnh trên mạng, bảng quảng cáo, bài báo, phim ảnh, sách báo, chương trình truyền hình; những phản giá trị len lỏi vào âm nhạc và nghệ thuật thế tục. Nếu chúng ta hấp thụ những độc tố đó, chúng sẽ tác động về sau, khuấy động những tư tưởng kéo ta xa rời tình bạn với Đức Kitô.

Canh giữ lâu đài

Đây là câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi thứ ba của bạn: chúng ta có thể lớn lên trong sự trong sạch tư tưởng bằng cách canh giữ các giác quan và tâm trí khỏi những ảnh hưởng độc hại. Điều này có vẻ khắt khe trong một xã hội đa nguyên, nhưng thực ra chỉ là lẽ thường. Chúng ta cẩn thận với thực phẩm đưa vào cơ thể vì biết nó ảnh hưởng đến sức khỏe thể lý. Vậy thì chúng ta càng nên cẩn thận với những gì đưa vào tâm trí và con tim, vì nó ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng.

(Một hình ảnh mà các tác giả linh đạo thường dùng là hình ảnh cây cầu kéo và lâu đài: bạn không hạ cầu kéo khi quân thù đang đến; bạn giữ nó được nâng lên để bảo vệ lâu đài khỏi bị xâm nhập.)

Một người vợ thường xuyên đọc tiểu thuyết tình cảm rẻ tiền (thực chất là một dạng khiêu dâm tinh tế), hay ngày nào cũng đắm chìm trong sự gợi cảm của các phim truyền hình sướt mướt, thì đang làm nghẽn “động mạch hôn nhân” của mình và tự đẩy mình vào nguy cơ “nhồi máu thiêng liêng.” Một người chồng đi đến câu lạc bộ thoát y “vì công việc,” dành thời gian với bạn bè vô thần nhiều hơn với những người cùng đức tin, và không chủ động tự bảo vệ mình khỏi nội dung khiêu dâm trên mạng, thì đang làm mình xuống cấp đời sống thiêng liêng.

Trong cả hai trường hợp, những tư tưởng xấu và ý nghĩ phạm thượng sẽ ngày càng xuất hiện, ngay cả khi không có sự xúi giục trực tiếp của ma quỷ. Khi ấy, chúng ta ít nhất phần nào có trách nhiệm, và nên xưng thú sự bất cẩn đó trong bí tích Hòa Giải – Thiên Chúa sẽ ban ơn để chúng ta sống nhất quán hơn.

Tự vệ thiêng liêng

Một chiến thuật khác giúp phát triển sự trong sạch tư tưởng là đáp trả một cách tích cực trước những tư tưởng xấu – dù xuất phát từ đâu. Như bạn đã nói, khi nhận ra một tư tưởng xấu lóe lên, điều bạn không nên  làm là chú ý đến nó. Nếu có thể phớt lờ nó và tiếp tục làm theo thánh ý Chúa với tất cả tâm trí và con tim, thì rất tốt.

Nhưng nếu tư tưởng ấy mãnh liệt và dai dẳng, thì việc phớt lờ không dễ. Trong những trường hợp đó, bạn cần có một kế hoạch sẵn sàng. Hãy chuẩn bị đối phó bằng lời cầu nguyện khi cố quay lại với thánh ý Chúa. Điều này có thể là một kinh nguyện đơn sơ, như Kinh Lạy Cha hoặc Kinh Kính Mừng. Cũng có thể là một câu Kinh Thánh yêu thích dùng như khiên chắn chống lại sự dữ (ví dụ: “Chúa là mục tử tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì…” – Tv 23:1).

Gần đây, tôi nghe về một người đàn ông chiến đấu với cám dỗ về xác thịt: ông cam kết sẽ hát thánh ca cho đến khi những tư tưởng nhục dục tan biến – kết quả là ông đã thuộc lòng bốn đoạn của hơn chục bài thánh ca trong nỗ lực lớn lên trong sự khiết tịnh!

Nếu chúng ta không tích cực chiến đấu với tinh thần đức tin trước những tư tưởng xấu cám dỗ ta, hoặc nếu nỗ lực của ta quá hời hợt, thì ta nên xưng thú sự thiếu sót này trong bí tích Hòa Giải – và Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh để ta can đảm hơn.

Dấu hiệu hoàn cảnh

Điều này dẫn đến câu hỏi đầu tiên của bạn: ranh giới nằm ở đâu? Nếu bạn biết rằng một số hoàn cảnh nhất định (như loại phương tiện truyền thông nào đó, hoặc tình trạng mệt mỏi, căng thẳng như bạn đã nêu) làm tăng cường độ, tần suất hoặc sự hấp dẫn của những tư tưởng xấu, thì bạn có trách nhiệm phải cố gắng tránh những hoàn cảnh đó.

Làm việc 80 giờ mỗi tuần có thể giúp bạn thăng tiến, nhưng liệu việc đó có đáng không, nếu đổi lại là bạn phải đối mặt với nguy cơ sa ngã? Đức Giêsu không nghĩ như vậy: “Nếu được cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?” (Mt 16,26)

Tuy nhiên, có những hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của ta (ví dụ như con nhỏ khóc đêm khiến ta thiếu ngủ). Khi ấy, Chúa mời gọi chúng ta tín thác nhiều hơn vào Người, và vào những phương thế Người ban để ta kiên vững (các bí tích, cầu nguyện, tình bạn lành mạnh, người bạn đời yêu thương…).

Nếu bạn thực sự đang nỗ lực để sống đời sống quân bình, đặt Chúa Kitô làm trung tâm và lớn lên trong sự trong sạch tư tưởng, nhưng vẫn bị những ý nghĩ xấu tấn công, thì chúng không thật sự là chất liệu để xưng tội. Chúng giống như cơn bão thiêng liêng vậy.

Thật ra, nhiều thánh nhân đã trải qua những cơn cám dỗ mãnh liệt và dữ dội về phạm thượng khi các ngài đã tiến xa trong đời sống thiêng liêng. Ma quỷ làm điều đó để gây bối rối và cướp đi niềm tin tưởng vào Thiên Chúa cũng như bình an trong tâm hồn. Nếu điều đó xảy ra với bạn, hãy che mình dưới “chiếc dù cầu nguyện” và vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kiên trì chịu đựng cho đến khi Ngài cho cơn bão qua đi. Làm như vậy, bạn sẽ thực hành tất cả các nhân đức Kitô giáo chính yếu, nhờ đó bạn được thánh hóa và Giáo Hội được lớn lên nhờ sự thánh hoá của chính bạn.

Chuyển ngữ từ Bad thoughts sinful? How to handle & avoid unforgivable sin?

Share:

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

Các bậc cha mẹ yêu dấu!

Các bậc cha mẹ yêu dấu! Tôi xin các bạn giúp con cái mình lớn lên trong đức tin, tôi xin các bạn đồng hành với các em trên hành trình đi tới rước lễ lần đầu, một hành trình mà sẽ còn tiếp tục sau đó, và tiếp tục đồng hành với các em khi các em đến với Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu. Xin hãy cùng con cái đến Nhà thờ và tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật! Các anh chị sẽ thấy rằng đây không phải là thời gian bị lãng phí; đúng hơn, đó chính là điều có thể giữ cho gia đình bạn thực sự hiệp nhất và gắn bó. 

Ngày Chúa Nhật trở nên đẹp hơn, cả tuần trở nên đẹp hơn khi các bạn cùng nhau tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. 

Và xin hãy cùng nhau cầu nguyện ở nhà: trước bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cầu nguyện không chỉ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn mà còn gần nhau hơn. Đó là một nguồn mạch mạnh mẽ của sự bình an và niềm vui. Cuộc sống gia đình trở nên vui tươi và rộng mở hơn  khi Chúa hiện hiện và sự gần gũi của Ngài được cảm nghiệm trong lời cầu nguyện. -- ĐTC Benedictô XVI, Homily, Celebration of Vespers, Cathedral of Munich, Sunday, 10 September of 2006

Share:

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

Chúa Giêsu hiện diện trong cuộc sống từng người chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (20:19-23)

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

-----------

Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu ban cho các Tông đồ, và vì thế là cho Hội Thánh, và cũng là cho chính chúng ta, ba món quà.

Thứ nhất, và cũng là điều quan trọng nhất: sự hiện diện của Ngài: “Khi các cửa còn đóng kín, nơi các môn đệ đang tụ họp vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu đến và đứng giữa họ.”

Không có món quà nào quý hơn chính bản thân bạn – sự hiện diện của bạn… Trong đại dịch COVID-19 và thời kỳ “giãn cách xã hội” bắt buộc, lời than đau đớn nhất và cũng thường gặp nhất không phải là “tôi đang chết,” mà là “tôi đang chết một mình.”

Các môn đệ trốn trong sợ hãi sau cánh cửa bị khóa, vì họ nghĩ – hoàn toàn tự nhiên – rằng những kẻ đã giết Chúa Giêsu sẽ đến tìm giết họ tiếp theo. Nhưng Đức Kitô đã đến xuyên qua những cánh cửa ấy, và Ngài cũng đến với chúng ta, xuyên qua cánh cửa lòng ta. Bởi vì không chỉ có chìa khóa, mà chính nỗi sợ cũng khóa chặt lòng người – đặc biệt là nỗi sợ rằng Thiên Chúa không yêu ta trọn vẹn, rằng Ngài không thật sự hiểu những yếu đuối của ta, rằng ta không thể hoàn toàn tín thác nơi Ngài. Và cũng có cả sự kiêu ngạo, không chịu thừa nhận mình sai. Nhưng đức tin và tình yêu thì xua tan sợ hãi. Ngay cả một đức tin yếu ớt, một tình yêu mong manh cũng đủ để mở cửa cho Ngài. Bạn chỉ cần hé cửa một tấc, Ngài sẽ bước vào cả dặm.

Trong bức tranh nổi tiếng vẽ Chúa Giêsu đứng ngoài cánh cửa với ngọn đèn, cánh cửa ấy không có tay nắm bên ngoài. Tay nắm ở phía trong. Cửa chỉ có thể được mở từ bên trong.

Chúa Giêsu không còn hiện diện trước mắt chúng ta với thân xác như khi Ngài hiện ra trước mười một Tông đồ, nhưng Ngài vẫn đang ở với chúng ta qua ít nhất bốn cách:

1. Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể – với trọn vẹn thần tính và nhân tính. Trong nhân tính, Ngài hiện diện cả linh hồn và thân xác con người. Trong thân xác, cả thịt và máu – hai phần đã tách lìa trong cái chết.
2. Ngài hiện diện trong linh hồn chúng ta – không theo vật chất mà theo tinh thần, nhưng là một sự hiện diện thật và sống động. Nếu ta mở lòng, Ngài không ngừng hành động trong ta. Sự hiện diện này thật như Thánh Thể ở trong thân thể ta khoảng 15 phút sau khi rước lễ.
3. Ngài hiện diện trong người anh chị em Kitô hữu của ta – vì nếu Ngài hiện diện trong linh hồn họ, thì Ngài cũng hiện diện nơi họ đối với ta. Mẹ Têrêsa từng nói ngài thấy Chúa Giêsu ở khắp nơi, đặc biệt nơi “bộ dạng rách nát” của người nghèo.
4. Ngài hiện diện trong Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngài ban cho ta vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Đó không phải là Thần Khí của một người xa lạ, mà là của chính Ngài và Chúa Cha. Chúa Thánh Thần là tình yêu vĩnh cửu giữa Cha và Con – một tình yêu sống động đến mức trở thành một Ngôi Vị. Và tình yêu ấy đang sống trong ta, và ta trong Ngài.

Vì thế, món quà đầu tiên và quan trọng nhất mà Chúa Giêsu ban là chính Ngài. Tất cả những món quà khác đều bắt nguồn từ món quà này.

Món quà thứ hai là bình an. Chúa Giêsu nói hai lần với các Tông đồ: “Bình an cho anh em.” Đây không chỉ là một lời chúc hay một lời cầu nguyện, mà là một lời truyền có sức làm thành điều nó nói, như một bí tích. Giống như khi Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng,” thì có ánh sáng (St 1,3).

Chúa Giêsu không chỉ ban bình an; chính Ngài là bình an của chúng ta. Đó là một sự bình an mà thế gian không thể cho:

– bình an với Thiên Chúa, chứ không phải với ma quỷ;
– bình an với chính bản thân, chứ không phải với cái tôi giả tạo, với những mặt nạ và lẩn tránh;
– bình an với tha nhân, với mọi người, chứ không chỉ với những người dễ thương.

Đó là một bình an chấp nhận khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục – và vì thế, đồng thời cũng là một cuộc chiến chống lại tham lam, nhục dục và kiêu căng. Chúng ta sống giữa một cuộc chiến giữa hai loại bình an: bình an của Đức Kitô và bình an của kẻ phản-Kitô.

Vì vậy, Đức Kitô ban cho ta hai món quà: bình an của Ngài, và cuộc chiến chống lại thứ “bình an giả tạo” với thế gian, xác thịt và ma quỷ.

Món quà thứ ba là Chúa Thánh Thần. Từ “thần khí” trong cả tiếng Do Thái và Hy Lạp đều cũng có nghĩa là “hơi thở” hay “hơi sống.” Vì vậy, Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông đồ một cách bí tích bằng cách thổi hơi trên họ. Thiên Chúa thường ban ân sủng thiêng liêng qua những dấu chỉ vật chất – đó chính là dấu hiệu bí tích.

Một trong những năng quyền đầu tiên của Thánh Thần là quyền tha tội.

“Quyền” nghĩa là cả quyền hạn lẫn năng lực. Chúa Giêsu đã hứa rằng Ngài sẽ ban món quà này cho các Tông đồ khi Ngài nói: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Đó là quyền buộc và tháo cởi.

Là người Công giáo, ta không phải nghi ngờ hay lo lắng xem tội của mình có được tha thật không – vì linh mục có quyền thật sự để cử hành sự tha thứ của Đức Kitô trong bí tích Hòa giải. Quyền ấy đến từ chính Đức Kitô – nên nó là tuyệt đối và được bảo đảm. Trong bí tích đó, ta đón nhận chính quyền năng tha thứ của Đức Kitô, cũng như trong Thánh Thể ta đón nhận chính thân mình Ngài. Không phải chỉ là một biểu tượng, một lời nói hay một sự bảo đảm – mà là một thực tại.

Tha thứ không chỉ là một thái độ chủ quan, mà là một thực tại khách quan, như xóa bỏ một món nợ. Đức Kitô đã trả nợ trên thập giá – nghĩa là ta không còn phải trả nữa. Ta được tự do. Ngài tháo cởi những nút thắt trong linh hồn ta – thật như những nút dây trói bạn vào ghế. Ngài thật sự giải thoát bạn.

Bạn bước vào tòa giải tội với đầy những nhơ uế thiêng liêng, và bước ra trong sạch. Như thể bạn vừa tắm. Và nó hiệu quả, bởi vì Ngài hành động, Ngài làm công việc của Ngài. Đó là sứ mạng của Ngài. Đó là lý do Ngài đến trần gian: để cất đi tội lỗi của bạn. Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trao quyền tha tội cho các Tông đồ và cho những người kế vị họ – các linh mục và giám mục – qua một chuỗi không gián đoạn kéo dài cho đến tận thế.

Chúa Kitô để lại cho Hội Thánh bảy bí tích, có khả năng thông ban ơn thánh của Ngài cho các khía cạnh khác nhau trong đời sống – như các “phòng” khác nhau trong căn nhà:

– Rửa tội như chiếc giường, nơi ta được sinh ra;
– Thêm sức như phòng thể dục, nơi rèn luyện đức tin;
– Giải tội như phòng tắm, nơi tẩy rửa linh hồn;
– Thánh Thể như phòng ăn, nơi ta được nuôi dưỡng;
– Hôn phối và truyền chức như cửa ra vào – những khởi đầu mới;
– Xức dầu bệnh nhân như chiếc giường lần cuối, để ta có sức bước vào cuộc hành trình vĩnh cửu.

Như Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa của tôi sẽ lo cho anh em mọi sự cần dùng, tùy theo sự giàu có của Người trong Đức Kitô Giêsu vinh hiển” (Pl 4,19). -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Ba Ngôi Thiên Chúa được mặc khải trọn vẹn trong ngày Lễ Ngũ Tuần

“Lễ Ngũ Tuần” nghĩa là “năm mươi.” Lễ Ngũ Tuần của người Do Thái diễn ra sau Lễ Vượt Qua năm mươi ngày; và cũng như Lễ Phục Sinh của Kitô giáo là sự ứng nghiệm của Lễ Vượt Qua Do Thái, thì Lễ Ngũ Tuần Kitô giáo (Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong Tân ước)  cũng là sự hoàn tất của Lễ Ngũ Tuần Do Thái. Theo một cách nào đó, nó giống như Lễ Giáng Sinh: nếu Giáng Sinh là ngày sinh của Chúa Kitô, thì Lễ Ngũ Tuần là ngày Hội Thánh ra đời. Đó là ngày đầu tiên của phần đời còn lại của Hội Thánh. Chúa Thánh Thần – linh hồn và sự sống của Hội Thánh – đã ngự xuống trên Hội Thánh vào ngày Ngũ Tuần.

Toàn bộ lịch sử có thể được chia thành ba giai đoạn, vì ba ngôi vị trong Ba Ngôi Thiên Chúa được mặc khải lần lượt theo thời gian. Cả ba đều vĩnh cửu và luôn cùng nhau hành động, nhưng chúng ta đón nhận mạc khải của Ba Ngôi từng bước một trong dòng thời gian.

– Trước khi Ngôi Hai Nhập Thể, Thiên Chúa Cha là Đấng mặc khải chính mình, bắt đầu từ việc tạo dựng vũ trụ.
– Trong các sách Tin Mừng, Thiên Chúa Con cũng mặc khải chính mình, đồng thời mặc khải Chúa Cha cách trọn vẹn nhất, vì Ngài là Logos, là Lời của Chúa Cha, là lý trí của Chúa Cha, là sự hiểu biết vĩnh cửu mà Chúa Cha có về chính mình – một sự hiểu biết hoàn hảo đến mức chính là một Ngôi Vị, Ngôi Vị thứ hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
– Và trong phần còn lại của lịch sử, bắt đầu từ Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần được mặc khải – Ngài là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con, là tình yêu giữa hai Ngôi, một tình yêu hoàn hảo đến mức cũng là một Ngôi Vị, Ngôi Vị thứ ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Mỗi giai đoạn này là một bước tiến – không phải đối với Thiên Chúa, Đấng hằng hữu và bất biến – nhưng là đối với chúng ta, những người sống và trưởng thành theo thời gian, cả về thể lý lẫn tâm linh.

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ rằng sẽ tốt hơn cho họ nếu Ngài ra đi, trở về trời, và sai Chúa Thánh Thần đến với họ. Điều này có thể khó tin: ta thường nghĩ sẽ tốt hơn nếu Chúa Giêsu không lên trời, mà vẫn ở lại trần gian mãi mãi với thân xác nhân loại. Có lẽ chúng ta sẽ muốn bầu Ngài làm tổng thống. Nhưng Ngài sẽ không tranh cử. Chính Ngài nói rằng tốt hơn cho chúng ta khi có Chúa Thánh Thần. Tại sao?

Vì Thiên Chúa là tình yêu. Mục đích của tình yêu là sự thân mật sâu xa, và Chúa Thánh Thần chính là Đấng ban cho ta sự thân mật sâu xa nhất với Thiên Chúa – và của Thiên Chúa với ta.

Bạn có thể hình dung: Chúa Cha là Thiên Chúa ở bên ngoài chúng ta; Chúa Con là Thiên Chúa ở bên cạnh chúng ta; Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa ở trong lòng chúng ta.

Tất cả đều quy về điều mà tình yêu mong muốn và đòi hỏi: đó là sự hiệp nhất. Nếu bạn yêu ai đó, bạn muốn ngày càng đi sâu vào nội tâm họ, muốn hiện diện trong mọi phần đời của họ.

Ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa Cha đã chen vào cuộc sống con người, can thiệp vào những con đường lầm lạc và sa ngã của họ. Trong các Tin Mừng, Thiên Chúa Con đến gần hơn nữa, trở nên một trong chúng ta, ở bên cạnh chúng ta, và mặc khải ngày càng sâu xa hơn về Chúa Cha. Và đến ngày Ngũ Tuần, Thiên Chúa Thánh Thần ngự vào trong lòng chúng ta, và qua Hội Thánh – mà Ngài là linh hồn – Ngài tiếp tục mặc khải Thiên Chúa cách rõ ràng hơn qua sự hướng dẫn của Ngài với các công đồng và tín điều.

Tín điều cao cả nhất – tín điều về Ba Ngôi Thiên Chúa – bản đồ của thực tại tối hậu, có thể nói như thế – đã được trao phó cho Hội Thánh để giữ gìn và truyền dạy. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2025

Có Động Vật Trên Thiên Đàng Không?

*Ad dịch câu hỏi này của Peter Kreeft vì hôm nay nhớ lại một câu nói trong bài giảng thiên đàng là một trạng thái (Thiên đàng là một trạng thái HIỆN HỮU thế giới này không biết đến). Sau đó tìm thêm được một bài viết khác người hỏi thắc mắc người dạy Kinh thánh trong giáo xứ nói GLHTCG cũng nói thiên đàng không là một nơi chốn!

Câu trả lời đơn giản nhất là: Tại sao không? Thật vô lý khi có thành kiến cho rằng cây cối (những cánh đồng xanh và hoa lá) có thể hiện diện trên Thiên Đàng, nhưng lại không cho động vật hiện diện! Cái nhìn hợp lý hơn là suy đoán của C. S. Lewis rằng chúng ta sẽ “ở giữa các thiên thần là những người anh lớn của chúng ta và các loài thú là những kẻ làm trò, phục vụ và chơi đùa cùng chúng ta.” Kinh Thánh dường như cũng xác nhận điều này: “Công lý của Ngài như đỉnh núi Thái Sơn, quyết định của Ngài tựa vực sâu thăm thẳm. Lạy CHÚA, Ngài tế độ con người và súc vật.” (Tv 36,7) Động vật cũng có chỗ đứng trong “trời mới đất mới” không kém gì cây cối.

C. S. Lewis cho rằng động vật được cứu “trong” các chủ nhân của chúng, như một phần của đại gia đình mở rộng. Chỉ những con vật đã được thuần hóa mới được cứu theo cách này. Tuy nhiên, có vẻ hợp lý hơn khi cho rằng cả những động vật hoang dã cũng hiện diện trên Thiên Đàng, bởi vì tính hoang dã, tính khác biệt, tính không-thuộc-về-ta là một nguồn vui chân thật đối với con người. Chính việc con mòng biển không để ý gì đến tôi khi nó cất tiếng kêu đơn độc, xa xăm – điều đó lại chính là một phần vẻ đẹp của nó.

Liệu những con vật cụ thể ở trần gian có hiện diện trên Thiên Đàng không? “Con mèo của tôi chết rồi có ở Thiên Đàng không?” Một lần nữa, tại sao lại không? Thiên Chúa có thể làm cho cỏ mọc lại; vậy thì, tại sao không thể làm cho mèo sống lại? Dù những người được hưởng phúc trên Thiên Đàng có những việc tốt đẹp hơn để làm hơn là chơi với thú cưng, nhưng điều tốt hơn không loại trừ điều nhỏ hơn. Ngay từ ban đầu, chúng ta được Thiên Chúa trao quyền quản trị muôn loài vật; trên trần gian này chúng ta vẫn chưa hoàn thành kế hoạch ấy; vì thế, có vẻ hợp lý khi cho rằng mối tương quan đúng đắn với động vật sẽ là một phần của Thiên Đàng: một mối “thú-cưng” đúng nghĩa. Và còn nơi nào tốt hơn để bắt đầu điều ấy ngoài chính những con vật từng được yêu thương nơi trần gian?

Chuyển ngữ từ Everything You Ever Wanted To Know About Heaven: But Never Dreamed of Asking

Share:

Thiên Đàng là một nơi chốn hay chỉ là một trạng thái tâm trí?

Câu hỏi:

Gần đây, trong lớp học Kinh Thánh tại giáo xứ, người hướng dẫn nói rằng thiên đàng không phải là một nơi chốn, mà chỉ tồn tại trong tâm trí chúng ta, và ông đã trích các đoạn 2794–2796 trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo để minh chứng cho quan điểm đó. Con cảm thấy rất hoang mang với khái niệm này. Nếu thiên đàng không phải là một nơi, vậy tại sao Chúa Giêsu lại thăng thiên rời khỏi các tông đồ? Tại sao Người lại nói rằng Người sẽ đi để dọn chỗ cho họ, nếu nơi đó không thật sự hiện hữu? Và tại sao trong Sách Giáo Lý lại nói thiên đàng là một “cách hiện hữu”? Từ khi nghe lập luận gây sốc ấy, con không còn quay lại lớp học Kinh Thánh nữa.

Trả lời:

Sự bối rối của bạn cho thấy mức độ khó khăn khi cố gắng diễn tả các thực tại siêu việt bằng ngôn ngữ phàm trần. Sự thật là: chúng ta không biết chính xác thiên đàng “trông như thế nào” — và dù có biết, thì ngôn ngữ của con người vẫn không đủ khả năng để diễn đạt, vì nó không thể chứa đựng mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, tuyên bố rằng “thiên đàng chỉ ở trong tâm trí chúng ta” là điều sai lệch và dễ gây hiểu lầm. Thiên đàng thực sự ở trong chúng ta, theo nghĩa mỗi Kitô hữu là đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Nhưng nói rằng thiên đàng chỉ ở trong tâm trí — cũng giống như nói rằng nhờ các bí tích, Chúa Giêsu chỉ hiện diện trong lòng ta mà thôi — thì là không chính xác. Thiên Chúa và thiên đàng ngự trong ta, nhưng cũng tồn tại cách khách quan vượt lên trên ta.

Theo một nghĩa nào đó, Thiên Chúa chính là thiên đàng. Trong sách 1 Maccabê 3:18, tác giả dùng từ “Thiên đàng” để chỉ chính Thiên Chúa (vì người Do Thái cổ không dám gọi danh Thiên Chúa). Thiên đàng hiện diện ở bất cứ nơi nào có Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói: “Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17), có nghĩa là, kể từ khi Thiên Chúa nhập thể, thiên đàng đã hiện diện giữa loài người. Sau khi chết, kinh nghiệm thiên đàng sẽ là sự kết hợp trọn vẹn với tình yêu nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa, đem lại cho ta niềm vui hoàn hảo và vĩnh cửu. Và ngay từ đời này, khi ta sống trong tình yêu ấy, ta đã nếm trước niềm vui của thiên đàng. Thánh Catarina thành Siena từng nói: “Con đường về thiên đàng chính là thiên đàng.”

Bạn hoàn toàn đúng khi nói rằng Kinh Thánh đề cập đến những “nơi chốn trên trời.” Tuy nhiên, ta phải nhớ rằng thời gian và không gian là những khái niệm hữu hạn; Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi chúng, cũng không thể bị giới hạn trong một không gian vật lý, vì toàn thể vũ trụ vật chất là do Người tạo dựng và không thể chứa đựng Đấng Tạo Hóa. Vì vậy, thiên đàng là “một nơi,” nhưng không phải là “một không gian cụ thể” như cách ta vẫn hiểu.

Chúng ta cần hiểu ngôn ngữ biểu tượng trong Kinh Thánh và nơi các thánh như một nỗ lực để diễn đạt điều vốn vượt quá khả năng ngôn từ. Những cách nói như “thấy Thiên Chúa mặt đối mặt” không được hiểu theo nghĩa đen, mà là để diễn tả niềm hạnh phúc vô biên: ta sẽ được ở với Thiên Chúa, kết hợp mật thiết với Người, không còn bị giới hạn bởi thân xác hay tội lỗi nữa.

Như Sách Giáo Lý viết (số 1024):

Thiên Đàng" là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên Đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc.

Vì vậy, chúng ta hãy phó thác cho Thiên Chúa “nơi đâu” và “cách nào” mà Người sẽ hoàn tất lời hứa của mình.

----------

Từ Giáo lý Hội thánh Công giáo

2794 Khi gọi Thiên Chúa là “Đấng ngự trên trời”, Thánh Kinh không muốn nói Người đang ở một nơi nào đó trong không gian, nhưng nói đến một cách hiện hữu; không muốn nói Người ở xa ta, nhưng muốn nói Người rất uy nghi cao cả. Thiên Chúa không ở một nơi nào đó, nhưng Người là Đấng Thánh vượt trên mọi sự chúng ta có thể quan niệm. Vì Người là Đấng Chí Thánh, nên rất gần gũi với những tâm hồn khiêm cung và thống hối:

“Thật có lý khi ta hiểu “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là Người hiện diện nơi tâm hồn những người công chính, như trong đền thờ của Người. Câu kinh đó cũng có nghĩa là người cầu nguyện ước mong Đấng mình kêu cầu ngự trong lòng mình (T. Âu-tinh, Bài giảng Chúa nhật 2,5,17) .

“Ở đây, chúng ta có thể hiểu “trời” là những ai mang hình ảnh thiên quốc, Thiên Chúa vui thích cư ngụ nơi tâm hồn họ” (T. Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem 5,11) .

2795 Biểu tượng “trời” nhắc chúng ta nhớ đến mầu nhiệm Giao Ước chúng ta đang sống, khi đọc kinh “Lạy Cha”. Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là Nhà Cha, nên là “quê hương” của ta. Vì tội lỗi, chúng ta bị lưu đày xa miền đất Giao Ước; nhờ hoán cải tâm hồn, chúng ta được về "trời", về cùng Cha. trong Đức Kitô, trời đất được giao hòa, vì chỉ Chúa Con là Đấng “từ trời xuống thế” và đưa chúng ta lên trời với Người, nhờ cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Thăng Thiên (x. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28;20,17; Eph 4,9-10; Dt 1,3; 2,13) .

2796 Khi kêu cầu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, Hội Thánh tuyên xưng: chúng ta là Dân Thiên Chúa, “đã được cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Eph 2,6), "hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa"(Cl 3,3), đồng thời, “chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều ở dưới đất này”(2 Cr 5,2):

“Các tín hữu có xác phàm, nhưng không sống theo xác phàm. Họ sống trên dương thế, nhưng là công dân Nước Trời” (Epitre á Diognète 5, 8-9).

Một câu hỏi khác về thiên đàng: Thiên Đàng là một nơi, một trạng thái hiện hữu, hay cả hai?

Chuyển ngữ từ Is Heaven a Place or Only a State of Mind?

Share:

Thiên Đàng là một nơi, một trạng thái hiện hữu, hay cả hai?

*Lưu ý: ĐHY George là một người mình rất quý trọng, một nhà thần học thông thái. Bản thân mình không có đủ khả năng để bắt lỗi ĐHY George về bất cứ sự gì vì sự hiểu biết rộng lớn của ngài (Nhờ sự khuyến khích của ĐHY George mà Bishop Barron bắt đầu Word on Fire.)

ĐHY được đề cập đến trong câu hỏi dưới đây không có nghĩa đó là điều ĐHY đã viết. Có thể đó là câu ngài bắt đầu và ngài sẽ giải thích thêm. Điều này nói đến sự kiên nhẫn cần có và khả năng tổng hợp khi đọc sách thần học -- phải đọc trọn vẹn ý tưởng trong cuốn sách và đặt các ý tưởng trong bối cảnh trọn vẹn.

Kính gửi cha John,

Gần đây con đọc thấy rằng Đức Hồng Y quá cố George (xin Thiên Chúa thương xót linh hồn ngài) đã nói rằng thiên đàng không phải là một nơi chốn. Con cũng đã nghe điều này được đề cập ở nơi khác. Con hiểu khá rõ những gì Chúa Giêsu nói về Nước Trời ở trong anh em, ở giữa anh em, v.v. Tuy nhiên, con cảm thấy rằng nếu nói thiên đàng không phải là một nơi, thì chẳng phải điều đó là phủ nhận sự thăng thiên trong thân xác của Chúa Kitô lên trời, cũng như việc Đức Mẹ được hồn xác lên trời sao? Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “Người đã lên trời.” Vậy thiên đàng là gì? Là một trạng thái hiện hữu, một nơi chốn, hay là cả hai? Con nghĩ là cả hai, nhưng con muốn biết lập trường “chính thức” của Giáo Hội về vấn đề này. Con xin cảm ơn và cầu chúc Cha được đầy tràn ơn Chúa!

Đây là một câu hỏi rất hay. Theo tôi nghĩ, câu trả lời thật sự tùy thuộc vào việc ta hiểu chữ “nơi chốn” là gì. Nếu từ ấy được hiểu theo nghĩa thông thường như ta vẫn dùng ở trần gian — tức là một điểm cụ thể trong không gian và thời gian theo cách mà ta hiện nay đang biết — thì thiên đàng không thực sự là một “nơi” theo nghĩa đó. Thiên đàng là sự sống trong hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa và các thánh, và do đó vượt ra ngoài mọi giới hạn của không gian và thời gian như ta đang sống trong thế giới đã được tạo dựng và đã sa ngã này. Theo nghĩa đó, các nhà thần học của chúng ta thường nói thiên đàng là một trạng thái hiện hữu (khác với chỉ trạng thái). Họ không muốn tạo ấn tượng rằng thiên đàng nằm đâu đó cách vài trăm năm ánh sáng, sau khi rẽ phải qua một thiên hà nào đó. Lối tồn tại của chúng ta trong thiên đàng sẽ là một hình thức hiện hữu hoàn toàn khác biệt với hiện tại — một thể cách hiện hữu mới.

Một hình ảnh minh họa hạn chế nhưng hữu ích là so sánh sự sống của một em bé trong bụng mẹ với sự sống của em bé ấy sau khi được sinh ra. Kích thước, giới hạn, kinh nghiệm của hai giai đoạn ấy hoàn toàn khác biệt. Theo một nghĩa nào đó, cuộc sống trần gian giống như sự sống trong dạ mẹ, còn thiên đàng thì như cuộc sống sau khi được sinh ra. Trên trần gian này, chúng ta đang được chuẩn bị cho sự viên mãn của sự sống nơi thiên đàng. Nhưng sự khác biệt giữa đời sống trần thế và đời sống thiên đàng còn sâu xa hơn nhiều so với sự khác biệt giữa bào thai và trẻ sơ sinh. Chúng ta không thể hiểu hết sự khác biệt ấy. Như Kinh Thánh nói: “Điều mắt chưa thấy, tai chưa nghe, lòng người chưa hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Người…” (1 Cr 2,9).

Chúng ta có thể thoáng thấy điều ấy qua những lần Chúa Kitô hiện ra sau khi phục sinh. Người không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian như trước nữa. Người thực sự hiện hữu trong thân xác — các Tông Đồ chạm vào các vết thương của Người và cùng ăn với Người — nhưng Người có thể đi xuyên qua các bức tường và hiện ra một cách nhiệm mầu. Chúng ta không hiểu hết được, nhưng chúng ta biết rằng cuộc sống vinh quang sau cùng sẽ hoàn toàn khác biệt về bản chất. Vâng, chúng ta sẽ có thân xác, nhưng thân xác ấy sẽ được hiển vinh, đến mức các khái niệm về thời gian, không gian — về “nơi chốn” — như ta đang biết hôm nay sẽ không còn phù hợp nữa. Vì thế, nhiều nhà thần học ưu tiên gọi thiên đàng là một “trạng thái hiện hữu.”

Bạn cũng có thể tìm được ánh sáng và cảm hứng khi đọc lại những đoạn trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo nói về thiên đàng. Giáo lý trình bày thiên đàng theo khía cạnh đời sống hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và các thánh. Giáo lý không mô tả thiên đàng cụ thể trông như thế nào, mà tập trung vào bản chất của trải nghiệm đó:

“Những ai chết trong ân sủng và tình bạn với Thiên Chúa, và được thanh luyện hoàn toàn, sẽ sống muôn đời với Đức Kitô… và những tín hữu khác đã lãnh nhận phép Rửa trong Chúa Kitô (với điều kiện họ không cần thanh luyện khi chết, hoặc nếu có thì đã được thanh luyện sau khi chết…), thì ngay cả trước khi thân xác họ được phục sinh và trước khi phán xét chung, họ đã được ở trong thiên đàng, trong Nước Trời vinh hiển, nơi thiên đàng trên trời, cùng với Đức Kitô và các thiên thần… Cuộc sống trọn vẹn này với Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh — sự hiệp thông của sự sống và tình yêu với Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Maria, các thiên thần và toàn thể các thánh — được gọi là “thiên đàng.” Thiên đàng là cùng đích và là sự viên mãn của mọi khát vọng sâu xa nhất nơi con người, là trạng thái hạnh phúc tuyệt đối và dứt khoát. Được sống trên thiên đàng là được “ở với Đức Kitô.” (GLHTCG số 1023–1025)

-------------

Từ Giáo lý Hội thánh Công giáo

2794 Khi gọi Thiên Chúa là “Đấng ngự trên trời”, Thánh Kinh không muốn nói Người đang ở một nơi nào đó trong không gian, nhưng nói đến một cách hiện hữu; không muốn nói Người ở xa ta, nhưng muốn nói Người rất uy nghi cao cả. Thiên Chúa không ở một nơi nào đó, nhưng Người là Đấng Thánh vượt trên mọi sự chúng ta có thể quan niệm. Vì Người là Đấng Chí Thánh, nên rất gần gũi với những tâm hồn khiêm cung và thống hối:

“Thật có lý khi ta hiểu “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là Người hiện diện nơi tâm hồn những người công chính, như trong đền thờ của Người. Câu kinh đó cũng có nghĩa là người cầu nguyện ước mong Đấng mình kêu cầu ngự trong lòng mình (T. Âu-tinh, Bài giảng Chúa nhật 2,5,17) .

“Ở đây, chúng ta có thể hiểu “trời” là những ai mang hình ảnh thiên quốc, Thiên Chúa vui thích cư ngụ nơi tâm hồn họ” (T. Xy-ri-lô thành Giê-ru-sa-lem 5,11) .

2795 Biểu tượng “trời” nhắc chúng ta nhớ đến mầu nhiệm Giao Ước chúng ta đang sống, khi đọc kinh “Lạy Cha”. Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là Nhà Cha, nên là “quê hương” của ta. Vì tội lỗi, chúng ta bị lưu đày xa miền đất Giao Ước; nhờ hoán cải tâm hồn, chúng ta được về "trời", về cùng Cha. trong Đức Kitô, trời đất được giao hòa, vì chỉ Chúa Con là Đấng “từ trời xuống thế” và đưa chúng ta lên trời với Người, nhờ cuộc Khổ Nạn, Phục Sinh và Thăng Thiên (x. Ga 12,32; 14,2-3; 16,28;20,17; Eph 4,9-10; Dt 1,3; 2,13) .

2796 Khi kêu cầu “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, Hội Thánh tuyên xưng: chúng ta là Dân Thiên Chúa, “đã được cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời” (Eph 2,6), "hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa"(Cl 3,3), đồng thời, “chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng ta phủ lên chiếc lều ở dưới đất này”(2 Cr 5,2):

“Các tín hữu có xác phàm, nhưng không sống theo xác phàm. Họ sống trên dương thế, nhưng là công dân Nước Trời” (Epitre á Diognète 5, 8-9).

Tôi hy vọng những chia sẻ này giúp bạn đào sâu suy tư về một đề tài mà, con thực sự tin rằng, chúng ta không bao giờ suy niệm quá nhiều. Cảm ơn bạn vì câu hỏi rất hay, và xin Chúa chúc lành cho bạn! -- Fr. John Bartunek, LC

Một câu hỏi khác về thiên đàng: Thiên Đàng là một nơi chốn hay chỉ là một trạng thái tâm trí?

Chuyển ngữ từ Is Heaven a Place or State of Being or Both?

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive