Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

Lễ Thăng thiên và thân xác

Sách Quý Trọng Thân Xác Mình

Thiên Chúa là Đấng thuần linh, nhưng chính Người đã thiết kế và tạo dựng vũ trụ vật chất. Vũ trụ không phải là một cỗ máy hay một câu đố, mà là một tác phẩm nghệ thuật – và nghệ thuật luôn bày tỏ con người nghệ sĩ. Vậy các tầng trời mặc khải điều gì? Chúng đang nói gì với chúng ta? Kinh Thánh trả lời cách đơn giản “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” (Tv 19,2).

Vũ trụ là một thánh đường khổng lồ. Thiên Chúa dựng nên nó vì con người, chứ không phải vì những chất khí hay dải ngân hà. Và khoa học của chúng ta ngày càng khám phá ra rằng vũ trụ này huyền nhiệm, kỳ diệu và vĩ đại hơn chúng ta từng tưởng tượng.

Lần tới khi bạn bị cám dỗ xem nhẹ năng lượng thiêng liêng nơi vật chất, hãy ngồi dưới ánh nắng mặt trời trong mười phút và nhận ra rằng bạn không chỉ đang cảm thấy hơi nóng vô tri mà là cảm nhận được hơi ấm của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đang cố gắng nói với chúng ta điều gì đó qua mọi điều Người đã dựng nên. Và điều Người muốn nói là: Người yêu thương chúng ta.

Tình yêu không chỉ thuần túy mang tính thiêng liêng, không chỉ là một cảm xúc chủ quan, một ước muốn hay một thái độ nội tâm; tình yêu còn là một hành động, một thực tại, một sức mạnh, một việc làm cụ thể.

Lễ Thăng Thiên cho chúng ta thấy vật chất quý giá dường nào đối với Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu từ trần gian lên trời, Người không bỏ lại thân xác của mình. Việc Chúa lên trời không phải là sự đảo ngược của mầu nhiệm Nhập Thể. Ngay cả trên thiên đàng, Chúa Giêsu vẫn giữ thân xác đã phục sinh, đã được tôn vinh của mình. Và chúng ta cũng sẽ có thân xác giống như thế.

C.S. Lewis từng nói rằng: Thiên Chúa ban cho chúng ta thân xác tạm thời này cũng như người ta cho học sinh cưỡi những chú ngựa con – để tập cưỡi, chuẩn bị cho ngày mai cưỡi những chiến mã trên thiên quốc. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Ngài có thể cảm thông với chúng ta: Chúa lên trời

Việc Chúa Thăng Thiên có nghĩa là chúng ta có một vị Thượng Tế trên trời, Đấng có thể cảm thông với những yếu đuối của chúng ta, bởi vì Người đã từng mang lấy thân phận con người. Trước hết, chúng ta khẳng định rằng trên thiên đàng hiện diện một bản tính nhân loại. Khi Thiên Chúa xuống thế, Người đã mặc lấy bản tính nhân loại. Bản tính nhân loại ấy đã được hiến dâng trong lửa hy tế tại đồi Canvê để đền tội cho nhân loại; đã phục sinh và giờ đây thăng thiên.

Có một sự liên tục giữa mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Thăng Thiên. Trong mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa đã mặc lấy một thân xác — đúng vậy — nhưng không chỉ để chịu đau khổ. Nếu chỉ để chịu khổ vì chúng ta, thì Người đã có thể chỉ giữ lấy thân xác ấy trong một thời gian ngắn. Nếu Người chỉ mang lấy bản tính nhân loại để đền tội, tại sao Người không cởi bỏ bản tính ấy sau khi hoàn tất cuộc khổ nạn? Rốt cuộc, "áo" của Người đã bị lấm bẩn và dính máu, đã gánh chịu cái nắng và gánh nặng của trần gian. Vậy tại sao không bỏ đi?

Nhưng bản tính nhân loại ấy không chỉ được mang lấy để đền tội cho nhân loại. Mục đích cuối cùng và trọn vẹn của việc Thiên Chúa đến trần gian là để đưa chúng ta vào trong sự hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Cha.
Và làm sao Người thực hiện điều đó? Người thực hiện bằng cách chứng tỏ rằng xác thịt của chúng ta không phải là rào cản cho sự thân mật ấy; Người đem chính thân xác ấy lên trời, và cho thấy rằng những ai bước qua thử thách và đau khổ trong đời này sẽ được hiển vinh cả thân xác.

Khi chúng ta chia sẻ thập giá với Đức Kitô, chúng ta cũng chia sẻ vinh quang với Người. Mục tiêu của toàn thể nhân loại theo một cách nào đó được hoàn tất trong mầu nhiệm Thăng Thiên. -- ĐTGM Fulton Sheen

Share:

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2025

Ba Ngôi Thiên Chúa trong tôi - CN thứ VI mùa Phục sinh, năm C

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. (14,23-29)

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

27 “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28 Anh em đã nghe Thầy bảo : ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”

Đoạn Tin Mừng này giống như một mỏ vàng. Sau đây chỉ là một vài viên ngọc quý trong đó.

Thứ nhất, Chúa Giêsu nói rằng “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” – Chúa Giêsu, Cha Ngài, và Chúa Thánh Thần sẽ đến và ở với chúng ta. Cả ba Ngôi vị đến sống vĩnh viễn trong linh hồn chúng ta. Chúa Cha là Vua của chúng ta, là Chúa của chúng ta, là Cha của chúng ta, mãi mãi. Đức Kitô là Tư tế của chúng ta, là Đấng trung gian, là Đấng cứu độ của chúng ta, mãi mãi. Chúa Thánh Thần là ngôn sứ của chúng ta, là nguồn cảm hứng của chúng ta, là ánh sáng của chúng ta, mãi mãi.

Thứ hai, Chúa Giêsu nói rằng những ai yêu mến Ngài thì tuân giữ lời Ngài, tuân giữ các điều răn của Ngài. Chúng ta thường mắc sai lầm khi xem tình yêu chỉ là một cảm xúc chủ quan và sự vâng lời chỉ là một hành vi khách quan. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng hai điều này thực sự là một: rằng tình yêu không chỉ là cảm xúc chủ quan mà là một đời sống, một sự chọn lựa, một hành động; và rằng việc tuân giữ lời Ngài, các điều răn của Ngài, không chỉ là cử chỉ thực hiện bên ngoài; nó được thúc đẩy bởi tình yêu, sự sống của nó là tình yêu, linh hồn của nó là tình yêu.

Thứ ba, Chúa Giêsu nói rằng lời của Ngài, giáo huấn của Ngài, không phải là của riêng Ngài mà là của Cha Ngài. Về mặt tư duy, Chúa Giêsu là người đạo văn vĩ đại nhất trong lịch sử, Ngài không tự mình suy ra điều gì cả. Mọi tư tưởng trong tâm trí Ngài đều đến từ Chúa Cha. Đồng thời, Ngài cũng là người sáng tạo và nguyên bản nhất trong lịch sử. Nếu bạn muốn có trí sáng tạo và độc đáo, Chúa Giêsu chỉ cho bạn bí quyết. Ngài là Logos, là Trí Tuệ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng nói rằng Ngài đến thế gian không để làm theo ý riêng của mình mà là ý của Cha. Chúa Giêsu là người sống đời vâng phục nhất và cũng là người tự do nhất. Nếu bạn muốn được tự do, Chúa Giêsu chỉ cho bạn bí quyết: làm theo ý Chúa Cha. Điều đó sẽ giải thoát bạn; còn ý riêng của bạn sẽ khiến bạn bị lệ thuộc vào nó như kẻ nghiện và bị nô lệ.

Thứ tư, Chúa Giêsu nói rằng Chúa Thánh Thần sẽ nhắc nhở các Tông đồ về mọi điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Đó là lý do tại sao chúng ta có bốn cuốn Tin Mừng phong phú, đầy đủ và sâu sắc từ bốn người nông dân bình thường, ít học ở thế kỷ thứ nhất. Tác giả chính của họ là Chúa Thánh Thần. Hãy nhớ điều đó khi bạn đọc chúng.

Thứ năm, Chúa Giêsu nói rằng Ngài để lại bình an cho chúng ta như một món quà, nhưng đây không phải là sự bình an mà thế gian có thể ban cho. Đó là sự bình an với Thiên Chúa, với bản thân và với tha nhân, chứ không phải với thế gian, xác thịt và ma quỷ. Chúa Giêsu cũng nói rằng Ngài đến không phải để đem bình an mà là để đem chiến tranh: chiến tranh với thế gian, xác thịt và ma quỷ, với lòng tham, dục vọng và kiêu ngạo. Giữa hai loại bình an này hiện hữu một sự xung đột. Cuộc sống là một cuộc chiến thiêng liêng, cuộc chiến giữa hai loại bình an. Hai phe không có điểm nào chung; chúng hoàn toàn đối lập nhau. Bình an của Chúa Giêsu không có nghĩa là một sự khoan dung mơ hồ, uể oải, dễ dãi, không phân biệt với mọi thứ. Nó có nghĩa là không khoan dung với tội lỗi và tính ích kỷ trong chính bạn. Bình an của Ngài không phải là bình an của thế gian.

Thứ sáu, Chúa Giêsu nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vui mừng vì Thầy đi về cùng Cha.” Tại sao? Tại sao việc có Chúa Thánh Thần sau lễ Hiện Xuống lại tốt hơn là có Chúa Giêsu hiện diện bằng xương bằng thịt? Chẳng phải sẽ tốt hơn nếu Chúa Giêsu vẫn còn ở trần gian, nếu Ngài đã không về với Chúa Cha sao? Không. Bởi vì chúng ta có Thánh Thần của Ngài, nên chúng ta có Chúa Giêsu cách trọn vẹn hơn, sâu xa hơn, thân mật hơn so với trước khi Chúa Thánh Thần ngự xuống.

Mục tiêu của tình yêu luôn là sự thân mật, và Thiên Chúa trở nên thân mật hơn với chúng ta qua ba giai đoạn mạc khải: trước hết, Chúa Cha tỏ mình trong Cựu Ước; Chúa Con, trong Tân Ước; và sau đó, Chúa Thánh Thần, trong Giáo Hội. Trước hết, Thiên Chúa ở trên chúng ta; sau đó, Ngài ở với chúng ta; và cuối cùng, Ngài ở trong chúng ta. Trước tiên, Ngài ở bên ngoài chúng ta; rồi, Ngài ở bên cạnh chúng ta; và sau cùng, Ngài ở bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần giống như một sự “ám ảnh” tốt lành bởi một “hồn thiêng” thánh thiện. Chúng ta đang sống trong thời kỳ có đặc ân thiêng liêng lớn nhất trong lịch sử.

Thứ bảy, Chúa Giêsu nói: “Cha thì cao trọng hơn Thầy.” Bằng cách nào? Không phải vì Cha có những phẩm tính mà Con không có. Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là đã thấy Cha” (Gioan 14:9). Thánh Phaolô, trong thư Côlôsê, nói rằng “trong Người, tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa đã vui lòng ngự trị” (Cl 1:19). Ngài ngang hàng với Chúa Cha, nhưng lại vâng phục ý Cha. Sự vâng phục, việc từ bỏ ý riêng, không phải là dấu hiệu của sự thấp kém. Thánh Phaolô dạy chồng và vợ hãy “phục tùng nhau” (xem Ep 5:21). Trong trật tự xã hội mới, đầy tính cách mạng của Chúa Giêsu, điều này không phải là sự hạ thấp hay áp bức, mà là sự tự do. Đó là điều tình yêu làm. Đó là điều Ngài đã làm.

Mỗi điểm trong bảy điểm trên từ đoạn văn ngắn này đều đáng có một cuốn sách riêng. Kinh Thánh là như thế: sau hai ngàn năm và khoảng hai triệu cuốn sách viết về nó, người ta vẫn không thể khai thác hết sự phong phú của nó được. Nó giống như biển cả; chúng ta thường chỉ thấy bề mặt. Nhưng có rất, rất nhiều loài cá lạ lùng và tuyệt vời ở dưới đáy. Hãy đi câu cá, hãy đi lặn xuống biển đó. Nếu bạn chưa có một cuốn Kinh Thánh, hãy mua một cuốn. Hãy sử dụng nó. Hãy đọc nó. Hãy sống nó. Hãy cầu nguyện với cuốn Kinh Thánh đó. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thành thánh từ trời xuống -- Bài đọc 2 CN VI Mùa Phục sinh, năm C

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ (21,10-14;22-23)

10 Tôi là Gio-an, đang khi tôi xuất thần, thì một thiên thần đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12 Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

-----

Đoạn sách Khải Huyền này có những hình ảnh rất lạ lùng. Một thành phố vĩ đại, sáng ngời, vinh hiển, bằng vàng rực rỡ từ trời xuống – từ Thiên Chúa. Chúng ta chưa từng thấy một thành phố nào từ trời rơi xuống như tuyết; các thành phố thường được dựng nên, như cây mọc lên từ đất. Chúng được làm từ vật chất trần gian. Nhưng thành phố này thì khác. Kiến trúc sư và đấng xây dựng thành phố này chính là Thiên Chúa. Vậy thành phố đó là gì?

Đó chính là thành của Thiên Chúa. Nhưng không chỉ là một tập hợp các tòa nhà. Thánh Augustinô – người đã viết một tác phẩm kinh điển về Giáo Hội trong dòng lịch sử – đã đặt tên cho tác phẩm đó là Thành của Thiên Chúa. Ngài định nghĩa “thành” là một cộng đoàn con người, không chỉ là một nơi chốn hay công trình vật chất, và là một dân tộc được hiệp nhất bởi tình yêu – bởi việc cùng yêu một điều gì đó. Đối với Giáo Hội, điều ấy chính là Đức Kitô.

Vì vậy, “thành của Thiên Chúa” là một hình ảnh mô tả Giáo Hội. Hai hình ảnh khác từ thời hiện đại là: “Nhiệm Thể của Đức Kitô” theo Thông điệp nổi tiếng của Đức Giáo Hoàng Piô XII, và “Dân Chúa” theo Công đồng Vaticanô II.

Con người vừa hữu hình vừa vô hình, vì có cả thân xác và linh hồn. Cũng vậy, Giáo Hội vừa là thực tại hữu hình vừa là vô hình.

Giáo Hội vô hình vì được tạo thành bởi tình yêu – bởi tình yêu dành cho Đức Kitô. Giáo Hội hữu hình vì là Thân Thể của Đức Kitô. Giáo Hội không chỉ là một thực thể thiêng liêng, cũng không đơn thuần là tổ chức vật chất; nhưng là cả hai.

Bạn cũng như vậy. Bạn là một con người, vừa là thể xác vừa là linh hồn. Đó không phải là hai thực thể tách biệt, mà là hai chiều kích của cùng một con người. Bạn không “có một thân xác” như có một căn nhà hay chiếc xe – bạn là một thân xác. Và bạn cũng là một linh hồn, không phải bạn “có một linh hồn”. Bạn không tự gọi mình là “chúng tôi” mà là “tôi”.

Cũng như bạn và thân xác bạn là một, thì Đức Kitô và Thân Thể của Ngài, là Giáo Hội cũng là một. Vì thế, Giáo Hội và Đức Kitô là một thực tại duy nhất. Thành thánh mà thánh Gioan thấy từ trời xuống chính là Đức Kitô! Ngay từ bây giờ, dù còn bất toàn, chúng ta đã sống trong Ngài; và khi Ngài trở lại trong ngày tận thế, chúng ta sẽ sống trong Ngài cách trọn vẹn.

Chúng ta sống trong Đức Kitô không chỉ theo cách cá nhân, nhưng là cùng nhau trong cộng đoàn. Không phải mỗi người tìm đến Đức Kitô rồi sau đó mới hình thành nên Giáo Hội – đó là cách nghĩ của Tin Lành. Chúng ta vào trong Đức Kitô bằng việc được rửa tội vào Thân Thể của Ngài là Giáo Hội. Giáo Hội không đơn thuần là một tổ chức hữu hình nhân loại; Giáo Hội là Thân Thể vô hình nhưng là thân thể thật của Đức Kitô. Không phải là một tổ chức, mà là một thực thể sống động thiêng liêng. Chúng ta là những tế bào sống trong Thân Thể ấy. Chúa Kitô và Thân Thể của Ngài, tức là Giáo Hội, là một thực tại duy nhất, cũng như bạn và thân thể của bạn là một thực tại duy nhất.

Đức Kitô là gì đối với Giáo Hội, thì linh hồn bạn là vậy cho thân xác bạn. Linh hồn bạn không phải là một “bóng ma”, và thân xác bạn không phải là “ngôi nhà ma ám”. Linh hồn bạn và thân xác bạn là một. Đức Kitô và Giáo Hội cũng vậy – là một.

Thánh Jeanne d’Arc từng được Chúa hiện ra. Khi bị các chức sắc trong Giáo Hội tra hỏi và tố cáo là chống đối Giáo Hội vì bất đồng với họ, thánh nữ trả lời bằng sự đơn sơ thánh thiện: “Về Chúa Giêsu và Giáo Hội, con chỉ biết rằng hai điều ấy là một. Chúng ta không nên làm cho sự việc trở nên phức tạp.”

Thành thánh mà thánh Gioan thấy có mười hai cổng với mười hai thiên thần, và mười hai nền tảng. Đó là biểu tượng cho mười hai chi tộc Israel và mười hai Tông Đồ của Chúa Giêsu. Các giám mục ngày nay là những người kế vị của các Tông Đồ. Số mười hai cũng được phản ánh trong hệ thống bồi thẩm đoàn, khi người ta trao quyền quyết định những vấn đề nghiêm trọng cho mười hai người thường dân (của nước Mỹ).

Thành có bốn cổng quay về bốn hướng: đông, tây, nam, bắc – để biểu tượng cho việc quy tụ toàn thể nhân loại. Đó là ý nghĩa của từ “Công giáo” – nghĩa là phổ quát, toàn cầu. Giáo Hội không phân biệt chủng tộc hay quốc gia, nhưng chỉ phân biệt giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, Đức Kitô và phản Kitô. Như Solzhenitsyn đã nói:

“Đường ranh giữa thiện và ác không nằm giữa các dân tộc hay chính phủ, mà chạy xuyên qua trái tim của mỗi con người.”

Chi tiết cuối cùng gây bất ngờ: trong thành không có đền thờ. Tại sao? Vì thành ấy chính là Giáo Hội. Bởi vì thành này chính là Giáo Hội. Khi nhìn từ quan điểm của thiên đàng và thành thánh, Giáo Hội lớn hơn cả thế gian. Chúng ta thường thấy Giáo Hội như một sự gì nhỏ bé bị bao quanh bởi nhiều thứ khác – những điều trần tục – trong một thế giới bao la. Nhưng thay vì xem Giáo Hội như một phần nằm trong thế gian, thị kiến của Gioan lại thấy thế gian là một phần nằm trong Giáo Hội. Giáo Hội lớn hơn những gì ta thấy; Bên trong Giáo Hội lớn hơn so với bên ngoài. Về mặt thể lý, nó nhỏ hơn thế gian; nhưng về mặt thiêng liêng, nó lớn hơn rất nhiều. Nó thậm chí còn lớn hơn tất cả các thiên hà, bởi vì các thiên hà không có linh hồn, chỉ có thân xác, trong khi Giáo Hội có cả hai.

Giáo Hội giống như một chuồng bò nhỏ ở Bê-lem cách đây hai ngàn năm, hoặc như cung lòng của Mẹ Maria, nơi từng chứa đựng Đấng đã tạo dựng cả vũ trụ. Giáo Hội lớn hơn ở bên trong so với bên ngoài. Và bạn cũng giống như vậy: bạn cũng lớn hơn ở bên trong so với bên ngoài; linh hồn bạn lớn hơn thân xác bạn. Linh hồn bạn chứa đựng thân xác bạn, chứ không phải ngược lại. Linh hồn bạn không bị giới hạn trong thân xác. Não bộ bạn nằm trong thân xác, nhưng linh hồn bạn không phải là não bộ. Linh hồn bạn là sự sống của toàn bộ thân xác bạn, bao gồm cả não bộ. Linh hồn bạn giống như ý nghĩa của một vở kịch, còn thân xác bạn giống như sân khấu vật lý của vở kịch ấy. Về mặt thể lý, vở kịch bị giới hạn bởi sân khấu; nhưng về mặt thiêng liêng, sân khấu lại nằm trong vở kịch – nó là một chiều kích của vở kịch đó.

Trong thành thánh không có đền thờ hay ánh sáng mặt trời, vì cả hai chỉ là dấu chỉ tạm thời, là món khai vị cho bàn tiệc chính đã được dọn ra. Thánh Gioan viết:

“Thành chẳng cần mặt trời hay mặt trăng chiếu sáng, vì vinh quang Thiên Chúa là ánh sáng cho thành, và đèn của thành là Chiên Con.”

Mọi sự tốt lành, chân thật và đẹp đẽ trong thế gian này chỉ là dấu chỉ báo trước, là manh mối, là lời gợi mở cho điều thật sự lớn lao hơn đang đến.

Và điều đó là gì? Chúng ta chưa biết rõ. Nhưng chúng ta biết chắc rằng nó sẽ hơn – chứ không phải kém. Chúng ta biết về thế giới tương lai cũng như một đứa bé trong bụng mẹ biết về thế giới này vậy.

Kinh Thánh mô tả thiên đàng thế này: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Thiên Chúa đã mặc khải cho chúng ta qua Chúa Thánh Thần” (1 Cr 2,9–10). -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Chúa Ki-tô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc

Trích bài giảng của Chân phước I-xa-ác, viện phụ đan viện Sao Mai.

Như đầu và thân của một người chỉ là một người mà thôi, thì người con của Đức Trinh Nữ cùng với các chi thể được tuyển chọn của Người chỉ là một người và là Con Người duy nhất. Kinh Thánh nói : Đức Ki-tô toàn thể và toàn vẹn gồm đầu và thân. Quả vậy, mọi chi thể cùng làm nên một thân thể. Thân thể đó cùng với đầu là một con người duy nhất. Con người này cùng với Con Thiên Chúa là người con duy nhất của Thiên Chúa. Chính người con này cùng với Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất.

Như vậy, tất cả thân thể cùng với đầu là Con Người và Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Bởi đó mới có lời rằng : Lạy Cha, con muốn rằng : như Cha và con là một, thì họ cũng nên một với chúng ta.

Vì thế, theo nghĩa quen thuộc trong Kinh Thánh, nếu không có đầu thì chẳng có thân ; nếu không có thân thì chẳng có đầu ; nếu không có Thiên Chúa thì chẳng có đầu, chẳng có thân, cũng chẳng có Đức Ki-tô toàn thể.

Bởi vậy, tất cả cùng với Thiên Chúa là một Thiên Chúa. Nhưng Con Thiên Chúa kết hợp với Thiên Chúa theo bản tính ; Con Người kết hợp với Con Thiên Chúa theo ngôi vị ; còn thân thể kết hợp với Con Người theo bí tích.

Vậy, các chi thể của Đức Ki-tô là các tín hữu, những con người có lý trí, có thể thành thật nói rằng Đức Ki-tô thế nào thì mình cũng thế, nghĩa là mình cũng là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Nhưng Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa theo bản tính, còn họ là nhờ được chung phận. Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa một cách sung mãn, còn họ là nhờ được thông phần. Cuối cùng, Người là Con Thiên Chúa vì được Thiên Chúa sinh ra, còn các chi thể của Người là do được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử, như đã chép : Anh em đã lãnh nhận Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên : “Áp-ba ! Cha ơi !”

Cùng với Thần Khí đó, Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa, để họ được Vị Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc đặc biệt dạy cho biết nói lên rằng : Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời. Và chỗ khác : Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em.

Vì chưng nhờ Thần Khí, Người đã sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ, làm Con Người, Đầu của chúng ta, thế nào, thì cũng nhờ Thần Khí đó, từ giếng nước thánh tẩy, chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa, thân mình của Người như thế. Người hoàn toàn vô tội thế nào, thì chúng ta cũng được tha mọi tội lỗi như thế.

Vì cũng như Người mang lấy mọi tội lỗi của toàn thân vào thân xác mình mà mang lên cây thập giá thế nào, thì nhờ ơn tái sinh, Người cũng ban cho thân mình thiêng liêng ơn này, là không còn bị hạch tội nào nữa, như có lời chép : Hạnh phúc thay người Chúa không hạch tội. Con người hạnh phúc ấy hẳn là chính Đức Ki-tô. Xét như Người là đầu, tức là Thiên Chúa, thì Người tha tội ; xét như Người là đầu của thân thể, tức là một con người như mọi người, thì Người không có tội gì để được tha ; xét như Người là thân mình của đầu, gồm nhiều người, thì không bị Thiên Chúa hạch tội.

Bản thân Người là Đấng Công Chính, nhưng lại làm cho mình nên công chính. Chỉ mình Người là Đấng Cứu Độ và chỉ mình Người được cứu độ. Cái Người đã mang lấy vào thân mà đem lên thập giá, thì Người đã dùng nước mà tẩy xoá khỏi thân mình. Khi lại dùng thập giá và nước mà cứu độ muôn người, thì Chiên Thiên Chúa, Đấng mang lấy tội trần gian mà xoá đi, là tư tế, tế phẩm và là Thiên Chúa. Do đó, khi dâng mình cho mình, Người đã nhờ mình mà hoà giải mình với mình, như với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. -- Bài đọc 2 của Kinh Sách cho thứ Sáu tuần thứ V mùa Phục sinh

Share:

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

Ơn Tha Thứ Tông Tòa Mang Lại Ơn Toàn Xá Trước Khi Qua Đời

NIỀM AN ỦI CHO NGƯỜI HẤP HỐI. Ơn tha thứ tông tòa là một ân xá để tha mọi hình phạt tạm thời do tội gây ra, được ban cho người sắp qua đời đang ở trong tình trạng ân sủng.

Khi vị linh mục tuyên uý Công giáo đi thăm các bệnh nhân tại Bệnh viện St. Alexius ở Bismarck, North Dakota, cha bước vào phòng của bà Anne Ulmen, 95 tuổi, người vừa mới bị đột quỵ. Con gái bà, Margaret Sitte, đã hỏi vị linh mục liệu ngài có thể ban các bí tích sau hết cho mẹ cô không. Các bí tích này bao gồm: giải tội, xức dầu bệnh nhân, và của ăn đàng (rước lễ lần cuối, như lương thực cho cuộc hành trình vĩnh cửu).

“Chị có muốn tôi ban cho bà cụ Ơn Tha Thứ Tông Tòa không?” vị linh mục hỏi. Dù Sitte là người Công giáo suốt đời, cô chưa từng nghe về điều này. Vị linh mục giải thích rằng đây là một ân xá tha mọi hình phạt tạm thời do tội lỗi, được ban cho người sắp qua đời đang trong tình trạng ân sủng.

Nói cách khác, giống như Chúa Giêsu đã hứa với người trộm lành vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh rằng “hôm nay anh sẽ ở với Ta trên thiên đàng,” thì người Công giáo chuẩn bị tâm hồn xứng đáng và lãnh nhận ơn tha thứ tông tòa cũng sẽ được vào thiên đàng.

Ơn Toàn Xá

Ơn tha thứ tông tòa thường được ban cùng với các bí tích sau hết. Sách Hướng Dẫn về Ân Xá, số 28 viết:

“Các linh mục chăm sóc các tín hữu Công giáo trong tình trạng nguy tử không được bỏ qua việc ban phép lành tông tòa, kèm theo ơn toàn xá.”

“Nhưng nếu không có linh mục hiện diện, Mẹ Giáo hội vẫn rộng lòng ban ơn toàn xá cho người sắp qua đời, nếu họ sống trong ân sủng và từng cầu nguyện trong cuộc sống. Việc sử dụng thánh giá hay tượng chịu nạn được khuyến khích khi lãnh nhận ơn toàn xá này. Trong trường hợp khẩn cấp như vậy, ba điều kiện thông thường để được ơn toàn xá (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng) sẽ được thay thế bằng điều kiện: ‘đã cầu nguyện thường xuyên trong cuộc đời.’”

Khi Sitte hiểu ý nghĩa của ơn tha thứ tông tòa, cô lập tức đồng ý.

“Ai lại không muốn chứ?” cô nói. “Việc ấy mang đến cho mẹ tôi sự an ủi rất lớn. Bà không sợ chết, nhưng tôi cảm nhận rằng bài nguyện ấy đã đem lại cho bà một sự bình an sâu xa.”

Dù bà Ulmen không được kỳ vọng sống lâu hơn, nhưng sau đó bà đã được xuất viện và sống thêm ba tháng.

Một Tình Huống Khẩn Cấp

Năm 2006, khi Eric Bergman nghĩ rằng mình sắp chết, điều đầu tiên anh nghĩ đến là lãnh nhận các bí tích cuối đời. Là một cựu linh mục Anh giáo ở Scranton, Pennsylvania, anh và vợ Kristina chỉ mới gia nhập Giáo hội Công giáo hai tháng trước đó.

Nhiều năm liền, Bergman phải chịu đựng những cơn đau do viêm túi mật bị chẩn đoán sai. Ngày 14/1/2006, anh lên cơn đau dữ dội chưa từng có và được đưa đi cấp cứu. Bác sĩ cho biết túi mật phải được cắt bỏ ngay lập tức.

Đức ông William Feldcamp đến ban các bí tích trong khi Bergman đang được chụp cắt lớp. “Cha sẽ giải tội cho tôi, nên xin cô ra ngoài,” anh nói với kỹ thuật viên.

“Không, tôi không thể rời phòng trong lúc thủ thuật đang tiến hành,” cô đáp.

Bergman nhìn vị linh mục đầy lo lắng. “Đừng lo,” Đức ông nói. “Cha sẽ xức dầu cho con bây giờ, còn xưng tội thì để sau.”

Ngay trước khi Bergman được đưa vào phòng mổ, Đức Cha John Dougherty đã đến bệnh viện để nghe anh xưng tội và cầu nguyện cho anh.

“Tôi biết mình phải sẵn sàng, và tôi cảm thấy mình đã sẵn sàng,” anh nói. “Tôi bình an. Tôi không lo cho bản thân, nhưng tôi nghĩ về vợ và ba đứa con.”

Khi tỉnh lại trong phòng hồi sức, vợ anh đang khóc nức nở bên giường.

“Có chuyện gì sao?” anh hỏi.

“Không, không có gì cả,” cô khóc. “Em chỉ mừng vì anh còn sống.”

Bergman tin rằng chính quyền năng của các bí tích đã chữa lành anh.

Bergman hồi phục và mạnh khoẻ hơn trước, nhờ đó anh được truyền chức phó tế vào ngày 24/3/2007. Sau đó, ngày 21/4/2007, nhờ “Quy Định Mục Vụ” của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, anh được truyền chức linh mục. Vì 50 thành viên trong cộng đoàn cũ đã theo anh vào Giáo hội, Cha Bergman giờ đang chăm sóc chính những người anh từng hướng dẫn khi còn là mục sư Anh giáo. Bergman hiện là chánh xứ St. Thomas More tại Nhà thờ St. Joseph, Scranton, thuộc giáo phận đặc biệt Ordinariate of the Chair of St. Peter.

“Tôi từng là tuyên úy tại Bệnh viện Mercy ở Scranton suốt một năm và vẫn thường xuyên trực đêm,” cha kể. “Chỉ mới đêm qua, lúc 3 giờ sáng, tôi đã ban các bí tích cuối cùng và Ơn Tha Thứ Tông Tòa.”

Lời cầu nguyện của ơn tha thứ tông tòa được đọc sau khi các bí tích đã được ban.

“Lần sau khi tôi dâng lễ,” Cha Bergman nói, “tôi sẽ nhớ đến linh hồn người hấp hối như là ý lễ riêng cho ngày đó, với niềm bình an sâu sắc vì chúng ta đã làm tất cả những gì có thể, và tin tưởng rằng lòng thương xót của Chúa sẽ được tuôn đổ trên linh hồn người quá cố.”

Cha Bergman nói thật đáng tiếc khi nhiều người không biết hoặc không xin lãnh nhận ơn này.

“Một số người dán hình ảnh linh mục trong bệnh viện với cái chết, nên họ cứ chần chừ đến khi hoàn toàn chắc chắn người thân đang hấp hối,” cha nói. “Tôi không thể đếm hết số lần mình được gọi đến bệnh viện thì người đó đã qua đời, chỉ vì gia đình gọi quá muộn.”

Ngài cho biết: các bí tích nên được ban ngay khi có nguy cơ tử vong, không nên chờ đến phút cuối.

Ngài cũng kể lại nhiều trải nghiệm xúc động: một người đàn ông đã cố gắng cầm cự cho đến khi được xức dầu trán và tay, rồi mới trút hơi thở cuối cùng ngay sau đó.

“Một lần khác,” Cha Bergman nói, “tôi vừa xức dầu xong thì bác sĩ bước vào tuyên bố người đó đã chết. Nhưng máy theo dõi vẫn hiển thị nhịp tim mỗi 20 giây. Ông ta chưa chết, nên tôi đã kịp xức dầu. Sau đó, một nữ tu trong bệnh viện kể lại: ‘Người mà chúng con gọi Cha đến giữa đêm qua—sáng nay ông ấy tự bước ra khỏi bệnh viện rồi.’”

Cha Bergman chia sẻ: bí tích này chuẩn bị tâm hồn người ta để về đời sau, nhưng cũng có thể mang đến sự chữa lành thể xác. “Đây là một bí tích mà nhiều người nên chủ động xin.”

Ngài nói thêm: “Chúng ta đừng quên giáo huấn của Giáo hội rằng sự đền bù cho tội lỗi luôn đi kèm với việc được tha thứ qua bí tích hòa giải. Ơn Tha Thứ Tông Tòa là cách Giáo hội áp dụng kho tàng công nghiệp thiêng liêng của mình cho chúng ta trong giờ sau hết, khi ta không còn nhiều thời gian ở đời này để đền tội. Vì phần rỗi linh hồn của người thân yêu, các gia đình nên xin ơn này từ Mẹ Giáo hội, trong trường hợp linh mục không tự động ban khi cử hành bí tích sau hết.”

Hai lời nguyện tông tòa diễn tả ý nghĩa của ơn này như sau:

“Nhờ các mầu nhiệm của ơn cứu chuộc, xin Thiên Chúa Toàn Năng giải thoát con khỏi mọi hình phạt ở đời này và đời sau. Xin Chúa mở cánh cửa thiên đàng và đón nhận con vào niềm vui vĩnh cửu.”

“Nhờ quyền năng được ban từ Tòa Thánh Tông Tòa, Cha ban cho con ơn tha thứ hoàn toàn và xá giải mọi tội lỗi, nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.”

Chuyền ngữ từ Apostolic Pardon Brings Total Forgiveness Before Death

Share:

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

Chúa Kitô là trọng tâm

Thật ấn tượng khi nghe những lời đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của Đức Giáo hoàng Lêô XIV. Sự ngạc nhiên không chỉ đến từ việc lần đầu tiên thế giới nghe một vị giáo hoàng xuất thân từ Hoa Kỳ, mà còn bởi vì những lời đầu tiên ngài thốt ra trên cương vị giáo hoàng lại không phải là lời của chính ngài.

Bước ra bao lơn Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 8 tháng 5, sau khi được Hồng y đoàn bầu chọn làm vị kế nhiệm thứ 266 của Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Lêô đã chào mừng Giáo hội hoàn vũ bằng chính lời của Chúa Phục Sinh: “Bình an cho anh em!”

“Đây là những lời đầu tiên Chúa Kitô Phục Sinh đã nói,” Đức Giáo hoàng Lêô nhấn mạnh, “Người là Mục Tử Nhân Lành, đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của Thiên Chúa.”

Tầm nhìn cho sứ vụ giáo hoàng

Trong lời chào này, Đức Giáo hoàng Lêô đã đặt nền tảng cho điều dường như là một tầm nhìn xuyên suốt trong việc thi hành sứ vụ giáo hoàng của ngài: đặt Chúa Kitô ở vị trí trọng tâm, điều đã được thể hiện rõ qua các bài diễn văn và bài giảng kể từ ngày ngài được bầu chọn.

Cách mà Đức Giáo hoàng Lêô đặt Chúa Kitô ở trọng tâm ngay trong những ngày đầu tiên của triều đại cho thấy Chúa Kitô không chỉ là một ý niệm hay một tấm gương đạo đức. Thật vậy, trong bài giảng đầu tiên với tư cách là giáo hoàng, ngay ngày hôm sau cuộc bầu cử, Đức Giáo hoàng đã phê phán những quan điểm hạ thấp Chúa Kitô chỉ còn là một biểu tượng hay hình mẫu luân lý.

Hướng về câu trả lời của Thánh Phêrô trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Người ta nói Con Người là ai?”, Đức Giáo hoàng đã vạch ra cốt lõi của đời sống Kitô hữu, khi mô tả những câu trả lời nửa vời, yếu ớt mà chúng ta quá dễ dàng nhận ra, ngay cả nơi chính bản thân mình

Những trả lời nửa vời về Chúa Giêsu có thể bao gồm những người, theo Đức Giáo hoàng Lêô, xem Chúa Kitô là “hoàn toàn không đáng để chúng ta phải bận tâm,” và sẵn sàng chối bỏ, loại trừ Người khi người ấy cảm thấy “khó chịu vì Chúa đòi hỏi sự chân thật và đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nghiêm khắc.” Cũng có những người nhìn nhận Chúa Kitô là Đấng chân thật, can đảm, xứng đáng noi theo cho đến khi họ phải trả giá quá đắt để tiếp tục theo Chúa. Khi đó, Chúa Kitô lại chỉ còn là “con người mà thôi,” và Ngài bị bỏ gạt bỏ vì họ thất vọng về Ngài.

Đức Giáo hoàng khẳng định những thái độ này vẫn còn rất thời sự, bởi vì ngày nay thật dễ để thấy đức tin Kitô giáo bị coi là “vô lý, dành cho kẻ yếu đuối và ngu muội,” hay bị coi là kém hấp dẫn hơn “công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hay khoái lạc.” Nhưng đối diện với thực trạng đó, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh hơn bao giờ hết, chúng ta phải từ chối những quan niệm sai lầm và thiếu sót ấy, để mạnh mẽ đáp lại câu hỏi của Chúa Kitô bằng lời tuyên xưng của chính Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).

Hoán cải bản thân

Theo Đức Giáo hoàng Lêô, điều này đạt được trước tiên là “trong mối tương quan cá vị của mỗi người chúng ta với Chúa, trong cam kết bước đi mỗi ngày trên hành trình hoán cải,” và trong khi Giáo hội “cùng nhau sống sự trung thành với Chúa và đem Tin Mừng đến cho mọi người.”

Để minh họa cho cam kết sống trọn vẹn lời tuyên xưng của Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng đã nhắc đến lời chứng của thánh tử đạo Ignatiô thành Antiôkia, người thế kỷ thứ nhất, khi nói về cái chết tử đạo sắp tới của mình: “Khi thế gian không còn thấy xác tôi nữa, bấy giờ tôi mới thật là môn đệ của Đức Giêsu Kitô” (Thư gửi tín hữu Rôma, IV,1).

Về phần mình, Đức Giáo hoàng Lêô nói rằng việc thi hành sứ vụ của ngài, cũng như của tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo, cần phải phản ánh điều này: “luôn biết lui lại phía sau để Chúa Kitô được nhìn thấy, biết nhỏ bé đi để Người được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3,30), biết hiến thân cho đến cùng để mọi người có cơ hội nhận biết và yêu mến Người.”

Chính kiểu tuyên xưng về Chúa Kitô như thế, và chính sự dấn thân tận căn vào Người như thế, mới là cốt lõi của đức tin Kitô giáo. Một khởi đầu tươi mới, đầy sức cuốn hút và khích lệ cho triều đại giáo hoàng của Đức Lêô – dấu chỉ của sự sống giữa những hy vọng đổi mới sâu sắc mà giờ đây đặt trên vai ngài.

“Chúng ta cần can đảm làm chứng,” Đức Giáo hoàng Lêô đã khích lệ trong bài giảng Chúa nhật đầu tiên, ngày 11 tháng 5. “Không có gương mẫu nào tốt hơn chính Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng ta hiến dâng đời mình và hoàn toàn tín thác vào Ngài.”

Chuyển ngữ từ Christ At The Center

Share:

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2025

Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi -- CN thứ IV Mùa Phục sinh, năm C

Biết Đức Kitô nghĩa là gì? Nghĩa là yêu mến Ngài và tin tưởng nơi Ngài. Yêu và tin luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không yêu ai đó, bạn không thể tin họ; và nếu bạn không thể tin họ, bạn cũng không thực sự yêu họ. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, yêu – cũng như tin hay đức tin cá vị – là một hình thức “biết.” Từ tiếng Do Thái chỉ loại “biết” này – nghĩa là biết một người – cũng có thể mang nghĩa là sự kết hợp vợ chồng: Sách Sáng Thế kể rằng “Ađam biết vợ mình là Evà” (St 4,1), và kết quả không phải là sách vở, mà là những đứa con – Cain và Abel.

Tình yêu không chủ yếu là một cảm xúc, mà là một sự hiểu biết – thực ra, là loại hiểu biết sâu sắc nhất. Ai là người hiểu bạn nhất? Là người bạn thân nhất của bạn – người có thể chẳng giành được điểm nào trong một chương trình đố vui kiến thức, nhưng yêu bạn đến mức sẵn sàng hi sinh mạng sống vì bạn? Hay là nhà tâm lý học vĩ đại nhất thế giới, người hiểu rõ bạn như một bệnh nhân, nghiên cứu mọi ngóc ngách của tâm trí bạn như nhà khoa học soi vi sinh vật qua kính hiển vi, nhưng không hề yêu bạn? Ai mới là người thực sự “biết” bạn? Không cần tranh luận.

Cha trên trời biết bạn, và bạn biết Người, bởi vì bạn là con của Người. Bạn là con của Thiên Chúa vì Đức Kitô đã làm cho bạn trở thành con cái Thiên Chúa. Đức Kitô đã trao cho các môn đệ kinh “Lạy Cha” như lời cầu nguyện hoàn hảo nhất của họ; Ngài cũng làm cho họ có thể thưa lên lời kinh ấy một cách chân thật. Ngài làm Thiên Chúa trở thành Cha của chúng ta bằng cách làm cho chúng ta trở thành con cái của Người.

Nhưng chẳng phải Thiên Chúa là Cha của mọi người sao? Không. Theo như Lời của chính Thiên Chúa thì không. Thiên Chúa không phải là Cha của tất cả mọi người. Thiên Chúa yêu thương mọi người và muốn mọi người được cứu độ, nhưng không phải ai cũng đáp lại tình yêu đó, không phải ai cũng tin tưởng nơi Người, yêu mến Người, và do đó “biết” Người và được Người biết đến, trở thành con trai hay con gái của Người, được nhận làm con trong gia đình của Người, được “tái sinh” vào sự sống đời đời nhờ đức tin và Phép Rửa.

Chúng ta không nhận được sự sống đời đời từ cha mẹ trần thế. Cha mẹ chỉ có thể cho ta sự sống tự nhiên, chứ không phải sự sống siêu nhiên. Bạn không thể cho cái mà bạn không có. Chỉ có Thiên Chúa mới có sự sống siêu nhiên, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban cho bạn sự sống đó. Bạn không tự động được phát vé vào thiên đàng chỉ vì bạn được sinh ra; bạn chỉ nhận được vé để đến trái đất. Theo lời Chúa Giêsu – và ai hiểu rõ điều này hơn Ngài? – bạn được vào thiên đàng không phải nhờ sinh ra, mà là nhờ được tái sinh. Đó không là điều ép buộc, mà hoàn toàn tự do; bạn phải chọn nó. Đức tin, đức cậy và đức mến là ba chiều kích của việc chọn lựa ấy.

Những gì tôi vừa nói có thể nghe lạ lẫm, gây bất ngờ hay thậm chí là gây sốc với một số người, nhưng điều đó được dạy rất rõ ràng trong hầu như mọi trang của Tân Ước. Điều không được dạy rõ ràng ở đâu cả – dù trong Kinh Thánh, Giáo Hội hay chính Chúa Giêsu – là có bao nhiêu người được cứu.

Khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu câu đó, Ngài chỉ đáp: “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24). Nói cách khác: hãy lo phần mình. Bao nhiêu người vô thần tốt lành sẽ được cứu? Bao nhiêu người ngoại giáo? Bao nhiêu Phật tử? Chúng ta không biết. Chúng ta được dạy là đừng xét đoán. Vì chúng ta không phải là thẩm phán trong chuyện đó, Thiên Chúa mới là Đấng phán xét.

Chỉ mình Thiên Chúa đọc được những tầng sâu thẳm nhất của trái tim con người. Chỉ Thiên Chúa biết ai thực sự biết Ngài – ở tận đáy lòng – có thể bên dưới những tư tưởng sai lầm hay lối sống rối ren. Và chỉ Thiên Chúa biết ai không thực sự biết Ngài – cũng ở tận đáy lòng – dù có thể bên ngoài mang đầy những ý tưởng đúng và việc làm tốt. Các Pharisêu hiểu thần học của họ rất rõ và hành vi bên ngoài thì rất chỉnh chu, nhưng Chúa Giêsu nói rằng họ đang trên đường đến chốn diệt vong.

Chúng ta đừng quên phân biệt điều chúng ta không biết và điều chúng ta biết – điều Thiên Chúa không nói và điều Người đã nói. Thiên Chúa không nói với chúng ta tỉ lệ dân số của thiên đàng và hỏa ngục. Nhưng Người đã nói rất rõ con đường lên thiên đàng là gì. Con đường ấy là một nhân vật. Tên của Người là Giêsu. Hãy chắc chắn rằng bạn biết Ngài. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Tư, 7 tháng 5, 2025

Một Số Khía Cạnh Của Việc Chiêm Niệm Kitô Giáo -- Chiêm niệm Kitô giáo có giống thiền không?

BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN

THƯ GỬI CÁC GIÁM MỤC CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

VỀ MỘT SỐ KHÍA CẠNH CỦA VIỆC CHIÊM NIỆM KITÔ GIÁO*

Ngày 15 tháng 10 năm 1989

Bản Tiếng Anh: LETTER TO THE BISHOPS OF THE CATHOLIC CHURCH ON SOME ASPECTS OF CHRISTIAN MEDITATION

I. Dẫn nhập

1. Ngày nay, nhiều Kitô hữu có một khát khao mãnh liệt muốn trải nghiệm đời sống cầu nguyện sâu sắc và chân thực hơn, mặc dù văn hóa hiện đại đã tạo ra không ít khó khăn đối với nhu cầu thinh lặng, hồi tâm và suy niệm. Sự quan tâm đến các hình thức suy niệm liên quan đến các tôn giáo phương Đông và những phương pháp cầu nguyện đặc biệt của chúng, vốn đã gia tăng trong những năm gần đây ngay cả giữa các Kitô hữu, là một dấu hiệu cho thấy nhu cầu hồi tâm thiêng liêng và kết nối sâu sắc với mầu nhiệm thần linh. Tuy nhiên, trước hiện tượng này, nhiều người cảm thấy cần có những tiêu chí chắc chắn về phương diện giáo lý và mục vụ để có thể hướng dẫn người khác trong việc cầu nguyện, qua các hình thức khác nhau, mà vẫn trung thành với chân lý được mặc khải nơi Đức Giêsu qua Truyền Thống đích thực của Giáo Hội. Lá thư này nhằm đáp ứng nhu cầu khẩn thiết đó, để tại các Giáo Hội địa phương, các hình thức cầu nguyện khác nhau, kể cả các hình thức mới, không bao giờ đánh mất bản chất cá nhân và cộng đoàn đúng đắn của chúng.

Những hướng dẫn này trước tiên được gửi đến các Giám mục, với tinh thần chăm sóc mục vụ dành cho các Giáo Hội được giao phó cho họ, để toàn thể Dân Chúa—linh mục, tu sĩ và giáo dân—một lần nữa được kêu gọi cầu nguyện, với sự nhiệt thành mới, hướng về Chúa Cha qua Thần Khí của Đức Kitô, Chúa chúng ta.

2. Trong vài thập kỷ qua, việc tiếp xúc ngày càng thường xuyên với các tôn giáo khác và các phong cách, phương pháp cầu nguyện khác nhau của họ đã khiến nhiều tín hữu tự hỏi giá trị của các hình thức suy niệm không Kitô giáo đối với người Kitô hữu là gì. Đặc biệt, vấn đề này liên quan đến các phương pháp cầu nguyện phương Đông. Một số người ngày nay tìm đến các phương pháp này vì lý do trị liệu. Sự bất an tâm linh phát sinh từ nhịp sống nhanh chóng của một xã hội công nghệ tiên tiến cũng khiến một số Kitô hữu tìm kiếm trong các phương pháp cầu nguyện này một con đường dẫn đến bình an nội tâm và cân bằng tâm lý. Lá thư này không bàn về khía cạnh tâm lý mà nhấn mạnh đến các khía cạnh thần học và tâm linh của vấn đề. Những Kitô hữu khác, trong bối cảnh mở cửa và trao đổi giữa các tôn giáo và văn hóa, cho rằng việc cầu nguyện của họ có thể được hưởng lợi từ các phương pháp này. Họ nhận thấy nhiều phương pháp suy niệm truyền thống, đặc biệt là phương pháp Kitô giáo, đã bị mai một trong thời gian gần đây, và tự hỏi liệu việc đào luyện lại trong cầu nguyện có thể làm phong phú thêm di sản của chúng ta bằng cách kết hợp những gì trước đây còn xa lạ với nó hay không.

3. Để trả lời câu hỏi này, trước tiên cần phải xem xét, dù chỉ một cách tổng quát, bản chất sâu xa của việc cầu nguyện Kitô giáo là gì. Sau đó, có thể xem xét việc cầu nguyện này có thể được làm phong phú như thế nào nhờ các phương pháp suy niệm phát triển trong các tôn giáo và văn hóa khác. Tuy nhiên, để đạt được điều này, cần phải bắt đầu từ một tiền đề rõ ràng: cầu nguyện Kitô giáo luôn được xác định bởi cấu trúc của đức tin Kitô giáo, trong đó chân lý về Thiên Chúa và thụ tạo được thể hiện rõ ràng. Do đó, cầu nguyện được định nghĩa một cách đúng đắn là một cuộc đối thoại cá nhân, thân mật và sâu sắc giữa con người và Thiên Chúa. Thể hiện sự hiệp thông giữa các thụ tạo được cứu chuộc với đời sống thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự hiệp thông này, dựa trên Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể, là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, đòi hỏi một thái độ hoán cải, một sự từ bỏ "cái tôi" để hướng đến "Ngài" của Thiên Chúa. Vì vậy, cầu nguyện Kitô giáo luôn vừa mang tính cá nhân vừa mang tính cộng đoàn đích thực. Nó tránh xa các kỹ thuật vô nhân cách hoặc tập trung vào bản thân, những thứ có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn, giam hãm người cầu nguyện trong một dạng tư hữu tinh thần không thể mở ra với Thiên Chúa siêu việt. Trong Giáo Hội, trong việc tìm kiếm chính đáng các phương pháp suy niệm mới, phải luôn nhớ rằng yếu tố cốt yếu của cầu nguyện Kitô giáo đích thực là cuộc gặp gỡ giữa hai sự tự do: sự tự do vô hạn của Thiên Chúa với sự tự do hữu hạn của con người.

Trong Giáo Hội, trong việc tìm kiếm chính đáng các phương pháp suy niệm mới, phải luôn nhớ rằng yếu tố cốt yếu của cầu nguyện Kitô giáo đích thực là cuộc gặp gỡ giữa hai sự tự do: sự tự do vô hạn của Thiên Chúa với sự tự do hữu hạn của con người.

II. Cầu nguyện Kitô giáo dưới ánh sáng của Mặc khải

4. Chính Kinh Thánh dạy cách người đón nhận mặc khải Kinh Thánh nên cầu nguyện. Trong Cựu Ước, có một bộ sưu tập kỳ diệu các lời cầu nguyện tiếp tục sống động qua nhiều thế kỷ, ngay cả trong Giáo Hội của Đức Giêsu Kitô, nơi chúng trở thành nền tảng của việc cầu nguyện chính thức: Sách Thánh Vịnh.

Các lời cầu nguyện trong Sách Thánh Vịnh trước hết kể lại các kỳ công lớn lao của Thiên Chúa dành cho Dân được chọn. Israel suy niệm, chiêm ngắm và làm hiện tại hóa các kỳ công của Thiên Chúa qua việc nhắc lại chúng trong cầu nguyện.

Trong mặc khải Kinh Thánh, Israel nhận ra và ca ngợi Thiên Chúa hiện diện trong mọi tạo vật và trong vận mệnh của mỗi người. Vì thế, Người được cầu khẩn, chẳng hạn, như Đấng giải thoát trong cơn nguy nan, trong bệnh tật, trong sự bách hại, trong nỗi gian truân. Cuối cùng, và luôn trong ánh sáng của những kỳ công cứu độ của Người, Thiên Chúa được tôn vinh vì quyền năng và lòng nhân hậu của Người, vì sự công chính và lòng thương xót của Người, vì uy nghi cao cả của Người.

5. Nhờ những lời nói, hành động, Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, trong Tân Ước, đức tin nhận ra nơi Người sự tự mặc khải dứt khoát của Thiên Chúa, Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng bày tỏ chiều sâu thẳm nhất của tình yêu Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng được ban vào lòng các tín hữu, Đấng "thấu suốt mọi sự, cả những chiều sâu của Thiên Chúa" (1 Cr 2,10), làm cho con người có thể bước vào những chiều sâu thần linh này. Theo lời hứa mà Đức Giêsu đã nói với các môn đệ, Chúa Thánh Thần sẽ giải thích tất cả những điều mà Người chưa thể nói với họ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần "Người sẽ không tự mình nói điều gì", nhưng "Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em" (Ga 16,13-14). Những gì Đức Giêsu gọi là "thuộc về Thầy" cũng thuộc về Chúa Cha, vì "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15).

Các tác giả Tân Ước, với ý thức đầy đủ, luôn nói về mặc khải của Thiên Chúa nơi Đức Kitô trong bối cảnh một cái nhìn được Chúa Thánh Thần soi sáng. Các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại các việc làm và lời nói của Đức Giêsu dựa trên sự hiểu biết sâu sắc hơn, đạt được sau Lễ Phục Sinh, về những gì các môn đệ đã thấy và nghe. Toàn bộ Tin Mừng Gioan tập trung vào việc chiêm ngắm Đấng ngay từ đầu đã là Ngôi Lời của Thiên Chúa làm người. Thánh Phaolô, Đấng đã được Đức Giêsu tỏ mình trong uy nghi thần linh trên đường Đamas, hướng dẫn các tín hữu để họ có thể "để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa" (Ep 3,18-19). Đối với Phaolô, Mầu Nhiệm của Thiên Chúa chính là Đức Kitô, "trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2,3), và Thánh Nhân khẳng định rằng: "Tôi nói điều đó để đừng có ai dùng lời lẽ hấp dẫn mà mê hoặc anh em" (Cl 2,4).

Đối với Phaolô, Mầu Nhiệm của Thiên Chúa chính là Đức Kitô, "trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2,3), và Thánh Nhân khẳng định rằng: "Tôi nói điều đó để đừng có ai dùng lời lẽ hấp dẫn mà mê hoặc anh em" (Cl 2,4).

6. Như vậy, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa Mặc khải và cầu nguyện. Hiến chế tín lý Dei Verbum dạy rằng nhờ mặc khải, Thiên Chúa vô hình “từ lòng yêu thương tràn đầy đã nói với con người như những người bạn (x. Xh 33,11; Ga 15,14-15), và cư ngụ giữa họ (x. Br 3,38), để mời gọi và đón nhận họ vào hiệp thông với chính mình.” Mặc khải này diễn ra qua lời nói và hành động có sự tham chiếu qua lại liên tục; từ khởi đầu mọi thứ đều hướng đến Đức Kitô, sự viên mãn của mặc khải và ân sủng, cùng với ân huệ của Chúa Thánh Thần. Những điều này làm cho con người có khả năng đón nhận và chiêm ngắm những lời và việc của Thiên Chúa, cũng như tạ ơn và thờ lạy Người, cả trong cộng đoàn tín hữu và trong sự thân mật của cõi lòng được ân sủng soi sáng.

Đây là lý do Giáo Hội khuyến khích việc đọc Lời Chúa như nguồn mạch của cầu nguyện Kitô giáo, đồng thời khuyên mọi người khám phá ý nghĩa sâu xa của Thánh Kinh qua cầu nguyện, "để đối thoại diễn ra giữa Thiên Chúa và con người. Vì chúng ta nói với Người khi cầu nguyện; chúng ta lắng nghe Người khi đọc các lời mặc khải của Người."

7. Một số hệ quả trực tiếp phát sinh từ những điều đã được nhắc đến. Nếu cầu nguyện của Kitô hữu phải được đặt trong chuyển động Ba Ngôi của Thiên Chúa, thì nội dung cốt yếu của nó cũng phải được xác định bởi hai chiều hướng của chuyển động đó. Trong Chúa Thánh Thần, Ngôi Con đến thế gian để hòa giải thế gian với Chúa Cha qua các công trình và đau khổ của Người. Mặt khác, cũng trong cùng một chuyển động và trong cùng Thần Khí ấy, Ngôi Lời Nhập Thể trở về với Chúa Cha, hoàn thành ý muốn của Người qua Cuộc Thương Khó và Phục Sinh.

Kinh “Lạy Cha”, chính lời cầu nguyện của Đức Giêsu, chỉ rõ sự hợp nhất của chuyển động này: ý muốn của Chúa Cha phải được thực hiện dưới đất cũng như trên trời (những lời cầu xin về bánh ăn, sự tha thứ và sự bảo vệ làm rõ các chiều kích cơ bản trong ý muốn của Thiên Chúa dành cho chúng ta), để một trời mới đất mới có thể xuất hiện trong Giêrusalem trên trời.

Lời cầu nguyện của Đức Giêsu đã được trao phó cho Giáo Hội (“Anh em hãy cầu nguyện như thế này”, Lc 11,2). Đây là lý do mà khi một Kitô hữu cầu nguyện, ngay cả khi người ấy ở một mình, lời cầu nguyện của họ thực ra luôn nằm trong khuôn khổ của “sự hiệp thông các thánh”, mà ở đó và cùng với đó người ấy cầu nguyện, dù là cách công khai, phụng vụ hay cách riêng tư. Vì vậy, lời cầu nguyện phải luôn được dâng lên trong tinh thần đích thực của Giáo Hội, và do đó dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội, đôi khi được thể hiện một cách cụ thể qua sự đồng hành thiêng liêng đã được kiểm chứng. Kitô hữu, ngay cả khi cầu nguyện một mình và trong thầm lặng, luôn ý thức rằng họ cầu nguyện vì lợi ích của Giáo Hội, hiệp nhất với Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần và cùng với tất cả các thánh.

III. Những con đường sai lầm trong cầu nguyện

8. Ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, một số hình thức cầu nguyện không đúng đã len lỏi vào. Một số đoạn trong Tân Ước (x. 1 Ga 4,3; 1 Tm 1,3-7 và 4,3-4) đã ám chỉ sự tồn tại của chúng. Sau đó, hai lệch lạc căn bản đã được xác định: thuyết ngộ giáo giả hiệu (Pseudognosticism) và thuyết Mê-sali-an (Messalianism), cả hai đều là mối bận tâm của các giáo phụ.

Khi chống lại những sai lầm của thuyết ngộ giáo, các giáo phụ khẳng định rằng vật chất do Thiên Chúa tạo dựng và vì thế không phải là xấu xa. Họ nhấn mạnh rằng ân sủng, luôn có Chúa Thánh Thần là nguồn mạch, không phải là một điều gì thuộc sở hữu riêng của linh hồn, nhưng phải được tìm kiếm từ Thiên Chúa như một ân ban. Do đó, sự soi sáng hoặc tri thức siêu việt của Thần Khí (gnosis) không khiến đức tin Kitô giáo trở thành thứ dư thừa. Cuối cùng, đối với các giáo phụ, dấu hiệu đích thực của tri thức siêu việt, kết quả của cầu nguyện, luôn là tình yêu Kitô giáo.

9. Nếu sự hoàn thiện của cầu nguyện Kitô giáo không thể được đánh giá dựa trên sự cao siêu của tri thức ngộ giáo, thì cũng không thể được đo lường dựa trên kinh nghiệm cảm nhận thần linh, như thuyết Mê-sali-an đề xuất. Những người theo thuyết này, vào thế kỷ thứ tư, đã đồng hóa ân sủng của Chúa Thánh Thần với kinh nghiệm tâm lý về sự hiện diện của Người trong linh hồn. Khi phản bác họ, các giáo phụ nhấn mạnh rằng sự hiệp nhất của linh hồn với Thiên Chúa trong cầu nguyện được thực hiện một cách huyền nhiệm, đặc biệt qua các bí tích của Giáo Hội. Hơn nữa, sự hiệp nhất đó có thể đạt được ngay cả qua những kinh nghiệm khổ đau hay sầu muộn. Trái ngược với quan điểm của thuyết Mê-sali-an, những điều này không nhất thiết là dấu hiệu rằng Thần Khí đã rời bỏ một linh hồn. Đúng hơn, như các bậc thầy linh đạo luôn rõ ràng nhìn nhận, những kinh nghiệm này có thể là một sự tham dự đích thực vào tình trạng bị bỏ rơi mà Chúa chúng ta đã trải qua trên thập giá, Đấng luôn là mẫu gương và trung gian cho lời cầu nguyện.

Hơn nữa, sự hiệp nhất đó có thể đạt được ngay cả qua những kinh nghiệm khổ đau hay sầu muộn. Trái ngược với quan điểm của thuyết Mê-sali-an, những điều này không nhất thiết là dấu hiệu rằng Thần Khí đã rời bỏ một linh hồn. >Đúng hơn, như các bậc thầy linh đạo luôn rõ ràng nhìn nhận, những kinh nghiệm này có thể là một sự tham dự đích thực vào tình trạng bị bỏ rơi mà Chúa chúng ta đã trải qua trên thập giá, Đấng luôn là mẫu gương và trung gian cho lời cầu nguyện.

10. Cả hai hình thức sai lầm này tiếp tục là một cám dỗ cho con người tội lỗi. Chúng xúi giục con người cố gắng vượt qua khoảng cách giữa thụ tạo và Đấng Tạo Hóa, như thể không nên có khoảng cách đó; coi con đường của Đức Kitô trên trái đất, qua đó Người muốn dẫn chúng ta đến Chúa Cha, như một điều gì đó đã lỗi thời; hay hạ thấp ân sủng thuần khiết xuống mức tâm lý tự nhiên, coi nó như "tri thức siêu việt" hoặc như "kinh nghiệm".

Những hình thức sai lầm này, từng xuất hiện nhiều lần trong lịch sử ngoài lề đời sống cầu nguyện của Giáo Hội, dường như một lần nữa gây ấn tượng mạnh cho nhiều Kitô hữu ngày nay, thu hút họ như một phương thuốc tâm lý hoặc tâm linh, hoặc như một con đường nhanh chóng để tìm kiếm Thiên Chúa.

11. Tuy nhiên, những hình thức sai lầm này, dù xuất hiện ở đâu, đều có thể được nhận diện một cách đơn giản. Việc suy niệm trong cầu nguyện của Kitô hữu tìm cách đi sâu vào mầu nhiệm thần linh qua các công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, và qua ân ban của Chúa Thánh Thần. Những chiều sâu thần linh này luôn được mạc khải cho con người qua chiều kích nhân loại và trần thế.

Ngược lại, những phương pháp suy niệm tương tự, kể cả những phương pháp bắt đầu bằng lời nói và hành động của Đức Giêsu, lại cố gắng, trong mức độ có thể, gạt bỏ mọi yếu tố thuộc về thế giới này, mọi thứ có thể cảm nhận bằng giác quan hay giới hạn bởi khái niệm. Đây là một nỗ lực nhằm vươn lên hoặc hòa mình vào lĩnh vực thần linh, vốn không thuộc về trần thế, không cảm nhận được bằng giác quan và không thể diễn tả bằng khái niệm. Khuynh hướng này, vốn đã tồn tại trong cảm thức tôn giáo của thời kỳ Hy Lạp sau này (đặc biệt là trong “tân Platon”), cũng ăn sâu vào cảm hứng tôn giáo của nhiều dân tộc, ngay khi họ nhận ra tính tạm bợ của các hình ảnh biểu trưng về thần linh và nỗ lực tiếp cận thần linh.

12. Với sự phổ biến hiện nay của các phương pháp suy niệm phương Đông trong thế giới Kitô giáo và trong các cộng đoàn Giáo Hội, chúng ta đang chứng kiến một nỗ lực đổi mới nhằm kết hợp suy niệm Kitô giáo với các phương pháp phi Kitô giáo. Những đề xuất trong chiều hướng này rất nhiều và mang tính triệt để ở các mức độ khác nhau. Một số sử dụng các phương pháp phương Đông chỉ như một sự chuẩn bị tâm lý-thể lý cho việc chiêm niệm Kitô giáo thực sự; một số khác đi xa hơn, áp dụng những kỹ thuật khác nhau để tạo ra những trải nghiệm tâm linh tương tự như những gì được mô tả trong các tác phẩm của một số nhà thần bí Công giáo.

Lại có những người không ngần ngại đặt khái niệm "tuyệt đối không hình ảnh hay khái niệm" của lý thuyết Phật giáo ngang hàng với sự uy nghi của Thiên Chúa được mạc khải nơi Đức Kitô, Đấng vượt trên mọi thực tại hữu hạn. Họ làm điều này bằng cách sử dụng một “thần học phủ định”, vượt trên mọi khẳng định tìm cách diễn tả Thiên Chúa là gì và phủ nhận rằng các thực tại thế giới có thể chỉ ra sự vô biên của Thiên Chúa. Do đó, họ đề xuất từ bỏ không chỉ việc suy niệm về các công trình cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử, mà còn từ bỏ cả ý niệm về Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi, Đấng là Tình Yêu, để hòa mình vào một “vực thẳm vô định của thần tính.”

Những đề xuất này, cũng như các hình thức kết hợp khác giữa suy niệm Kitô giáo và kỹ thuật phương Đông, cần phải được xem xét kỹ lưỡng về nội dung và phương pháp để tránh nguy cơ rơi vào chủ nghĩa hỗn hợp.

IV. Con đường Kitô giáo dẫn đến hiệp nhất với Thiên Chúa

13. Để tìm ra con đường cầu nguyện đúng đắn, Kitô hữu cần xem xét những điều đã được trình bày trước đó về những nét nổi bật của con đường Đức Kitô, Đấng mà “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Đức Giêsu không có sự hiệp nhất nào mật thiết hơn với Chúa Cha ngoài việc liên tục thực hiện ý muốn của Người, điều mà đối với Đức Giêsu luôn được chuyển hóa thành cầu nguyện sâu xa.

Theo ý muốn của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã được sai đến với nhân loại, với những người tội lỗi, và cả với những kẻ hành hình Người. Người không thể hiệp nhất với Chúa Cha mật thiết hơn bằng cách tuân phục ý muốn của Người. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Người trong cuộc đời tại thế, cũng tìm nơi thanh vắng để hiệp nhất với Chúa Cha và nhận thêm sức mạnh mới cho sứ vụ của mình. Trên núi Tabor, nơi sự hiệp nhất của Người với Chúa Cha được biểu lộ, Người đã nhớ đến Cuộc Khổ Nạn (x. Lc 9,31), và không hề nghĩ đến việc ở lại trong “ba lều” trên Núi Tabore.

Lời cầu nguyện chiêm niệm Kitô giáo luôn dẫn đến tình yêu đối với tha nhân, đến hành động và đến sự chấp nhận thử thách, và chính vì điều này mà lời cầu nguyện đưa người ta đến gần Thiên Chúa.

14. Để tiến gần đến mầu nhiệm hiệp nhất với Thiên Chúa, điều mà các giáo phụ Hy Lạp gọi là sự thần hóa con người, và để hiểu chính xác cách thức mầu nhiệm này được thực hiện, trước hết cần nhớ rằng con người là một thụ tạo, và vẫn mãi là thụ tạo. Do đó, không thể có chuyện bản tính con người bị hấp thu vào thần tính, ngay cả trong những trạng thái ân sủng cao nhất. Tuy nhiên, cần nhận ra rằng con người được tạo dựng theo “hình ảnh và giống” Thiên Chúa, và nguyên mẫu của hình ảnh này là Con Thiên Chúa, Đấng mà qua Người và nhờ Người chúng ta được tạo dựng (x. Cl 1,16).

Nguyên mẫu này mạc khải mầu nhiệm Kitô giáo cao cả và đẹp đẽ nhất: từ đời đời, Ngôi Con là “một ngôi vị khác biệt” so với Chúa Cha, nhưng trong Chúa Thánh Thần, Người “đồng bản tính” với Chúa Cha. Do đó, sự khác biệt này không phải là một điều bất toàn, mà ngược lại, là điều tốt đẹp nhất. Chính Thiên Chúa cũng có sự khác biệt nội tại: một bản tính duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Cũng có sự khác biệt giữa Thiên Chúa và các thụ tạo, vốn khác biệt về bản tính.

Cuối cùng, nơi Bí tích Thánh Thể, cũng như các bí tích khác—và một cách tương tự trong các công trình và lời nói của Người—Đức Kitô ban chính mình và cho chúng ta tham dự vào bản tính thần linh của Người, nhưng không xóa bỏ bản tính thụ tạo của chúng ta, vốn được Người chia sẻ qua Mầu Nhiệm Nhập Thể.

15. Suy tư về những chân lý này mang lại khám phá tuyệt vời rằng tất cả những khát vọng được thể hiện trong lời cầu nguyện của các tôn giáo khác đều được hoàn thành vượt xa mọi mong đợi trong thực tại Kitô giáo, mà không cần phải xóa bỏ bản ngã hay bản tính thụ tạo vào “biển cả của Tuyệt Đối.” “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Lời khẳng định sâu sắc mang tính Kitô giáo này có thể hòa giải sự hiệp nhất hoàn hảo với sự khác biệt giữa người yêu và người được yêu, với sự trao đổi và đối thoại đời đời.

Chính Thiên Chúa là sự trao đổi đời đời này, và chúng ta thực sự có thể trở nên những người chia sẻ với Đức Kitô, như “những người con nuôi” kêu lên với Người Con trong Chúa Thánh Thần: “Abba, Cha ơi!” Trong ý nghĩa này, các giáo phụ hoàn toàn đúng khi nói về sự thần hóa con người, vì khi được hợp nhất vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa tự bản tính, con người nhờ ân sủng có thể tham dự vào bản tính thần linh và trở thành “con trong Người Con.” Nhờ đón nhận Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu tôn vinh Chúa Cha và thực sự tham dự vào đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa.

V. Những vấn đề về phương pháp

16. Hầu hết các tôn giáo lớn, vốn tìm kiếm sự hiệp nhất với Thiên Chúa trong cầu nguyện, đều chỉ ra những con đường để đạt được điều đó. Cũng như “Giáo Hội Công Giáo không bác bỏ những gì là chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo này,” Giáo Hội cũng không nên bác bỏ các con đường này chỉ vì chúng không phải là Kitô giáo. Ngược lại, người ta có thể tiếp nhận từ chúng những điều hữu ích, miễn là quan niệm Kitô giáo về cầu nguyện, logic và đòi hỏi của nó không bao giờ bị che khuất. Trong bối cảnh này, những yếu tố được tiếp nhận cần phải được diễn giải lại và diễn đạt theo cách mới.

Trước tiên, có thể kể đến việc khiêm nhường chấp nhận một người thầy am hiểu đời sống cầu nguyện và các lời khuyên của họ. Kinh nghiệm Kitô giáo đã biết đến thực hành này ngay từ thời các giáo phụ sa mạc. Một người thầy như vậy, am tường về việc "hiệp thông với Giáo Hội" (sentire cum Ecclesia), không chỉ hướng dẫn và cảnh báo về những nguy cơ; với tư cách là một “cha thiêng liêng,” người ấy còn phải dẫn dắt người môn sinh của mình một cách năng động, từ trái tim đến trái tim, vào đời sống cầu nguyện, vốn là ân ban của Chúa Thánh Thần.

17. Trong giai đoạn cuối của thời kỳ cổ điển phi Kitô giáo, có sự phân biệt thuận lợi giữa ba giai đoạn trong đời sống hướng đến sự hoàn thiện: con đường thanh luyện, con đường soi sáng và con đường hợp nhất. Giáo huấn này đã trở thành mô hình cho nhiều trường phái linh đạo Kitô giáo. Dù tự bản chất là đúng, nhưng phân tích này cần được làm sáng tỏ để được hiểu theo cách Kitô giáo chính xác, nhằm tránh những hiểu lầm nguy hiểm.

Con đường thanh luyện

18. Việc tìm kiếm Thiên Chúa qua cầu nguyện cần phải được chuẩn bị và đồng hành bởi cuộc chiến đấu khổ hạnh và sự thanh tẩy khỏi tội lỗi và sai lầm của bản thân, bởi Đức Giêsu đã nói rằng chỉ “ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Tin Mừng trước hết nhắm đến việc thanh tẩy luân lý khỏi sự thiếu chân thật và tình yêu, và ở một cấp độ sâu xa hơn, khỏi tất cả những khuynh hướng ích kỷ ngăn cản con người nhận ra và đón nhận ý muốn thuần khiết của Thiên Chúa. Các đam mê không tự chúng là tiêu cực (như các triết gia khắc kỷ và tân Platon đã nghĩ), nhưng chúng có khuynh hướng hướng đến ích kỷ. Đó là điều mà người Kitô hữu phải giải thoát bản thân để đạt đến trạng thái tự do tích cực, mà trong thời kỳ Kitô giáo cổ điển được gọi là apatheia (sự bất biến), trong thời Trung Cổ là impassibilitas (sự vô cảm), và trong các bài Linh Thao của Thánh Inhaxiô là indiferencia (sự dửng dưng).

Điều này không thể thực hiện được nếu không có sự từ bỏ bản thân cách triệt để, như chính Thánh Phaolô đã sử dụng từ “sự chết đi” (mortification) đối với các khuynh hướng tội lỗi. Chỉ sự từ bỏ bản thân này mới làm cho con người tự do để thực thi ý muốn của Thiên Chúa và chia sẻ sự tự do của Chúa Thánh Thần.

19. Vì vậy, cần phải hiểu đúng lời dạy của những bậc thầy khuyên “làm trống” tâm trí khỏi mọi hình ảnh cảm quan và khái niệm, trong khi vẫn giữ thái độ yêu thương đối với Thiên Chúa. Bằng cách này, người cầu nguyện tạo ra một không gian trống rỗng để Thiên Chúa có thể lấp đầy bằng sự phong phú của Người. Tuy nhiên, sự trống rỗng mà Thiên Chúa đòi hỏi là sự từ bỏ tính ích kỷ của bản thân, chứ không nhất thiết là sự từ bỏ các tạo vật được Người ban cho và đặt chúng ta giữa chúng.

Sự trống rỗng mà Thiên Chúa đòi hỏi là sự từ bỏ tính ích kỷ của bản thân, chứ không nhất thiết là sự từ bỏ các tạo vật được Người ban cho và đặt chúng ta giữa chúng.

Không có nghi ngờ rằng trong cầu nguyện, người ta phải tập trung hoàn toàn vào Thiên Chúa và cố gắng loại bỏ các ràng buộc với thế gian vốn trói buộc chúng ta với sự ích kỷ. Về điều này, Thánh Augustinô là một thầy dạy xuất sắc: nếu bạn muốn tìm thấy Thiên Chúa, ngài nói, hãy từ bỏ thế giới bên ngoài và trở lại với chính mình. Nhưng ngài tiếp tục, đừng dừng lại ở chính mình, mà hãy vượt lên trên chính mình, vì bạn không phải là Thiên Chúa: Người sâu xa hơn và cao cả hơn bạn. “Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người’ (Rm 1,20).”

“Ở lại trong chính mình”: đây mới là nguy cơ thực sự. Thánh Tiến sĩ Giáo Hội khuyên tập trung vào chính mình nhưng đồng thời vượt qua cái tôi, vốn không phải là Thiên Chúa, mà chỉ là thụ tạo. Thiên Chúa “sâu thẳm hơn cõi lòng tôi và cao hơn đỉnh cao của tôi.” Thực vậy, Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta và ở cùng chúng ta, nhưng Người vượt lên trên chúng ta trong mầu nhiệm của Người.

20. Về phương diện tín lý, không thể đạt được tình yêu hoàn hảo đối với Thiên Chúa nếu bỏ qua việc Người tự hiến cho chúng ta qua Người Con Nhập Thể, Đấng đã chịu đóng đinh và sống lại từ cõi chết. Trong Người, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta tham dự, nhờ ân sủng thuần khiết, vào đời sống nội tại của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu nói, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), Người không chỉ muốn nói về việc nhìn và biết hình dạng nhân loại của Người (“xác thịt chẳng ích gì,” Ga 6,63), mà ý Người là một cái nhìn được ân sủng đức tin ban cho.

Đó là một thị kiến cho phép qua sự mặc khải của Đức Giêsu mà ta cảm nhận bằng giác quan, ta thấy được điều Người thực sự muốn tỏ lộ cho chúng ta về Thiên Chúa (“Chính Thần Khí mới làm cho sống; lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”, Ga 6,63). Thị kiến này không phải là một sự trừu tượng thuần túy của con người từ hình dạng mà Thiên Chúa đã tự mặc khải; đúng hơn, đó là việc nắm bắt thực tại thần linh nơi hình dạng nhân loại của Đức Giêsu, chiều kích thần linh vĩnh cửu của Người trong hình thức tạm thời.

Như Thánh Inhaxiô nói trong Linh Thao, chúng ta nên cố gắng cảm nhận “hương thơm vô biên và sự ngọt ngào vô biên của thần tính” (số 124), bằng cách bắt đầu từ chân lý hữu hạn đã được mạc khải và tiến tới. Trong khi nâng chúng ta lên, Thiên Chúa tự do "làm trống" chúng ta khỏi tất cả những gì ràng buộc chúng ta với thế giới này, để kéo chúng ta hoàn toàn vào đời sống Ba Ngôi của tình yêu vĩnh cửu của Người. Tuy nhiên, ân sủng này chỉ có thể được ban “trong Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần,” chứ không qua nỗ lực tự mình rút lui khỏi sự mặc khải của Thiên Chúa.

Con đường soi sáng

21. Trên hành trình đời sống Kitô giáo, sự soi sáng theo sau sự thanh luyện, nhờ tình yêu mà Chúa Cha ban cho chúng ta qua Người Con và nhờ ơn xức dầu mà chúng ta lãnh nhận từ Người qua Chúa Thánh Thần (x. 1 Ga 2,20). Ngay từ thời kỳ Kitô giáo sơ khai, các tác giả đã nói về “sự soi sáng” nhận được trong Bí tích Rửa tội. Sau khi được dẫn vào các mầu nhiệm thần linh, sự soi sáng này giúp các tín hữu nhận biết Đức Kitô qua đức tin được thể hiện bằng tình yêu.

Một số tác giả Giáo Hội còn nói rõ về sự soi sáng nhận được qua Bí tích Rửa tội như nền tảng cho sự hiểu biết cao cả về Đức Kitô Giêsu (x. Pl 3,8), điều được định nghĩa là theoria hay chiêm niệm. Với ân sủng của Bí tích Rửa tội, các tín hữu được mời gọi tiến bộ trong việc nhận biết và làm chứng về các mầu nhiệm đức tin qua “sự cảm nghiệm thân mật với các thực tại thiêng liêng.”

Không ánh sáng nào từ Thiên Chúa có thể khiến những chân lý đức tin trở nên thừa thãi. Bất kỳ ân sủng soi sáng nào mà Thiên Chúa có thể ban thêm đều làm sáng tỏ hơn chiều sâu của các mầu nhiệm được Giáo Hội tuyên xưng và cử hành, trong khi chúng ta chờ đợi ngày mà người Kitô hữu có thể chiêm ngưỡng Thiên Chúa như Người là trong vinh quang (x. 1 Ga 3,2).

Con đường hợp nhất

22. Cuối cùng, Kitô hữu khi cầu nguyện có thể, nếu Thiên Chúa muốn, đạt đến một trải nghiệm đặc biệt về sự hiệp nhất. Các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Rửa tội và Thánh Thể, là nền tảng khách quan cho sự hiệp nhất giữa Kitô hữu và Thiên Chúa. Trên nền tảng này, người cầu nguyện có thể được mời gọi, nhờ ân sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, đến một loại hiệp nhất cụ thể với Thiên Chúa mà trong thuật ngữ Kitô giáo gọi là huyền nhiệm.

23. Không nghi ngờ gì, người Kitô hữu cần những khoảng thời gian rút lui vào thinh lặng để hồi tâm và, trong sự hiện diện của Thiên Chúa, tái khám phá con đường của mình. Tuy nhiên, vì là một thụ tạo, và là một thụ tạo biết rằng chỉ trong ân sủng người mới được an toàn, phương pháp đến gần Thiên Chúa của người Kitô hữu không dựa trên bất kỳ kỹ thuật nào theo nghĩa chặt chẽ. Điều đó sẽ mâu thuẫn với tinh thần trẻ thơ được Tin Mừng kêu gọi.

Chủ nghĩa huyền nhiệm Kitô giáo đích thực không liên quan gì đến kỹ thuật: đó luôn là một ân huệ của Thiên Chúa, và người nhận được ân huệ ấy biết rằng mình không xứng đáng.

24. Có những ân sủng huyền nhiệm được ban cho các đấng sáng lập các tu hội để phục vụ cho việc thiết lập của họ, cũng như được ban cho các thánh khác. Những ân sủng này đặc trưng cho kinh nghiệm cầu nguyện cá nhân của họ và không thể, tự bản chất, trở thành đối tượng bắt chước hay mong muốn cho những tín hữu khác, ngay cả đối với các thành viên thuộc cùng một tu hội hay những người tìm kiếm một cách cầu nguyện hoàn hảo hơn.

Có thể có những mức độ và cách thức khác nhau trong việc tham gia vào kinh nghiệm cầu nguyện của một vị sáng lập, mà không cần mọi thứ phải hoàn toàn giống nhau. Bên cạnh đó, kinh nghiệm cầu nguyện được đặt vào vị trí ưu tiên trong tất cả các tu hội thực sự thuộc về Giáo Hội, cả xưa và nay, cuối cùng luôn là một điều mang tính cá nhân. Chính với mỗi người riêng lẻ mà Thiên Chúa ban ân sủng cầu nguyện của Người.

25. Về chủ nghĩa huyền nhiệm, cần phân biệt giữa các ơn của Chúa Thánh Thần và các đặc sủng được Thiên Chúa ban hoàn toàn cách nhưng không. Các ơn Chúa Thánh Thần là điều mà mỗi Kitô hữu có thể làm tăng trưởng trong mình qua lòng nhiệt thành sống đức tin, cậy và mến; nhờ đó, qua nỗ lực khổ hạnh nghiêm túc, họ có thể đạt được một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa và các nội dung đức tin.

Về phần các đặc sủng, Thánh Phaolô nói rằng chúng trước hết là để phục vụ Giáo Hội, các chi thể khác của Thân Mình Mầu Nhiệm của Đức Kitô (x. 1 Cr 12,17). Với quan điểm này, cần nhớ rằng các đặc sủng không đồng nhất với những ân ban phi thường (mystical gifts), và sự phân biệt giữa “các ơn của Chúa Thánh Thần” và “các đặc sủng” có thể linh hoạt. Chắc chắn rằng một đặc sủng mang lại hoa trái cho Giáo Hội, trong bối cảnh của Tân Ước, không thể được thực hành mà không đạt tới một mức độ hoàn thiện cá nhân nào đó. Mặt khác, mọi Kitô hữu “sống động” đều có một nhiệm vụ đặc thù (và theo nghĩa này là một “đặc sủng”) “để xây dựng thân thể Đức Kitô” (x. Ep 4,15-16), trong sự hiệp thông với phẩm trật, mà nhiệm vụ là “không được dập tắt Thần Khí, nhưng phải thử nghiệm mọi sự và giữ lấy điều tốt lành” (Lumen Gentium, số 12).

VI. Các phương pháp tâm lý-thể lý

26. Kinh nghiệm con người cho thấy rằng tư thế và thái độ của thân thể cũng có ảnh hưởng đến sự tập trung và tâm trạng của tinh thần. Đây là một thực tế mà một số tác giả linh đạo Kitô giáo Đông và Tây phương đã lưu ý.

Những suy tư của họ, dù có điểm chung với các phương pháp suy niệm phi Kitô giáo phương Đông, nhưng tránh được những thái quá và phiến diện của các phương pháp này, vốn thường được khuyến khích cho những người ngày nay mà không có sự chuẩn bị đầy đủ.

Các tác giả linh đạo đã tiếp thu những yếu tố giúp cho việc hồi tâm trong cầu nguyện trở nên dễ dàng hơn, đồng thời nhận ra giá trị tương đối của chúng: chúng hữu ích nếu được cải biến theo mục đích cầu nguyện Kitô giáo. Chẳng hạn, việc ăn chay của Kitô hữu trước hết mang ý nghĩa là một hành động sám hối và hy sinh; nhưng, ngay từ thời các giáo phụ, nó cũng nhằm mục đích giúp con người sẵn sàng hơn để gặp gỡ Thiên Chúa và làm cho Kitô hữu có khả năng tự chủ hơn, đồng thời nhạy cảm hơn với nhu cầu của người khác.

Trong cầu nguyện, con người toàn diện phải bước vào mối tương quan với Thiên Chúa, và vì thế thân thể của họ cũng cần phải có tư thế phù hợp nhất với sự hồi tâm. Tư thế này, theo một cách biểu tượng, có thể diễn tả chính lời cầu nguyện, tùy thuộc vào các nền văn hóa và cảm thức cá nhân. Trên một số phương diện, các Kitô hữu ngày nay đang ý thức hơn về việc tư thế thân thể có thể hỗ trợ cầu nguyện.

27. Việc suy niệm Kitô giáo Đông phương đã đánh giá cao ý nghĩa biểu tượng tâm lý-thể lý, điều thường thiếu vắng trong các hình thức cầu nguyện Tây phương. Điều này có thể từ tư thế cụ thể của thân thể đến các chức năng cơ bản của đời sống, chẳng hạn như nhịp thở hoặc nhịp đập của trái tim. Thực hành “Kinh Nguyện Chúa Giêsu”, chẳng hạn, được điều chỉnh theo nhịp thở tự nhiên, có thể ít nhất trong một thời gian, thực sự giúp ích cho nhiều người.

Tuy nhiên, ngay cả các bậc thầy Đông phương cũng nhận thấy rằng không phải ai cũng thích hợp để sử dụng biểu tượng này, vì không phải ai cũng có khả năng chuyển từ dấu hiệu vật chất sang thực tại thiêng liêng mà người ta tìm kiếm. Nếu không được hiểu đúng đắn và đầy đủ, các biểu tượng này thậm chí có thể trở thành ngẫu tượng, cản trở việc nâng tâm hồn lên Thiên Chúa. Để sống trọn vẹn ý thức về thân thể như một biểu tượng trong cầu nguyện còn khó hơn: điều này có thể thoái hóa thành tôn thờ thân thể và dẫn đến việc xem mọi cảm giác thể lý như là kinh nghiệm thiêng liêng.

28. Một số bài tập thể lý tự động tạo ra cảm giác bình an và thư giãn, cảm giác dễ chịu, thậm chí có thể là hiện tượng ánh sáng hoặc hơi ấm, điều này giống với sự an ủi thiêng liêng. Việc xem những cảm giác này như là những sự an ủi đích thực của Chúa Thánh Thần là một sự hiểu sai hoàn toàn về đời sống thiêng liêng. Gán cho những cảm giác đó một ý nghĩa biểu tượng tương tự như trải nghiệm huyền nhiệm, trong khi tình trạng luân lý của người liên quan không tương xứng với một trải nghiệm như vậy, sẽ dẫn đến một dạng rối loạn tâm trí có thể dẫn đến bất ổn tâm lý và đôi khi cả những lệch lạc về luân lý.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những thực hành suy niệm chính đáng, xuất phát từ Kitô giáo Đông phương hoặc các tôn giáo lớn phi Kitô giáo, vốn hấp dẫn đối với con người ngày nay, những người đang chia rẽ và mất phương hướng, không thể là những phương tiện thích hợp để giúp người cầu nguyện đến trước Thiên Chúa trong sự bình an nội tâm, ngay cả giữa những áp lực từ bên ngoài.

Dẫu vậy, cần nhớ rằng sự kết hợp thường xuyên với Thiên Chúa—nghĩa là thái độ nội tâm luôn tỉnh thức và khẩn cầu sự trợ giúp của Người, điều mà Tân Ước gọi là “cầu nguyện không ngừng” (x. 1 Tx 5,17)—không nhất thiết bị gián đoạn khi một người cũng dành bản thân mình, theo ý muốn của Thiên Chúa, cho công việc và việc chăm sóc tha nhân. Thánh Phaolô nói: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).

Thực ra, lời cầu nguyện chân chính, như các bậc thầy linh đạo dạy, khơi dậy nơi người cầu nguyện một tình yêu cháy bỏng, thúc đẩy họ cộng tác vào sứ mạng của Giáo Hội và phục vụ anh chị em mình vì vinh quang lớn lao hơn của Thiên Chúa.

VII. “Thầy là Đường”

29. Trong sự phong phú của các hình thức cầu nguyện Kitô giáo mà Giáo Hội đề nghị, mỗi tín hữu được mời gọi tìm kiếm và khám phá con đường cầu nguyện riêng của mình. Tuy nhiên, tất cả những con đường cá nhân này, cuối cùng, đều hội tụ vào con đường hướng về Chúa Cha, điều mà chính Đức Giêsu Kitô đã mô tả về mình. Trong việc tìm kiếm con đường riêng, mỗi người sẽ để mình được hướng dẫn không phải bởi sở thích cá nhân, mà bởi Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt họ, qua Đức Kitô, đến với Chúa Cha.

30. Tuy nhiên, đối với người thật lòng nỗ lực cầu nguyện, sẽ có những thời điểm họ cảm thấy mình đang lang thang trong sa mạc, và dù đã cố gắng hết sức, họ “không cảm nhận” được sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cần biết rằng những thử thách này không loại trừ bất kỳ ai nghiêm túc với việc cầu nguyện. Tuy nhiên, họ không nên ngay lập tức xem trải nghiệm này, vốn phổ biến cho tất cả Kitô hữu cầu nguyện, như là “đêm tối” theo nghĩa huyền nhiệm. Trong bất kỳ trường hợp nào, trong những thời khắc này, lời cầu nguyện mà họ kiên trì thực hành có thể cho họ cảm giác về một dạng “tính giả tạo”, mặc dù thực tế đây là điều hoàn toàn khác: chính vào thời điểm này, lời cầu nguyện là sự biểu lộ lòng trung thành của họ với Thiên Chúa, Đấng mà họ muốn ở trong sự hiện diện, ngay cả khi không nhận được bất kỳ sự an ủi chủ quan nào đáp lại.

Trong những thời khắc tưởng chừng tiêu cực này, điều rõ ràng hơn hết là người cầu nguyện thực sự đang tìm kiếm điều gì: liệu họ có thực sự đang tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng vượt trên họ trong sự tự do vô hạn của Người, hay chỉ đang tìm kiếm chính mình mà không thể vượt qua được những “kinh nghiệm” của riêng mình, dù là tích cực—như cảm giác hiệp nhất với Thiên Chúa, hay tiêu cực—như cảm giác “trống rỗng” huyền nhiệm.

31. Tình yêu Thiên Chúa, mục tiêu duy nhất của sự chiêm niệm Kitô giáo, là một thực tại không thể bị “kiểm soát” bởi bất kỳ phương pháp hay kỹ thuật nào. Ngược lại, chúng ta luôn phải hướng ánh mắt về Đức Giêsu Kitô, nơi đó tình yêu của Thiên Chúa đã chấp nhận thập giá vì chúng ta và thậm chí đã trải qua cảm giác bị Chúa Cha lìa bỏ (x. Mc 15,34). Chúng ta cần để Thiên Chúa quyết định cách Người muốn chúng ta tham gia vào tình yêu của Người.

Chúng ta không bao giờ, dù dưới bất kỳ hình thức nào, được cố gắng đặt mình ngang hàng với đối tượng của sự chiêm niệm, tức tình yêu tự do của Thiên Chúa; ngay cả khi, nhờ lòng thương xót của Chúa Cha và Thánh Thần được ban vào lòng chúng ta, trong Đức Kitô, chúng ta nhận được ân huệ của cảm nghiệm nhạy bén về tình yêu thần linh ấy, và cảm thấy bị lôi cuốn bởi chân lý, vẻ đẹp và sự tốt lành của Chúa.

Càng được phép đến gần Thiên Chúa, thụ tạo càng thêm lòng kính sợ đối với Thiên Chúa chí thánh. Khi đó, người ta sẽ hiểu được những lời của Thánh Augustinô: “Ngài có thể gọi tôi là bạn; nhưng tôi nhận mình chỉ là tôi tớ.” Hoặc những lời quen thuộc hơn của Đấng đã được thưởng ban mức độ thân mật cao nhất với Thiên Chúa: “Người đã đoái nhìn phận nữ tỳ hèn mọn của Người” (Lc 1,48).

Kết luận

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong buổi tiếp kiến dành cho Hồng y Tổng trưởng ký tên dưới đây, đã chuẩn nhận lá thư này, được soạn thảo trong một phiên họp toàn thể của Thánh Bộ, và đã truyền công bố lá thư này.

Tại Rôma, từ Văn phòng Bộ Giáo lý Đức tin, ngày 15 tháng 10 năm 1989, Lễ kính Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu.

 

Joseph Card. Ratzinger
Prefect

Alberto Bovone
Titular Archbishop of Caesarea in Numidia
Secretary

-----------

Bản văn tiếng Việt lấy từ Phải Làm Gì?

Endnotes

AAS 82 (1990) 362-379.

1. Cụm từ “các phương pháp phương Đông” được dùng để chỉ những phương pháp chịu ảnh hưởng từ Ấn Độ giáo và Phật giáo, chẳng hạn như “Thiền Zen,” “Thiền Siêu Việt” hoặc “Yoga.” Do đó, nó ám chỉ các phương pháp chiêm niệm của Viễn Đông không thuộc Kitô giáo mà ngày nay cũng không hiếm khi được một số Kitô hữu áp dụng trong việc cầu nguyện của họ. Việc định hướng các nguyên tắc và phương pháp được trình bày trong tài liệu này nhằm mục đích làm điểm quy chiếu không chỉ cho vấn đề này, mà còn, theo cách tổng quát hơn, cho các hình thức cầu nguyện khác nhau đang được thực hành hiện nay trong các tổ chức thuộc Giáo Hội, đặc biệt là trong các hiệp hội, phong trào và nhóm.

2. Regarding the Book of Psalms in the prayer of the Church, cf. Institutio generalis de Liturgia Horarum, nn. 100-109.

3. Cf. for example, Ex 15; Deut 32; 1 Sam 2; 2 Sam 22 and some prophetic texts, 1 Chron 16.

4. Dogm. Const. Dei Verbum, n. 2. This document offers other substantial indications for a theological and spiritual understanding of Christian prayer; see also, for example, nn. 3, 5, 8, 21.

5. Dogm. Const. Dei Verbum, n. 25.

6. Regarding the prayer of Jesus, see Institutio generalis de Liturgia Horarum, nn. 3-4.

7. Cf. Institutio generalis de Liturgia Horarum, n. 9.

8. Chủ nghĩa giả ngộ (Pseudognosticism) xem vật chất là thứ ô uế và suy đồi, bao bọc linh hồn trong sự u mê mà lời cầu nguyện phải giải thoát nó khỏi đó, nhằm nâng linh hồn lên tri thức siêu việt đích thực và đến trạng thái thanh khiết. Tất nhiên, không phải ai cũng có khả năng đạt được điều này, mà chỉ những người thực sự thuộc về linh giới; còn đối với các tín hữu đơn sơ, đức tin và việc tuân giữ các điều răn của Chúa Kitô là đủ.

9. Giáo phái Messalian đã bị thánh Ephraim xứ Syria lên án (Hymni contra Haereses 22, 4, ed. E. Beck, CSCO 169, 1957, tr. 79), và sau đó cũng bị các nhân vật khác như Epiphanius xứ Salamina (Panarion, còn gọi là Adversus Haereses: PG 41, 156-1200; PG 42, 9-832), và giám mục Amphilochius xứ Iconium (Contra haereticos: G. Ficker, Amphilochiana I, Leipzig 1906, tr. 21-77) chỉ trích.

10. Xem, ví dụ, Thánh Gioan Thánh Giá, Subida del Monte Carmelo, quyển II, chương 7.

11. Vào thời Trung Cổ, đã xuất hiện những xu hướng cực đoan bên lề Giáo Hội. Một trong những nhà chiêm niệm Kitô giáo vĩ đại, Jan van Ruysbroek người Flemish, đã mô tả các khuynh hướng này không thiếu phần châm biếm. Ông phân biệt ba loại lệch lạc trong đời sống huyền nhiệm (Die gheestelike Brulocht 228, 12-230, 17; 230, 18-232, 22; 232, 23-236, 6) và đưa ra lời phê bình chung về các hình thức đó (236, 7-237, 29). Những kỹ thuật tương tự sau đó cũng bị Thánh Têresa Avila bác bỏ; bà đã nhận định sâu sắc rằng "chính sự cẩn trọng không nghĩ đến điều gì lại khiến tâm trí suy nghĩ rất nhiều," và việc tách mầu nhiệm của Chúa Kitô ra khỏi suy niệm Kitô giáo luôn là một hình thức "phản bội" (xem Vida 12, 5 và 22, 1-5).

12. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chỉ cho toàn thể Giáo Hội thấy gương sáng và giáo huấn của Thánh Têresa Avila, người đã từng phải khước từ cám dỗ của những phương pháp gợi ý loại bỏ nhân tính của Chúa Kitô để hướng đến một sự hòa tan mơ hồ trong vực thẳm thần tính. Trong một bài giảng ngày 1 tháng 11 năm 1982, ngài nói rằng lời kêu gọi của Têresa thành Giêsu hướng tới một đời sống cầu nguyện hoàn toàn quy hướng về Chúa Kitô “vẫn còn có giá trị, ngay cả trong thời đại chúng ta, trước một số phương pháp cầu nguyện không được linh hứng từ Tin Mừng và trên thực tế có khuynh hướng gạt Chúa Kitô sang một bên để nhường chỗ cho một khoảng trống tinh thần vô nghĩa trong Kitô giáo. Bất kỳ phương pháp cầu nguyện nào đều có giá trị nếu nó được linh hứng từ Chúa Kitô và dẫn đưa đến Chúa Kitô, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (x. Ga 14,6).” Xem: Homilia Abulae habita in honorem Sanctae Teresiae: AAS 75 (1983), tr. 256-257.

13. Xem, chẳng hạn, tác phẩm The Cloud of Unknowing, một tác phẩm linh đạo của một tác giả ẩn danh người Anh vào thế kỷ XIV.

14. Trong các văn bản tôn giáo Phật giáo, khái niệm "Niết Bàn" được hiểu là trạng thái tĩnh lặng đạt được qua sự diệt tận mọi thực tại hữu hình, vốn là vô thường, và vì vậy mang tính ảo tưởng và khổ đau.

15. Meister Eckhart nói về một sự hòa tan “vào vực thẳm bất định của thần tính,” một “bóng tối nơi ánh sáng của Ba Ngôi không bao giờ chiếu rọi.” Xem Sermo "Ave Gratia Plena" in fine (J. Quint, Deutsche Predigten und Traktate, Hanser 1955, tr. 261).

16. Xem Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, số 19, đoạn 1: “Phẩm giá của con người hệ tại trước hết ở chỗ con người được mời gọi để sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi đối thoại với Thiên Chúa được gửi đến con người ngay khi họ được tạo thành. Vì nếu con người hiện hữu, thì đó là vì Thiên Chúa đã tạo dựng họ trong tình yêu và trong tình yêu tiếp tục gìn giữ họ trong sự hiện hữu. Con người không thể sống trọn vẹn theo chân lý nếu không tự do nhận biết tình yêu ấy và phó thác bản thân cho Đấng Tạo Hóa.”

17. As St. Thomas writes of the Eucharist: "… proprius effectus huius sacramenti est conversio hominis in Christum, ut dicat cum Apostolo: 'Vivo ego, iam non ego; vivit vero in me Christus' (Gal 2:20)" (In IV Sent., d. 12, q. 2, a. 1).

18. Decl. Nostra aetate, n. 2.

19. St. Ignatius of Loyola, Ejercicios espirituales, n. 23 et passim.

20. Cf. Col 3:5; Rom 6:11ff.; Gal 5:24.

21. St. Augustine. Enarrationes in Psalmos XLI, 8: PL 36, 469.

22. St. Augustine, Confessiones 3, 6, 11: PL 32, 688. Cf. De vera Religione 39, 72: PL 34, 154.

23. Ý nghĩa Kitô giáo tích cực về việc "tự làm trống rỗng khỏi các thụ tạo" được thể hiện cách gương mẫu nơi Thánh Phanxicô Assisi. Chính vì đã từ bỏ các thụ tạo vì tình yêu Thiên Chúa, ngài lại thấy mọi sự đều đầy tràn sự hiện diện của Thiên Chúa và tỏa sáng trong phẩm giá là thụ tạo của Ngài. Bài ca thầm kín trong bản thể của muôn loài đã được ngài ngân lên trong Cantico delle Creature. Xem: C. Esser, Opuscula Sancti Patris Francisci Assisiensis, Ed. Ad Claras Aquas, Grottaferrata (Roma) 1978, tr. 83–86. Cũng với tinh thần ấy, ngài viết trong Lettera a tutti i fedeli:

"Nguyện cho mọi thụ tạo trên trời, dưới đất, trong biển cả và nơi vực thẳm (Kh 5,13) dâng lời ngợi khen, vinh quang, danh dự và chúc tụng Thiên Chúa, vì Ngài là sự sống và sức mạnh của chúng ta. Ngài là Đấng duy nhất tốt lành (Lc 18,19), duy nhất chí cao, duy nhất toàn năng và kỳ diệu, vinh hiển và thánh thiện, đáng chúc tụng và được ca ngợi muôn đời muôn thuở. Amen." (Opuscula…, tr. 124).

Thánh Bonaventura cho thấy trong mỗi thụ tạo, Phanxicô đều nhận ra lời kêu gọi của Thiên Chúa và tuôn đổ linh hồn mình trong bài thánh thi lớn lao của lòng biết ơn và ngợi khen (x. Legenda S. Francisci, chương 9, số 1, trong Opera Omnia, ed. Quaracchi 1898, Tập VIII, tr. 530).

24. Xem, chẳng hạn: Thánh Giustinô, Apologia I, 61, 12-13: PG 6, 420-421; Clêmentê thành Alexandria, Paedagogus I, 6, 25-31: PG 8, 281-284; Thánh Basiliô thành Caesarea, Homiliae diversae 13, 1: PG 31, 424-425; Thánh Grêgôriô Nazianzênê, Orationes 40, 3, 1: PG 36, 361.

25. Hiến chế Tín lý Dei Verbum, số 8.

26. Bí tích Thánh Thể, mà Hiến chế Tín lý Lumen Gentium gọi là “nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Kitô hữu” (LG 11), làm cho chúng ta “thực sự được dự phần vào thân thể của Chúa”; trong đó “chúng ta được cuốn vào sự hiệp thông với Ngài” (LG 7).

27. Cf. St. Teresa of Jesus, Castillo Interior IV, 1, 2.

28. Không ai trong đời sống cầu nguyện lại mong ước một thị kiến bao quát về các mặc khải của Thiên Chúa, trừ khi được một ân sủng đặc biệt, giống như Thánh Grêgôriô nhận thấy nơi Thánh Biển Đức, hay một thúc đẩy thần bí như Thánh Phanxicô Assisi chiêm ngắm Thiên Chúa trong muôn loài thụ tạo, hay một thị kiến toàn diện tương tự như Thánh I-nhã đã nhận được bên dòng sông Cardoner, đến độ ngài nói rằng thị kiến ấy có thể thay thế cho Kinh Thánh đối với ngài. “Đêm tối thiêng liêng” mà Thánh Gioan Thánh Giá mô tả là một phần trong đặc sủng cá nhân của ngài về đời sống cầu nguyện. Không phải tất cả những người cùng dòng với ngài đều cần trải qua điều đó theo cách tương tự để đạt đến mức độ hoàn thiện trong cầu nguyện mà Thiên Chúa mời gọi họ.

29. Ơn gọi của người Kitô hữu đối với những kinh nghiệm "thần bí" có thể bao gồm cả điều mà Thánh Thomas Aquinas phân loại là một kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa thông qua các hồng ân của Chúa Thánh Thần, cũng như những hình thức ân sủng đặc biệt và không thể bắt chước (và vì thế không nên khao khát). Xem: Thánh Thomas Aquinas, Summa Theologiae, Ia-IIae, q. 68, a. 1 c, cũng như a. 5, ad 1.

30. See, for example, the early writers, who speak of the postures taken up by Christians while at prayer: Tertullian, De Oratione XIV: PL 1, 1170; XVII: PL 1, 1174-1176; Origen, De Oratione XXXI, 2: PG 11, 550-553, and of the meaning of such gestures: Barnabas, Epistula XII, 2-4: PG 2, 760-761; St. Justin, Dialogus 90, 4-5: PG 6, 689-692; St. Hippolytus of Rome, Commentarium in Dan. III, 24: GCS I, 168, 8-17; Origen, Homiliae in Ex. XI, 4: PG 12, 377-378. For the position of the body see also, Origen, De Oratione, XXXI, 3: PG 11, 553-555.

31. Cf. St. Ignatius of Loyola, Ejercicios Espirituales, n. 76.

32. Such as, for example, that of the Hesychast anchorites. Hesychia or external and internal quiet is regarded by the anchorites as a condition of prayer. In its oriental form it is characterized by solitude and techniques of recollection.

33. Việc thực hành “Kinh Nguyện Chúa Giêsu,” bao gồm việc lặp đi lặp lại công thức cầu khẩn và nài xin phong phú những trích dẫn Kinh Thánh (ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót con”), được điều chỉnh theo nhịp thở tự nhiên. Về vấn đề này, xin tham khảo Thánh Inhaxiô thành Loyola, Linh Thao, số 258.

34. Cf. 1 Thess 5: 17, also 2 Thess 3: 8-12. From these and other texts there arises the question of how to reconcile the duty to pray continually with that of working. See, among others, St. Augustine, "Epistula" 130, 20: PL 33, 501-502 and St. John Cassian, De Institutis coenobiorum III, 1-3: SC 109, 92-93. Also, the Demonstration of Prayer by Aphraat, the first father of the Syriac Church, and in particular nn. 14-15, which deal with the so-called "works of Prayer" (cf. the edition of J. Parisot, Afraatis Sapientis Persae Demonstrationes IV: PS 1, pp. 170-174).

35. Cf. St. Teresa of Jesus, Castillo Interior VII, 4, 6.

36. St. Augustine, Enarrationes in Psalmos CXLII, 6: PL 37, 1849. Also see: St. Augustine, Tract. in Ioh. IV, 9: PL 35, 1410: "Quando autem nec ad hoc dignum se dicit, vere plenus Spiritu Sancto erat, qui sic servus Dominum agnovit, et ex servo amicus fieri meruit."

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive