Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2024

Icon Ba Ngôi Thiên Chúa: Một cửa sổ hé mở vào thiên đàng

Ngay cả với tất cả những gì đã được nói cho đến nay, việc suy ngẫm về Chúa Ba Ngôi như mục đích của cuộc sống và nhìn cuộc sống của chúng ta theo quan điểm này, có vẻ vẫn hơi trừu tượng. Vì vậy, chúng ta hãy dành một chút thời gian để suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi một cách cụ thể hơn bằng cách nhìn vào icon Chúa Ba Ngôi nổi tiếng của Andrei Rublev, người Nga.

Trong icon mọi thứ đều mang tính biểu tượng. Theo một cách nào đó, nó chứa đựng toàn bộ Tin Mừng dưới dạng biểu tượng, vì vậy chúng ta hãy xem xét tính biểu tượng của nó.

Toàn bộ icon mô tả một sự kiện trong Cựu Ước, trong đó ba người lạ đến thăm Áp-ra-ham và ông tỏ lòng hiếu khách với họ (xem St 18:1-8). Tân Ước, theo một giải thích truyền thống, nói rằng những người lạ là các thiên thần (xem Híp-ri 13:2). Các Giáo phụ coi việc các thiên thần viếng thăm và lòng hiếu khách của Áp-ra-ham là hình ảnh báo trước về Chúa Ba Ngôi. Vì vậy, Rublev mô tả ba thiên thần trong icon và các thiên thần tượng trưng cho Ba Ngôi Thiên Chúa.

Ba thiên thần ngồi thành một vòng tròn hoàn hảo.

Bởi vì vòng tròn không có điểm bắt đầu và không có điểm kết thúc, nó là biểu tượng phổ quát của sự vĩnh cửu, bởi sự vĩnh cửu là Sự sống không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc. Bằng cách mô tả các thiên thần trong một vòng tròn, icon này tiết lộ rằng sự sống của Chúa Ba Ngôi là vĩnh cửu. Ba Ngôi không thay đổi. Lúc đầu cũng vậy, bây giờ vẫn vậy và mãi mãi vẫn thế.

Một chi tiết khác cần chú ý là màu sắc trang phục của các thiên thần. Y phục của mỗi vị đều có màu sắc riêng biệt nhưng tất cả đều có một màu chung. Màu phổ biến là màu xanh lam, màu này trong icon phương Đông tượng trưng cho thần thánh. Các màu sắc đặc biệt nhấn mạnh rằng mỗi Ngôi vị là một Ngôi vị riêng biệt trong Thiên Chúa, trong khi màu xanh lam chung chứng tỏ rằng mỗi Ngôi vị là Thiên Chúa: họ bình đẳng về thần tính.

Thiên thần bên phải mặc áo màu xanh lá cây. Màu xanh lá cây gợi lên hình ảnh mùa xuân và là biểu tượng phổ quát cho sự sống. Trong Kinh Tin Kính Nicea, chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa, Đấng ban sự sống. Vì vậy, thiên thần bên phải tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.

Thiên thần ở giữa mặc màu nâu đất. Màu nâu đất phù hợp với những người đã từng sống trên trái đất, và do đó, thiên thần ở giữa tượng trưng cho Ngôi Vị đã nhập thể vì chúng ta: Đức Giêsu thành Nazareth, Con Thiên Chúa hằng sống. Chiếc vòng vàng trên vai tượng trưng cho vương quyền. Chúa Giêsu Nazareth là Vua vũ trụ, và khi đến giữa chúng ta, Người đã công bố “nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15). Một điều khác cần chú ý là bàn tay phải của Người. Người giơ hai ngón tay ra, và hai ngón tay đó là lời tuyên bố hai bản tính của Chúa Giêsu: nhân tính và thần tính. Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật.

Thiên thần bên trái mang một màu thanh tao khó diễn tả. Ngay cả sau mầu nhiệm nhập thể, Chúa Cha hằng hữu vẫn rất huyền nhiệm đối với chúng ta. Vì vậy, thiên thần bên trái tượng trưng cho Chúa Cha. Hai thiên thần còn lại cúi đầu về phía Ngài. Điều này có nghĩa là họ hoàn toàn thừa nhận Chúa Cha, Đấng là nguồn gốc vô nguồn gốc của họ. Tuy nhiên, cả Ba Ngôi đều bình đẳng và vĩnh cửu, như hình tròn của biểu tượng cho thấy. Rõ ràng là hai thiên thần còn lại đang giao tiếp bằng mắt với Ngài. Họ biết Ngài. Và giao tiếp bằng mắt của họ với Ngài là dấu hiệu của sự hiểu biết thấu đáo, mối quan hệ, và sự tự do để là Ngôi vị Chúa Con và Chúa Thánh với Chúa Cha.

Trong sự sống huyền nhiệm của Chúa Ba Ngôi, tất cả đều là ánh sáng, tình yêu, sự sống, tự do và niềm vui không có khởi đầu và không có kết thúc. Chúng ta khó có thể hiểu được sự tồn tại như vậy sẽ là gì, nhưng mục đích của cuộc đời chúng ta là tìm ra điều này. Thật vậy, mục đích của cuộc đời chúng ta là bước vào Sự sống tuyệt vời nhất vượt trên tất cả những sự sống khác này, và tham gia vào đó mãi mãi và tận hưởng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa tạo ra con người. Lý do Thiên Chúa tạo dựng thế giới thiên nhiên là để phục vụ chúng ta trên hành trình tiến vào Chúa Ba Ngôi, nên những hình ảnh xung quanh và đằng sau các thiên thần trong icon cũng mang tính biểu lộ.

Đằng sau Chúa Thánh Thần là ngọn núi. Trong Kinh Thánh, những điều vĩ đại xảy ra trên núi. Luật cũ được ban hành trên núi Sinai; Luật Mới được ban bố trong Bài Giảng Trên Núi. Trên Núi Tabor, tiếng nói của Chúa Cha và đám mây của Chúa Thánh Thần đã mặc khải tư cách làm Con vĩnh cửu của Chúa Giêsu trong cuộc Hiển Dung (xem Mt 17:1-8). Thánh Thần cũng đóng một vai trò kỳ diệu trong cuộc sống của chúng ta. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, Chúa Thánh Linh kết hợp chúng ta với Chúa Con và dẫn chúng ta đến Chúa Cha.

Đằng sau Chúa Con từ thuở muôn đời là một gốc cây. Chính việc ăn trái cây mà loài người bị mất ân sủng trong Vườn Địa Đàng (xem Sáng Thế 3). Và chính trên cây Thập Giá mà Chúa Giêsu đã cứu nhân loại bằng cách hiến thân làm hy lễ chuộc tội (xem Isaia 53:10). Ở Giê-ru-sa-lem mới và trên trời, có cây sự sống với lá là thuốc chữa lành cho các dân tộc (xem Khải Huyền 22:1–2). Trong mỗi Thánh lễ, khi rước lễ, chúng ta ăn trái của cây ban sự sống, thập giá của Chúa Kitô, để được cứu khỏi hậu quả của kẻ thù đem đến sự chết, cây bất tuân mà Ađam và Evà, những con người đầu tiên đã ăn lấy.

Sau lưng Chúa Cha là một ngôi nhà. Nó nhắc nhở chúng ta về những lời của Chúa Giêsu: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” (Ga 14:2). Qua sự phục sinh của mình, Chúa Giêsu đã về nhà Chúa Cha để chuẩn bị một nơi vĩnh cửu cho chúng ta trong Thiên Chúa. Ngôi nhà cũng là dấu hiệu của sự chào đón. Nó tượng trưng cho sự bình yên trong lòng, sự giản dị và niềm vui được trở về nhà sau chuyến hành trình dài nơi xứ xa lạ. Trong nhà Chúa Cha, trong trời mới đất mới, mỗi người chúng ta đều được chờ đợi - mỗi người chúng ta đều được yêu thương (xem Đức Bênêđictô XVI, Spe Salvi, số 3).

Icon cũng đưa ra một bài giảng về Bí tích Thánh Thể, nhưng cách thức thực hiện điều đó thật bí ẩn. Trên thực tế, icon biểu lộ điều này theo hai cách, một cách rõ ràng hơn và một cách khác ẩn giấu hơn. Đầu tiên, trên bàn thờ có một cái bát có hình đầu bò trên đó. Đây là dấu hiệu hi tế theo nghi thức Cựu Ước. Những nghi thức đó được ứng nghiệm một lần và mãi mãi trong Tân Ước khi Chúa Giêsu hy sinh hiến mình trên thập giá. Thứ hai, một cách ẩn giấu hơn, nếu nhìn kỹ vào bức ảnh, người ta có thể thấy toàn bộ bàn thờ có hình dạng một chiếc chén và Chúa Giêsu ở trong chiếc chén. Đó là Bí tích Thánh Thể là sự hiện diện thật của Chúa Giêsu Kitô – Mình, Máu, Linh hồn và Thiên tính. Hy lễ của Ngài không xa cách mỗi một người chúng ta nhưng được hiện diện trên bàn trong Thánh lễ (hay, như truyền thống phương Đông gọi là Phụng vụ Thánh). Điều được dâng trên bàn thờ không phải là hy lễ thứ hai, mà là hy lễ duy nhất và giống như hy lễ của Chúa Giêsu vào Thứ Sáu Tuần Thánh. Như vậy chúng ta có thuốc của cây sự sống. Chúng ta sẽ tiếp tục đọc thêm về Bí tích Thánh Thể trong các chương sau, và về tầm quan trọng của việc chúng ta sống trong Chúa Ba Ngôi.

Tại thời điểm này, người ta có thể tự hỏi làm thế nào tất cả những điều này thực sự liên quan đến bạn và tôi. Vì vậy, chúng ta hãy chú ý một điều cuối cùng. Phía trước icon, chân bàn thờ có lỗ thông cho người xem. Lỗ thông ấy có ảnh hưởng thầm lặng đến người xem, lôi kéo chúng ta vào. Toàn bộ khung cảnh rộng mở, mời gọi, thu hút. Vấn đề là Chúa Ba Ngôi hiện đang kêu gọi chúng ta - mọi người trên mặt đất - tham gia vào cuộc sống tuyệt vời và không thể tả được của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi Thiên Chúa rất hài lòng để là niềm vui khôn xiết của tâm hồn chúng ta.

Chúng ta có một câu hỏi thực tế. Nếu mục đích cuộc sống của chúng ta là tham gia vào Chúa Ba Ngôi, thì con đường vào Chúa Ba Ngôi là gì? Làm sao vào được? Chúng ta sẽ nói đến câu hỏi thực tế này trong các chương còn lại. -- Dịch từ Jacques Philippe, In the School of the Holy Spirit

Share:

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

Tình yêu chung thủy của Thiên Chúa

Hô-sê là vị tiên tri đầu tiên trong số mười hai vị tiên tri phụ. Có lẽ ngài đã phục vụ trong khoảng thời gian 750–725 trước Công nguyên ở miền Bắc Israel (“mười chi tộc” phía bắc), ngay trước khi Vương quốc Israel  bị người Assyria tiêu diệt vào năm 722 trước Công nguyên và trừ những nông dân nghèo khổ bị bỏ lại, tất cả đều bị đày đến các vùng khác của đế chế Assyria (người dịch: còn 2 chi tộc miền nam với Đền thờ Giêrusalem thuộc về Vương quốc Giuđêa). Điều đáng chú ý là Hô-sê là nhà tiên tri duy nhất cho miền bắc Israel chứ không phải miền nam Giu-đê-a, con cháu của họ sau này được gọi là “dân Do Thái”.

Hô-sê có mô-típ hôn nhân mạnh mẽ nhất so các tiên tri phụ, và những mô-típ này tập trung ở Hôsê 1–3, đặc biệt là Hôsê 2. Như đã biết, Hôsê được Thiên Chúa truyền lệnh phải kết hôn với một người phụ nữ đàng điếm, Gô-me. Bà đã từ bỏ Hôsê khi đang là vợ ông và cuối cùng bị bắt làm nô lệ. Hôsê đã mua chuộc bà ra khỏi cảnh nô lệ và phục hồi địa vị làm vợ của bà. Đây là một “hành động có dấu chỉ” mang tính tiên tri, thể hiện mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Israel.

Cùng với Malachi, Hôsê tạo thành một phong bì mang tính văn học bao quanh Mười hai vị tiên tri phụ. Một trong những câu nói mạnh mẽ nhất của Malachi là tiếng Chúa nói: “Ta ghét việc ly dị” (Mal 2:16). Vì vậy, Hôsê bắt đầu Nhóm Mười Hai tiên tri bằng cách miêu tả Thiên Chúa là Chàng Rể trung thành của Israel, Đấng sẽ không bao giờ bỏ rơi Israel và sẽ luôn cứu chuộc Israel, và Malachi kết thúc Nhóm Mười Hai bằng cách tuyên bố Chúa từ chối việc ly hôn. Sứ điệp gửi đến Israel khi đọc Nhóm Mười Hai là Chúa của họ sẽ luôn trung thành với họ cho đến khi họ trở về.

Trong đoạn văn hiện tại, Chúa nói qua vị tiên tri để mô tả mối quan hệ của Ngài với dân Israel như một cuộc hứa hôn và hôn nhân. Có một hồi tưởng lãng mạn về cuộc Xuất hành từ Ai Cập và cuộc hành trình xuyên qua vùng hoang dã đến Sinai:

Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó,
đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.
Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho của nó,
biến thung lũng A-kho thành cửa khẩu hy vọng.
Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân,
như ngày nó đi lên từ Ai-cập.

Cuộc Xuất hành và hành trình trong sa mạc được nhớ đến như một cuộc tỏ tình. Đây là cách nhìn các sự kiện qua lăng kính màu hồng, bởi vì câu chuyện của Cuộc Xuất Hành thực sự mô tả dân Israel liên tục lằm bằm và càu nhàu chống lại Thiên Chúa, từ Ai Cập đến Sinai. Tuy nhiên, ít nhất tại Sinai, họ đã tự nguyện tuyên bố một “lời thề hôn nhân”, “Tất cả những gì ĐỨC CHÚA đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xuất hành 24:7), và sau đó họ lãnh nhận nghi thức máu rảy khiến họ trở nên “cùng máu mủ” với Thiên Chúa (xem Xuất Ê-díp-tô Ký 24:8). “Máu giao ước” này đã làm cho dân Israel trở thành “hiền thê” của Chàng Rể là Thiên Chúa (xem Xuất Hành 4:25).

Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh [tzedeq] và chính trực [mishpat],
trong ân tình [hesed] và xót thương [rahamim];
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành [emunah],
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsê 2:21-22)

Có một cụm thuật ngữ ở đây gắn liền với ý tưởng về một giao ước. Tzedeqmishpat trong tiếng Do Thái là một cặp phổ biến thường được sử dụng theo nghĩa pháp lý để mô tả một vị vua cai trị tốt, bảo vệ quyền lợi của mọi người và trao phần quyền lợi cho mỗi người. Điều này có ý nghĩa của sự kết hôn hợp pháp, không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên hay không chính thức mà là sự kết hợp được tất cả các cơ quan có thẩm quyền công nhận và có ý nghĩa pháp lý.

Cặp từ tiếp theo, hesedrahamim, cũng thường được ghép với nhau hoặc với từ thứ ba, emunah. Hesed là từ không thể dịch được để chỉ “đặc tính tình yêu của những người bạn đời trong giao ước, một tình yêu được đặc trưng chủ yếu bởi sự chung thủy”. Rahamim là một thuật ngữ số nhiều có nghĩa đen là “dạ con/tử cung” và thể hiện tình yêu rất mật thiết như của một người mẹ dành cho con mình. Emunah được làm nên từ gốc tiếng Do Thái có nghĩa là “sự thật” hoặc “sự tin cậy”, ‘aman, mang lại cho chúng ta “amen” trong phụng vụ. Nó bày tỏ sự không dối trá hay động cơ thầm kín nào trong mối quan hệ vợ chồng và chàng rể có thể hoàn toàn được tin tưởng là sẽ chung thủy. Cuối cùng, câu nói “ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA” có ý nghĩa hôn nhân, như trong câu nói “Adam biết Evà vợ mình và bà đã thụ thai” (St 4:1, RSVCE). Nó đề cập đến kiến ​​thức cá nhân sâu sắc, trái ngược với trí tuệ khách quan hoặc không có tình cảm cá nhân.

Lời tiên tri của Hôsê giống như một lời hứa với dân Israel rằng, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, Thiên Chúa của họ sẽ tìm kiếm họ và ban cho họ một giao ước phu thê thân mật hơn những gì họ đã trải qua dưới giao ước được lập tại Sinai.--Dr. John Bergsma

Share:

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2024

Chúa Lên Trời -- Năm A

Chúa Giêsu lên trời trong đám mây. Đám mây có ý nghĩa gì? Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là gì
“Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (CV 1, 9).

Thánh Gioan Kim Khẩu là Giám mục của Constantinople, trong cuối thế ký thứ bốn, đầu thế kỷ thứ năm nói, “Nếu chúng ta nhìn vào Cựu Ước, chúng ta thấy đi thấy lại Đấng ngự trên đám mây là Thiên Chúa.” Vì thế đám mây biểu hiện tính Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là Đấng Mêsia, Ngài là Thiên Chúa.” Ví dụ: Thánh vịnh 104 nói “Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió.” Isaia 19:1 tương tự cũng nói, “ĐỨC CHÚA ngự trên đám mây bay”. Thiên thần không cưỡi mây bay, chỉ Thiên Chúa ngự xuống trong mây vinh quang và Ngài bây giờ về trời trong đám mây là dấu hiệu tính Thiên Chúa của Ngài.

Việc Chúa Giêsu lên trời cho ý nghĩa gì? Nếu bạn nhìn cẩn thận vào Kinh Thánh, bạn sẽ thấy trời có hai ý nghĩa và đây là một trong những lý do làm người ta bối rối.

Trời đơn giản chỉ về bầu trời. Nói cách khác, bầu trời hữu hình. Theo nghĩa này, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các tông đồ quyện trong đám mây. Cùng một lúc, trong Cựu Ước và Tân Ước, từ trời cũng được dùng để chỉ về cõi vô hình nơi Chúa ngự. Dân Do thái thực sự nói về nơi này là tầng trời thứ ba. Bầu trời hữu hình được coi là tầng trời thứ nhất; sau đó là bầu trời ban đêm nơi các vì sao, họ gọi đó tầng trời thứ hai; và tầng trời thứ ba là cõi vô hình vượt xa các vì sao, vượt xa khỏi vũ trụ, đó là nơi Chúa ngự.

Vì thế khi các tông đồ nhìn thấy Chúa lên trời, điều đó không là Chúa Giêsu đi qua các tầng bình lưu, sau đó vượt qua trăng, qua Sao Diêm Vương ra ngoài vũ trụ đâu đó mà đây là một biểu hiện hữu hình của việc Chúa lên trời và đi vào cõi thiên đàng về với Chúa Cha. Kinh Tin Kính không chỉ nói Chúa lên trời nhưng là Ngài “ngự bên hữu Chúa Cha.” Ngài đi vào ngai vinh quang của Thiên Chúa, cõi vô hình của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

--------

Đáp ca là từ Thánh vịnh 47, thánh vịnh này là về Thiên Chúa lên ngai vàng của Ngài. Có những thánh vịnh lên ngôi đón mừng việc lên ngôi của vua của Israel, hoặc là Đavít, hoặc là Salômôn nhưng Thánh vịnh này hỉ hoan việc Chúa lên ngôi:

Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi !
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.

Đây không có nghĩa là Chúa có một ngôi vua làm từ đá quý trên thiên đàng. Hình ảnh Chúa ngồi trên ngai biểu tượng việc Ngài là Vua cai trị trên mọi kẻ thù của Ngài. Vì khi vua đứng lên, đó là biểu tượng việc vua đi ra chiến trường. Ông sẽ rời ngai, đi ra trận chiến đánh lại kẻ thù. Một khi ông vượt thắng kẻ thù, ông về lên ngôi của mình và ngồi trên ngai vua, hiển hách cai trị mọi sự trong lãnh thổ của mình.

Chúa Giêsu không chỉ ra khỏi thế giới này, Ngài đi vào cõi của Thiên Chúa và ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Ngài ngự trị cách vinh thắng như một vị Vua của trần thế, Vua toàn thể vũ trụ. Nên Lễ Chúa Lên Trời cũng là ngày mừng kính Đức Giêsu Kitô dù là đã chịu đóng đinh, Ngài thực sự là Vua vũ trụ. Trên cây thánh giá, Ngài không có dáng vè của một vị vua, nhưng khi sống lại từ cõi chết và lên trời, Ngài cho chúng ta thấy Ngài là Chúa các chúa, Vua các vua. Qua cây thập tự, Ngài đã đánh bại mọi kẻ thù. “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình” (Do thái 2:9). Ngài là Chúa của các thiên thần, Satan bị Ngài đánh bại tơi bời. Tất cả đều được đặt dưới chân Ngài mặc dù bây giờ trên thiên đàng, Ngài cũng là người thật. Vì thế, Chúa Giêsu không chỉ cai trị vì Ngài là Thiên Chúa; là con người, Ngài thống trị mọi loài, Ngài là Vua của vũ trụ. -- Từ Dr. Brant Pitre

Share:

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2024

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Tại sao hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ vào Lễ Ngũ Tuần? Và tại sao nó lại xuất hiện trên đầu của các tông đồ? Bởi vì nó mang lại cho các tông đồ khả năng nói điều không phải ý nghĩ của họ mà là ý nghĩ của Chúa, không phải bằng lưỡi của chính họ mà với những ngôn ngữ mà họ chưa bao giờ học được từ loài người. Đây là một phép lạ từ thiên đàng.

Trong thần thoại ngoại đạo Hy Lạp, Prometheus đã đánh cắp ngọn lửa trên trời để ban cho loài người, và Zeus tức giận trước hành động từ thiện này đối với con người đến mức xích Prometheus vào một tảng đá. Nhưng trong Kitô giáo, Thiên Chúa không ghen tuông mà Ngài là tình yêu, và chính Người ban cho chúng ta ngọn lửa từ trời, Chúa Thánh Thần, sự sống của chính Thiên Chúa.

...Phép lạ của Lễ Ngũ Tuần là khi mọi người đều hiểu được ngôn ngữ của nhau, đã đảo ngược sự lao xao, bép xép của Tháp Babel, nơi ngôn ngữ bị xáo trộn. Nhân loại qua sự kiêu ngạo của mình đã xây dựng một tòa tháp vĩ đại để tấn công chính bầu trời và nói rằng: “Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời.” (Sáng Thế 11:4). Nhưng nền tảng của tòa tháp đó chỉ là niềm kiêu hãnh và sự thông minh của con người, và tòa tháp đó sụp đổ khi chính ngôn ngữ đã sụp đổ thành nhiều ngôn ngữ khiến người ta không còn hiểu nhau được nữa. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã đảo ngược sự xáo trộn về ngôn ngữ và khôi phục sự hiệp nhất giữa nhân loại, như sự nếm trước về thực tại thiên đàng, nơi tất cả chúng ta sẽ hiểu nhau và nói cùng một ngôn ngữ.

Và ngôn ngữ đó sẽ là ngôn ngữ nào? Tôi nghĩ thứ gần đúng nhất với nó trên trái đất là âm nhạc, ngôn ngữ phổ quát. Có một câu chuyện cổ của người Do Thái và Kitô giáo nói rằng Chúa tạo thành thế giới qua âm nhạc. Cả C.S. Lewis, trong Biên niên sử Narnia và J.R.R. Tolkien, trong tác phẩm Silmarillion của mình, đã sử dụng truyền thống đó trong những câu chuyện về sự sáng tạo của họ.

Lễ Ngũ Tuần “đem lại hiệu quả” bởi vì nó không kiêu căng cố gắng vươn lên trời từ dưới đất, như Tháp Babel, nhưng khiêm nhường từ trời xuống đất, như Chúa Kitô—Chúa Kitô đã nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình ; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Gioan 12:24 –25).

Đức Maria hiểu rằng đó là cách của Chúa trong bài Magnificat của Mẹ. Mẹ nói: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng caomọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.” (Lu-ca 1:51–53). Như Chúa Kitô đã nói: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt. 23:12). Tình yêu cho đi bản thân và do đó cứu lấy chính mình. Tình yêu chết và tình yêu sống lại. Không có gì không tự cho đi và chết đi sẽ được phục sinh.-- Dr. Peter Kreeft, Food For The Soul

Share:

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2024

Để chống trả cơn cám dỗ

Thân thể và tâm hồn của bạn là một, phải cùng nhau hành động

Hôm nọ nghe một linh mục trừ quỷ khuyên về việc chống trả cơn cám dỗ và lời khuyên của cha có phần trùng hợp với Đức ông Stephen Rossetti là cầu nguyện lớn tiếng (Có lẽ vì chúng ta có linh hồn và xác và chúng ta cần nói lớn tiếng để suy nghĩ của ta được bộc lộ cách rõ ràng chứ không là từ của lời cầu nguyện và ý nghĩ đến từ cơn cám dỗ bị quyện vào nhau). Video ngày 8 của sách Rèn Luyện cũng đề cập đến việc cầu nguyện lớn tiếng.

----------

“Không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra [cám dỗ] bởi vì ma quỷ rất tinh vi. Chúng có rất nhiều thời gian. Những cuộc tấn công cá nhân chúng ta thấy ngày hôm nay, không bắt đầu từ hôm qua. [Ma quỷ] đã bắt đầu từ cả thập niên trước, năm tháng trước. Ma quỷ chơi trò lâu dài; con người chúng ta chỉ có thể thấy gì cận mắt. Sự dữ xuất hiện và trở thành một phần của ta, bao trùm và gây ảnh hưởng đến bản chất và quan điểm của ta, khiến ta không chống nỗi. Sau đó bạn đi đến linh mục, xin “thuốc chữa lành” nhưng việc thoát khỏi ảnh hưởng của sự dữ cần thời gian lâu dài vì bạn đầu tư vào nó cả năm rồi.

… Tôi thường nói với những người đang vướng vào một tội lỗi mà bạn có thể gọi là nghiện, là nói không ngay lập tức, nói không khi sự cám dỗ đó xuất hiện để chạy sang một phòng khác hoặc chay ra khỏi nhà của họ theo nghĩa đen hoặc nghĩa bóng. Đi đến một địa điểm mới [Chẳng hạn ra khỏi phòng ngủ, hoặc ngồi dậy là ra khỏi trạng thái]. Và sau đó là đọc lời cầu nguyện. Nhưng họ phải nhận ra cám dỗ đó ngay từ đầu, họ phải có khả năng nhận biết. Và họ phải nói không, nói bằng môi miệng lời khước từ, đừng chỉ thì thầm. Nếu bạn cần làm điều đó 10 lần một ngày, làm điều đó 10 lần một ngày. hoặc 10 lần một tuần. Thân thể và tâm hồn của bạn là một, phải cùng nhau hành động. Hãy chống cự cám dỗ cách này, biến nó thành một phần cuộc sống của bạn. Cám dỗ đến nói KHÔNG, CHUYỂN khác nơi khác và CẦU NGUYỆN.

Share:

Chúa Lên Trời

Trọn cuộc đời của Chúa Giêsu là cho chúng ta: từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, cuộc sống ẩn dật, sứ vụ công khai, cái chết và sự phục sinh, cả việc Chúa Giêsu lên trời nữa.

Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mà chúng ta sẽ cử hành tuần tới là sự kiện làm ứng nghiệm lời hứa của Thiên Chúa trong Cựu ước: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành” (Êdêkien 36:26-27).

Chúa Giêsu lên trời và Ngài gửi Thánh Thần Chúa để chúng ta được thánh hóa và có thể gọi Chúa là “Áp-ba, Cha ơi!” (Rôma 8:15).

Chúa Giêsu, Đấng đã tự hạ mình, trút bỏ vinh quang Thiên, mang thân phận nô lệ của con người, nay được tôn vinh để ngồi bên hữu Chúa Cha trong thân xác phục sinh của Ngài. Là Nhiệm thể của Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được sống lại vinh quang và được đưa vào bản thế của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là lý do viết: "Vì Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa" (GLCG #460). Vì thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, được kết hợp làm một với Ngài để khi Chúa Cha nhìn vào họ, Chúa Cha thấy nơi họ, hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô: “Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rôma 8:29).

Chúa Giêsu nay luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta: “Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Híp-ri 7:24-25).

“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển ; là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa, khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.”

Share:

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2024

Chúa thích nghe chúng ta hát lời ca tụng những kỳ công của Ngài

Tác giả Thánh vịnh viết: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công”. Những gì Chúa đã làm thật là kỳ diệu. Ngài đã tạo dựng toàn bộ vũ trụ từ hư không. Ngài đã tạo ra loài người theo giống hình ảnh của Ngài, có lý trí và ý chí tự do (free will). Ngài đã thực hiện nhiều việc vĩ đại cho chúng ta; Ngài sai các ngôn sứ đến với chúng ta. Trên hết mọi sự, Ngài đã sai Con Một đến với chúng ta, là người như chúng ta cũng không ngừng là Thiên Chúa, sống một cuộc sống hoàn hảo và chết một cái chết hoàn hảo để cứu chúng ta khỏi tội lỗi của chính mình. Ngài chiến thắng sự chết, phục sinh và lên trời. Ngài sẽ trở lại trong tương lai để thiết lập một công cuộc sáng tạo mới với vẻ đẹp, sự tốt lành và niềm vui không thể tưởng được. Đây không chỉ là một chuỗi những sự thật vĩ đại: nó là một chuỗi những hành động vĩ đại, những sự kiện vĩ đại; đó là tin mừng. Trên thực tế, là tin mừng vĩ đại nhất từ trước đến nay, những việc làm vĩ đại nhất từng được thực hiện, câu chuyện vĩ đại nhất từng được kể.

Vậy chúng ta phản ứng thế nào trước những việc Chúa đã làm?

Câu trả lời không nói với chúng ta sự gì về việc Chúa làm, nhưng tất cả mọi sự về bản thân ta. Nếu chúng ta phản ứng về chiến tranh hoặc một đại dịch bằng niềm vui, hoặc nếu chúng ta phản ứng với chiến tranh kết thúc hoặc đại dịch đã chấm dứt với nỗi buồn, thì chúng ta đang là kẻ điên rồ về mặt đạo đức. Nhưng dù chúng ta có thay đổi thế nào, sự thật vẫn không hề thay đổi; khi chúng ta trở nên điên loạn về mặt đạo đức, chiến tranh và bệnh tật không trở nên ít xấu xa hơn, hòa bình và sự chữa lành không trở nên kém tốt đẹp hơn. Nếu chúng ta phản ứng với tin xấu theo cùng cách phản ứng như khi chúng ta phản ứng với tin tốt thì chúng ta thực sự đã chết về mặt tâm linh. Nếu chúng ta phản ứng với những tin mừng nhỏ bé của mình với niềm đam mê mạnh mẽ hơn là phản ứng với tin mừng long trời lở đất của Phúc Âm (*người dịch: điều đó thực sự đã xảy ra nha bạn: động đất và người chết ra khỏi mồ khi Chúa chết trên cây thánh giá), nếu chúng ta quan tâm đến việc đội thể thao yêu thích của chúng ta giành chức vô địch hơn là quan tâm đến việc Chúa cứu chúng ta khỏi địa ngục và ban cho chúng ta một vé lên thiên đường, điều đó chứng tỏ điều gì? Nó chứng tỏ rằng chúng ta tội lỗi và ích kỷ nhưng lại cực kỳ ngu ngốc, nông cạn một cách ngoạn mục, ngớ ngẩn một cách siêu nhiên.

Một vị thánh vĩ đại như vua Đa-vít, tác giả của Thánh vịnh không phải là người ngu ngốc, nông cạn hay ngớ ngẩn. Vậy ông phản ứng thế nào trước tin vui hết sức kinh ngạc là Thiên Chúa, Đấng toàn năng, rất mực khôn ngoan, Đấng chí thánh của toàn vũ trụ yêu thương ông, quan tâm đến ông và thực hiện hàng loạt hành động đáng chú ý nhất cho anh ta?

Vua Đavít hát. Và ông cũng kêu gọi chúng ta hãy ca hát.

Lời Chúa không mời chúng ta biểu diễn mà chỉ mời chúng ta ca hát. Lời ấy không bảo chúng ta “Hãy hát thật hoàn hảo,” hay thậm chí là “Hát đúng phím,” mà chỉ đơn giản là “Hát!” Lời Chúa mời gọi chúng ta “Hãy vui vẻ tung hô Chúa , hỡi toàn thể địa cầu” (Thánh vịnh 100:1). Nếu bạn có miệng, bạn có thể làm được điều đó. Chúa đã cho bạn một cái miệng không chỉ để ăn, không chỉ để nói mà còn để ca hát.

Nếu bạn cảm thấy xấu hổ khi nghe giọng nói của chính mình, đó không phải là lý do, bởi vì hơn một nửa số người đến nhà thờ cũng cảm thấy giống như bạn. Chúa có thể lắng nghe các thiên thần của Ngài bất cứ lúc nào Ngài muốn và họ có thể hát hay hơn bất kỳ ai trong chúng ta, vì vậy Ngài không cần sự hoàn hảo về âm nhạc của chúng ta; nhưng có một điều Ngài vô cùng mong muốn, và là điều Ngài không thể tự mình trao tặng hay làm tất cả: Ngài muốn chúng ta tự do trao ban cho Ngài tình yêu của trái tim chúng ta. Ca hát là thể hiện tình yêu đó. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle B)

Share:

Blog Archive

Blog Archive