Thứ Hai, 28 tháng 4, 2025

Tại sao chúng ta sợ chết? Chúa Giêsu Phục sinh đã tiêu diệt tử thần

Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết. Người đã sống lại. Người đã bước xuyên qua cánh cửa của tử thần và sống lại từ cõi chết: “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. (Khải huyền 12:17-18)

Phần chúng ta, tại sao chúng ta sợ chết? Có ba lý do.

Thứ nhất, chết là điều chưa ai bên thế giới này biết đến. Nhưng Chúa Kitô đã cho chúng ta hiểu biết về nó. Giờ đây, chúng ta không còn nhìn cái chết như một cánh cửa tối tăm, mà là một cánh cửa sáng chói. Cái chết dẫn đến sự phục sinh, dẫn lên trời, chứ không phải xuống lòng đất.

Thứ hai, trong cái chết, chúng ta dường như mất hết mọi thứ—mất sự sống, ánh sáng và tình yêu của cuộc sống. Mọi thứ dường như bị cuốn trôi đi trong cái chết. Nhưng Chúa Kitô đã mở ra cánh cửa tối tăm ấy đến với ánh sáng, đến với sự sống, ánh sáng và tình yêu vĩ đại hơn nữa – ba điều chúng ta khao khát nhất.

Lý do thứ ba là nghiêm trọng nhất. Chúng ta sợ chết vì chúng ta sợ phán xét công minh trong ngày sau hết. Vì chúng ta biết mình là tội nhân, xứng đáng chịu hình phạt. Nhưng Chúa Kitô đã gánh lấy hình phạt ấy thay cho chúng ta. Người đã đổi chỗ với chúng ta: chúng ta nhận được điều Người đáng được nhận, còn Người chịu điều chúng ta đáng chịu. Đó là cuộc trao đổi vĩ đại: Mạng sống của Thầy đổi lấy mạng sống của con.

Chúa Kitô đã hoàn toàn thay đổi ý nghĩa của cái chết. Thánh Phaolô, khi nói về những hoa quả của sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 15 – một trong những đoạn Kinh Thánh mạnh mẽ và hùng hồn nhất – đã dùng hình ảnh ngòi độc của con ong. Phaolô chế giễu cái chết như một con ong không còn nọc độc. Ngài nói: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? / Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? / Nọc độc của sự chết là tội lỗi… Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 15, 55–57).

Cái chết bây giờ như con ong đã bị rút nọc, vì Chúa Kitô đã chịu uống chén độc của nó để cứu chúng ta khỏi nó.

Hình ảnh cái nọc độc và con ong cũng diễn tả cùng một chân lý như hình ảnh cánh cửa và chiếc chìa khóa. Điểm chính là: Chúa Kitô đã thay đổi tất cả cho chúng ta – cả sự sống lẫn sự chết. “Này đây, Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21,5), Người nói trong sách Khải Huyền. Và cũng trong sách ấy, Người phán rằng đây là lời của “Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng nắm giữ chìa khóa của Đavít, Đấng mở ra thì không ai đóng lại, đóng lại thì không ai mở ra” (Kh 3,7). -- Dr. Peter Kreeft

Share:

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

Bí tích Hoà Giải: ơn tha tội và sự bình an

Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Gioan 20:22-23)

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. (1 Gioan 2:1-2)

Chúa đã phải một giá rất đắt cho ơn tha tội và sự bình an mà Chúa Phục sinh ban cho chúng ta: mạng sống Chúa Kitô thay thế cho mạng sống của chúng ta. Và Chúa biết chúng ta sẽ sa ngã nhưng Chúa muốn chúng ta tiếp tục lãnh nhận sự bình an của Ngài nên đã thiết lập chức vụ linh mục và Bí tích Hoà Giải.

“Khi chúng ta phạm tội, chúng ta đã đóng cửa thiên đàng và mở cửa hỏa ngục. Khi Chúa Kitô chịu chết vì tội lỗi chúng ta và sống lại vì ơn cứu độ chúng ta, Người đã mở cửa thiên đàng và đóng lại cửa hỏa ngục.

Chúa Giêsu cũng dùng chính hình ảnh cánh cửa mở và cửa đóng này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23).

Quyền tháo và buộc, quyền mở và đóng cửa trời, quyền hòa giải con người với Thiên Chúa, chỉ một mình Chúa Giêsu nắm trong tay, vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Người Do Thái đã nói đúng khi họ nghe Chúa Giêsu tha tội: “Ai có quyền tha tội ngoài Thiên Chúa?” (Mc 2,7). Nếu Chúa Giêsu không phải là Thiên Chúa, thì lời tuyên bố ấy là một sự phạm thượng, đáng bị kết án tử hình.

Nhưng Đức Giêsu là Thiên Chúa và Người đã trao quyền tha tội cho các Tông Đồ; Chúa đã thiết lập Bí tích Hòa Giải.

Trước khi bước vào tòa giải tội, tội lỗi của chúng ta chưa được tha; nhưng khi bước ra, chúng đã được tha. Mối tương quan của ta với Thiên Chúa thực sự thay đổi trong không gian nhỏ hẹp ấy. Ađam bước vào, và Giêsu bước ra. Ma quỷ ghét và sợ nơi ấy. Những lời tha tội mà linh mục đọc không chỉ là lời loài người, mà là lời của Thiên Chúa, là lời hứa thần linh, có sức mạnh thật sự để tha tội, vì chính Chúa đã trao quyền ấy cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài. Chỉ tác giả mới có quyền bổ nhiệm người kế vị, và chỉ những người kế vị ấy mới có thể trao quyền cho người kế vị kế tiếp, qua “chuỗi kế vị Tông Truyền” trong bí tích Truyền Chức Thánh.

Bạn biết mình được tha tội khi xưng tội với một linh mục Công giáo, không phải vì linh mục ấy thánh thiện, hay vì bạn xứng đáng, mà vì Chúa Giêsu là Đấng Thánh thiện và quyền năng để làm những điều Người đã hứa. Lời của Thiên Chúa là chân thật. Thiên Chúa không thể nói dối.” -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

Thiên Chúa không ngừng theo đuổi: Con ơi, hãy về với Ta

Một người phụ nữ từng viết thư cho tôi về người anh trai của cô, nói rằng anh ta đang hấp hối trong bệnh viện và đã không lãnh nhận bí tích nào khoảng ba mươi năm. Cô nói không chỉ là một người tội lỗi, anh còn là một người xấu xa. Có sự khác biệt giữa người xấu và người ác. Người xấu có thể trộm cắp; người xấu có thể giết người. Nhưng một người ác có thể không làm những điều đó, mà lại tìm cách hủy diệt sự thiện nơi người khác. Người đàn ông này là một kẻ như thế. Anh ta đã làm nhiều điều để làm băng hoại giới trẻ và phát tán đủ loại tài liệu đồi bại nhằm phá hủy đức tin và đạo đức.

Người em gái của anh ấy viết: “Khoảng hai mươi linh mục đã đến gặp anh ấy, nhưng anh đều đuổi họ ra khỏi phòng bệnh. Cha có thể gặp anh ấy không?” Tôi trở thành Sheen, “giải pháp cuối cùng.”

Tối hôm đó tôi đến thăm ông ấy, và chỉ ở lại khoảng năm giây vì tôi biết mình cũng sẽ không khá hơn ai. Nhưng thay vì bỏ cuộc, tôi quyết định trở lại – không chỉ một lần, mà là bốn mươi lần. Suốt bốn mươi đêm liền tôi đến thăm người đàn ông này. Đêm thứ hai tôi ở lại khoảng mười đến mười lăm giây, rồi mỗi đêm tăng thêm năm đến mười giây, và đến cuối tháng, tôi đã có thể ở bên ông ta mười đến mười lăm phút. Nhưng tôi chưa bao giờ nhắc đến chuyện đời sống thiêng liêng của ông ấy—cho đến đêm thứ bốn mươi.

Đêm thứ bốn mươi, tôi mang theo Mình Thánh Chúa và Dầu Thánh, và tôi nói với ông: “William, anh sẽ qua đời đêm nay.”

Ông ấy nói: “Tôi biết.”

Ông đang chết vì ung thư, nhưng là ung thư mặt, một trong những nỗi đau thể xác và tinh thần khủng khiếp nhất mà bạn có thể tưởng tượng.

Tôi nói: “Tôi chắc rằng anh muốn làm hòa với Chúa đêm nay.”

Ông ta đáp: “Tôi không muốn! Hãy cút đi!”

Tôi nói: “Tôi không đến đây một mình.”

Ông hỏi: “Ai đi với ông?”

Tôi nói: “Tôi mang theo Chúa đây. Anh cũng muốn Ngài đi ra sao?”

Ông không nói lời nào. Thế là tôi quỳ bên cạnh giường ông khoảng mười lăm phút, vì tôi mang theo Mình Thánh Chúa. Tôi hứa với Chúa rằng nếu người đàn ông này tỏ dấu hiệu ăn năn trước khi chết, tôi sẽ xây một nhà nguyện ở miền Nam nước Mỹ cho người nghèo, một nhà nguyện trị giá 3.500 đô la. Không phải nhà nguyện lớn, nhưng đó là khoản tiền rất lớn đối với tôi.

Sau lời cầu nguyện, tôi lại nói: “William, tôi chắc rằng anh muốn làm hòa với Chúa trước khi chết.”

Ông ấy đáp: “Tôi không muốn! Cút khỏi đây!”

Rồi ông bắt đầu la hét gọi y tá. Để ông không la hét nữa, tôi chạy ra cửa như thể tôi sẽ rời ông, rồi nhanh chóng quay lại, áp mặt mình xuống gần mặt ông trên gối và nói: “Chỉ một điều thôi, William. Trước khi anh chết đêm nay, hãy hứa với tôi rằng anh sẽ nói, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con.’”

Ông ấy nói: “Tôi sẽ không! Cút ra khỏi đây!”

Tôi phải rời nơi đó. Tôi nói với y tá rằng nếu ông ấy cần tôi trong đêm, cứ gọi. Khoảng bốn giờ sáng, y tá gọi cho tôi và nói, “Ông ấy vừa mất.”

Tôi hỏi, “Ông ấy mất như thế nào?”

Bà ấy nói, “Khoảng một phút sau khi cha ra khỏi đó, ông ấy bắt đầu nói, ‘Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con,’ và không ngừng nói câu đó cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.”

Bạn thấy đấy, tôi không hề có chút ảnh hưởng nào trên linh hồn ông ấy. Đây là một cuộc viếng thăm từ Thiên Chúa – một cuộc xâm nhập thần linh từ bên ngoài. Dù một người còn giữ đức tin hay không, điều ấy không làm giới hạn quyền năng của Thiên Chúa. Luôn luôn có khả thể cho một cuộc can thiệp nhiệm mầu từ Thiên Chúa.

Hồng ân đó thường đến nhẹ nhàng như một làn gió, đến nỗi con người không nhận ra – thậm chí còn khước từ. Hãy nhớ lại Thánh Âu-tinh: ơn hoán cải đến với ngài qua tiếng hát vô tình của một đứa trẻ khi ngài đang lạc lối giữa cuộc đời hoang đàng. Sau đó, vị tiến sĩ Hội Thánh đã viết nên những lời bất hủ:

“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1, 1).

Charles de Foucauld, một kẻ trăng hoa khét tiếng, từng sống buông thả giữa những cuộc phiêu lưu xa hoa, lại tìm thấy ánh sáng ân sủng dưới bầu trời sa mạc Sahara. Nơi ấy, giữa đêm tĩnh mịch, ông chịu đựng điều mà nhà thơ Francis Thompson gọi là “sự tra vấn không ngượng ngùng của mỗi ngôi sao.” Chính tại đó, ân sủng chạm đến ông. Ông trở lại, trở nên linh mục, sống giữa những người Hồi giáo nơi hoang địa, và cuối cùng, hiến dâng mạng sống như một vị tử đạo. -- ĐTGM Fulton Sheen, Your Life Is Worth Living

Share:

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2025

Nếu chẳng may bị vấp ngã

Bạn muốn thoát khỏi sự ràng buộc của việc nghiện điện thoại? Rèn Luyện: 33 ngày hướng tới tự do đưa ra một chương trình để bạn có để từng bước một chiếm lại sự tự chủ.

Nếu chẳng may bị vấp ngã, hãy đứng dậy ngay. Với sự trợ giúp không bao giờ thiếu của Thiên Chúa khi các phương thế thích hợp được sử dụng, chúng ta hãy mau chóng sám hối cách chân thành và khiêm tốn, rồi sửa sai; như thế, sự vấp ngã nhất thời của ta sẽ được biến đổi thành chiến thắng rạng ngời của Đức Giêsu Kitô.

… Chúng ta còn phải lấp đầy thời giờ bằng các công việc được làm cách nhiệt tình và đầy trách nhiệm, nơi đó chúng ta tìm kiếm sự hiện diện của Chúa, vì chúng ta không bao giờ được phép quên rằng mình được cứu chuộc bằng một giá vĩ đại và chúng ta là đền thờ của Thánh Thần.

Tôi còn cần khuyên các bạn điều gì nữa đây? Vâng, đơn giản hãy làm những gì mà người Kitô hữu thật sự bước theo Chúa Giêsu luôn thực hiện, và sử dụng những phương thế mà các Kitô hữu đầu tiên đã sử dụng, khi được thôi thúc bước theo Chúa Giêsu: phát triển mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, chạy đến Đức Trinh Nữ như một đứa trẻ, khiêm nhu, điều độ, hãm mình về ngũ quan (Thánh Grêgôriô Cả đã cảnh báo: “Không nên nhìn những gì không đáng ao ước”) và sám hối.

Các bạn có thể bảo rằng hết thảy những điều trên chẳng khác gì một bản tóm tắt cả đời sống Kitô hữu. Quả thực, đức thanh khiết – chính là tình yêu – không thể tách rời khỏi điều cốt yếu của đức tin là bác ái, là không ngừng yêu Chúa, Đấng đã dựng nên và cứu chuộc chúng ta, và luôn nắm tay chúng ta, dù biết bao lần chúng ta thậm chí chẳng màng đến điều đó. Người không thể bỏ rơi chúng ta. “Sion từng nói: Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng đã quên tôi rồi!′ Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên người bao giờ.” Những lời đó không làm bạn tràn ngập niềm vui sao? – Thánh Josemaria Escriva, Bạn của Chúa

Share:

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Một câu chuyện về Lòng Thương Xót Chúa

Salvador, con trai nuôi của tôi, đã kể cho tôi về một người bạn tên là Andy; Andy cần sự giúp đỡ. Andy đã là một vận động viên xuất sắc ở trường trung học, một ngôi sao bóng chày cấp cao với tương lai đầy triển vọng. Thực tế, anh ấy đã được các đội bóng chày chuyên nghiệp để mắt đến ngay từ khi ra trường trung học. Tuy nhiên, Andy cũng đã hút cần sa từ khi mới mười tuổi, nhưng anh che giấu điều đó rất giỏi và vẫn thi đấu ở mức độ thể chất cao nhờ vào tuổi trẻ và khả năng tự nhiên của mình.

Andy được yêu cầu thử sức với một đội bóng chày chuyên nghiệp nhỏ; anh đã tham gia buổi thử và vượt qua cách xuất sắc. Andy được đảm bảo rằng anh sẽ được chọn chơi trong MLB, đội bóng chày chuyên nghiệp trong vòng một hoặc hai năm. Andy hình dung mình sẽ trở nên giàu có và nổi tiếng khi anh đến tuổi hai mươi bốn hoặc hai mươi lăm tuổi. Tương lai của Andy chắc chắn rất hứa hẹn. Tuy nhiên, dù là người Công giáo, anh đã không còn thực hành đức tin của mình; anh nhìn mọi sự theo chủ nghĩa nhân văn trần tục và là người hút cần sa mỗi ngày. Bạn có biết ĐTGM Fulton Sheen đã nói trong một bài giảng vào những năm 1970 có tựa đề “A Voice from Calvary / Một Giọng Nói Từ Núi Canvê” rằng con quỷ của ma túy và cần sa có tên là “Bachus”.

Các tuyển trạch viên từ đội bóng chày farm liên kết với các đội MLB đã đến thăm Andy một cách bất ngờ ở East LA. Họ nói với anh rằng trước khi anh đi đến trại huấn luyện ở Arizona vào mùa xuân, anh phải cung cấp một mẫu nước tiểu vì họ muốn chắc chắn rằng anh không sử dụng ma túy bất hợp pháp. Andy đã rất ngạc nhiên với chuyến thăm này; các tuyển trạch viên theo anh vào nhà vệ sinh để chứng kiến anh lấy mẫu xét nghiệm. Một tuần sau, các tuyển trạch viên bóng chày gọi điện cho Andy và thông báo rằng mọi cơ hội đều đã chấm dứt. Họ phát hiện có cần sa, cocaine và methamphetamine trong cơ thể anh. Sự nghiệp bóng chày của Andy đã kết thúc trước khi nó bắt đầu. Andy, vừa tròn mười chín tuổi, đã bị suy sụp và cảm thấy như cả cuộc đời mình sụp đổ.

Andy rơi vào một cơn trầm cảm nghiêm trọng trong suốt hai năm rưỡi tiếp theo. Anh tiếp tục sử dụng ma túy mỗi ngày, bỏ việc làm ở siêu thị địa phương và không có bất kỳ mong muốn nào để quay lại trường học (đại học). Anh trở nên tức giận với mọi người đến mức tính cách của anh trở nên độc hại. Có người trong khu phố đã khuyên và đưa Andy đến một bà phù thủy.16 Người ta nói rằng bà phù thủy này có thể thay đổi vận mệnh của anh và thay đổi tương lai của anh. Bà phù thủy nói rằng bà có thể ban cho anh quyền năng để nguyền rủa và làm tổn thương những người đã hủy bỏ hợp đồng bóng chày của anh.

Andy đã tham dự một lễ đen và dâng hiến cuộc đời mình cho Satan. Anh ta nói rằng mình đã chịu “phép rửa” trong tình trạng trần truồng trong một vạc dầu nóng và bị ra lệnh tuyên xưng đức tin vào Satan. Anh kể rằng có một số phụ nữ nhảy múa trần truồng xung quanh anh ta suốt hai giờ, liên tục tụng niệm những lời mà anh không hiểu. Một tư tế Satan nhảy múa quanh anh ta và đổ dầu lên người anh khi họ đặt tay lên anh và đọc những câu thần chú bằng một ngôn ngữ mà anh ta không hiểu.

Sau trải nghiệm này, anh bắt đầu tham gia một hội kín thờ Satan mỗi tuần trong suốt hai năm, đôi khi còn thường xuyên hơn. Anh ta tham gia nhiều nghi thức hiến tế động vật và uống từ nhiều chén chứa máu động vật và con người. Thậm chí, anh ta còn cạo trọc đầu và xăm lên đỉnh đầu hình đầu dê cùng một ngôi sao năm cánh (đây được xem là dấu ấn của Satan). Người ta bảo rằng nếu anh tham gia tất cả những nghi lễ Satan, anh sẽ có quyền lực đối với kẻ thù của mình và có thể thay đổi suy nghĩ của các tuyển trạch viên bóng chày bằng thần giao cách cảm. Andy hoàn toàn dấn thân vào con đường này; anh ta sơn phòng mình thành một màu đen kịt và suốt ngày nghe những loại nhạc đen tối, tục tĩu và hỗn loạn.

Cha mẹ anh nói rằng anh càng ngày càng tệ hơn và trở nên bạo lực hơn. Trong khoảng thời gian từ mười chín đến hai mươi mốt tuổi, anh ta đã đấm thủng mọi bức tường trong nhà, đập phá tất cả cửa ra vào, bàn ghế. Anh ta tấn công cha mẹ mình, khiến họ phải chạy ra khỏi nhà để tìm nơi an toàn và buộc phải gọi cảnh sát nhiều lần. Cảnh sát đến và đưa anh ta vào tù, rồi giam giữ anh ta trong khu điều trị tâm thần của bệnh viện để theo dõi trong bảy mươi hai giờ.

Chính vào thời điểm này, tôi mới bắt đầu can thiệp. Con trai đỡ đầu của tôi đã nói với cha mẹ Andy rằng tôi có thể hỗ trợ hướng dẫn tinh thần cho anh, với hy vọng giúp anh hồi phục lý trí và có cơ hội trở về với đức tin Công giáo.

Tôi đã gặp cha mẹ của Andy. Họ nói rằng họ từng nghe tôi trên đài phát thanh Công giáo tiếng Tây Ban Nha và tha thiết cầu xin tôi giúp đỡ con trai họ. Họ nói rằng họ đã từng mời một linh mục đến, nhưng Andy đã chửi rủa, nhổ nước bọt vào vị linh mục và đe dọa hành hung ông ấy. Vị linh mục không bao giờ quay lại nữa; Andy lúc này đã trở nên quá nguy hiểm và khó lường.

Tôi đã thăm Andy tại bệnh viện tâm thần theo yêu cầu của cha mẹ cậu. Trước khi gặp mặt, tôi đã trò chuyện với cậu qua vài cuộc điện thoại để thiết lập sự kết nối ban đầu. Khi Andy xuất viện, tôi đã thăm cậu ấy vài giờ tại nhà. Sáng hôm đó, tôi đã đi dự Thánh Lễ, đọc Kinh Mân Côi, xưng tội và cầu nguyện xin sự bảo vệ cho bản thân trước khi bước vào nhà để gặp cậu ấy. Tôi cũng đeo mề đay Thánh Benedictô và Đức Mẹ mề đay Huyền Nhiệm trên cổ. Tôi ngồi xuống với Andy và trò chuyện với cậu ấy trong nhiều giờ; tôi cầu nguyện trong thinh lặng, trói buộc các thần dữ và không cho phép chúng lộ diện trong khi tôi hiện diện.

Tôi đã cố gắng làm quen với Andy ở mức độ cá nhân, xây dựng mối quan hệ, dạy giáo lý, truyền giảng Tin Mừng, trả lời các câu hỏi của cậu ấy và hướng dẫn cậu ấy về mặt thiêng liêng. Sau này, cậu ấy nói với cha mẹ: "Có điều gì đó nơi sự hiện diện của ông Romero khiến con không thể chửi thề hay nổi giận được." Tôi đã thăm cậu ấy khoảng sáu lần nữa, và mỗi lần tôi cầu nguyện cho cậu ấy, cậu ấy đều co giật, run rẩy và cảm thấy chóng mặt, nhưng cậu ấy đồng ý để tôi cầu nguyện.

Tôi đã làm hết sức để hướng dẫn thiêng liêng, dạy giáo lý và truyền giảng Tin Mừng cho cậu ấy, nhưng cậu ấy đã bị chìm sâu trong mê muội, ma thuật và tuyệt vọng. Cậu ấy đã nói với tôi nhiều lần rằng có một tiếng nói trong đầu cậu ấy bảo cậu ấy giết cha mẹ rồi tự tử. Tiếng nói đó rỉ tai cậu rằng nếu làm vậy, cậu sẽ được giải thoát khỏi nỗi dày vò và tìm được sự bình an.

Tôi nói với cậu: “Con phải chống lại những tiếng nói ấy và cầu nguyện để chúng rút lui.”

Cậu trả lời: “Con không thể... con không thể chống lại nó. Nó quá mạnh, quá mạnh.”

Tôi đã cầu nguyện cho cậu ấy trong một thời gian dài, và cậu ấy nói rằng những lời cầu nguyện của tôi mang lại cho cậu ấy sự nhẹ nhõm tạm thời trong vài giờ, nhưng rồi tiếng nói lại vang lên trở lại trong đầu cậu ấy và những nỗi đau thể xác và tinh thần vẫn tiếp tục mỗi đêm trong phòng ngủ của cậu ấy ngay khi cậu ấy tắt đèn. Cậu ấy vẫn kiên quyết không muốn gặp một linh mục Công giáo. Cha mẹ cậu ấy nói với tôi rằng tôi là người duy nhất cậu ấy tôn trọng và là người duy nhất mà cậu ấy không thốt lời chửi thề hay tấn công. Họ nói rằng cậu ấy có một mặt rất ác độc, như thể là tính cách thứ hai, và khi tính cách đó xuất hiện, cậu ấy sẽ tấn công bất kỳ ai ở gần: cảnh sát, nhân viên bệnh viện, cha mẹ, bất kỳ ai. Cậu thốt ra những lời bằng một ngôn ngữ mà không ai hiểu được, và bộc lộ sự ghê tởm mãnh liệt đối với những vật thánh hiến.

Khi tôi có được lòng tin của Andy (sau cuộc gặp đầu tiên), cậu ấy nói với tôi rằng có một thứ gì đó sống trong cơ thể cậu ấy; một thần dữ đã xâm nhập vào cơ thể cậu ấy hai năm rưỡi trước, khi cậu ấy tham gia vào lễ đen. Cậu ấy nói rằng lúc đầu, linh hồn này khiến cậu cảm thấy siêu việt, như thể cậu mạnh mẽ hơn bất cứ ai. Cậu ấy nói thần dữ này bắt đầu hành hạ cậu ngay sau khi cậu ấy dâng hiến cuộc đời cho Satan trong buổi thờ Satan đó. Thần dữ này bắt đầu xuất hiện với hình dạng một con quái vật, rồng, rắn, hoặc con thú xấu xí trong phòng ngủ của cậu ấy, nó sẽ nắm lấy mắt cá chân của cậu và ném cậu ra khỏi giường, đập cậu xuống sàn và đôi khi bóp cổ cậu.

Cha mẹ cậu ấy đã nghe thấy những tiếng động và tiếng vật lộn phát ra từ phòng ngủ của cậu, như thể có ai khác ở trong đó; tuy nhiên, Andy là con một, không có ai khác trong nhà. Andy nói với tôi rằng cách duy nhất để thần dữ này rời khỏi cậu là khi cậu bật đèn trong phòng. Cậu ấy nói rằng cậu liên tục nghe thấy những tiếng nói trong đầu bảo cậu: "Giết cha mẹ mày đi, giết mày đi, mày vô dụng, mày không có hy vọng, mày là kẻ thất bại, kết thúc tất cả đi." Cậu ấy nói những tiếng nói tiêu cực này hành hạ cậu mỗi đêm. Cậu ấy nói rằng không thể ngủ vào ban đêm. Đó là lý do tại sao cậu ngủ suốt ngày và chỉ thức vào những lúc hút cần sa, thứ giúp cậu ấy bình tĩnh lại.

Tôi đã nói rõ với Andy rằng chỉ khi trở về với Đức Giêsu Kitô và Giáo Hội Công Giáo, cậu ấy mới có thể được giải thoát khỏi sự hành hạ của ma quỷ. Cậu ấy nói rằng cậu chưa sẵn sàng quay lại với Giáo Hội Công Giáo vì cậu bị tổn thương từ việc bị đuổi khỏi trường Công Giáo khi học lớp tám vì không vâng lời hiệu trưởng và một linh mục. Cậu ấy cũng bị đuổi vì hút cần sa trong phòng vệ sinh nam vào năm 1995 (khi đó việc này vẫn còn là điều cấm kỵ).

Cậu ấy nói rằng cậu cảm thấy cơn đau dữ dội từ đỉnh đầu - chính nơi cậu đã xăm hình Satan (một đầu dê trong một vòng tròn pentagram). Cậu ấy nói rằng cậu cảm nhận được thần dữ ra vào cơ thể mình từ chính vị trí của hình xăm Satan đó. Theo lời Cha Amorth, "Một số biểu tượng và thiết kế (hình xăm) trên cơ thể có thể ám chỉ hoặc gián tiếp gợi nhắc đến quái vật hoặc ma quái, gần như triệu gọi sự hiện diện của chúng." Jan Reagor, một giáo dân Công Giáo tham gia vào việc chữa lành và giải thoát, đã phát hiện rằng quỷ có thể xâm nhập vào cơ thể người qua các hình xăm ma quái. Chúng rất có tính pháp lý: chúng biết khi nào mình có sự “cho phép”, biết rõ điều khoản nào cho phép chúng xâm nhập, và cả khi nào chúng buộc phải rời đi. Sống trong tội trọng, dâng hiến bản thân cho Satan qua lễ đen, mang biểu tượng của Satan trên thân thể — tất cả là những điều kiện lý tưởng để ma quỷ xâm nhập và hành hạ con người.

Tôi đã liên lạc với Viện Thần học Mundelein (còn gọi là Chủng viện Đức Giáo hoàng Lêô XIII) và trao đổi với một vị mục tử đang phục vụ trong thừa tác vụ trừ tà (tôi xin phép không nêu tên ngài theo yêu cầu riêng). Ngài khuyến cáo rằng Andy cần xóa bỏ hình xăm Satan, đi xưng tội, và sẵn sàng lãnh nhận việc cầu nguyện giải thoát hoặc trừ tà từ một linh mục Công giáo được đào tạo chính quy. Tôi đã nói với cha mẹ của Andy về những gì phải làm, và họ nói rằng họ không có tiền để trả chi phí xóa hình xăm bằng laser. Vợ tôi (Anita) đã tự mình sắp xếp cuộc hẹn để Andy xóa hình xăm trên đầu, và cô ấy đã dùng thẻ tín dụng của mình để thanh toán. Cô ấy nghĩ rằng chúng tôi đã cam kết giúp đỡ Andy, vì vậy chúng tôi sẽ tự mình trả chi phí xóa hình xăm như một hành động từ thiện Kitô giáo cho gia đình nghèo khó này, nơi con trai của họ đang bị hành hạ bởi một hoặc nhiều con quỷ.

Trong những ngày ấy, Andy nhắn tin cho tôi hằng ngày, kể rằng cậu tiếp tục bị hành hạ và tra tấn về cả thể xác lẫn tinh thần. Bất cứ khi nào cậu nhắn tin, tôi liền dừng mọi việc để cầu nguyện cho cậu. Cậu ấy nói rằng mỗi lần tôi cầu nguyện, cơn đau và những tiếng nói ác nghiệt tạm lắng xuống trong vài giờ Vợ tôi đã đặt lịch hẹn cho Andy vào một ngày thứ Hai để xóa hình xăm; hôm đó là thứ Sáu, và tôi đã bảo cậu ấy đến Nhà thờ và ngồi đó, trò chuyện với Chúa, nhưng cậu ấy nói rằng cậu chưa sẵn sàng đi ngay lúc này.

Khi cha mẹ của cậu ấy về nhà sau giờ làm việc vào buổi chiều, Andy đã rơi vào một cơn cuồng nộ dữ dội do ma quỷ gây nên, bắt đầu đấm vào tường và bắt đầu phá hủy đồ đạc trong nhà. Cậu ấy nói với cha mẹ: "Ra ngoài ngay bây giờ, ra ngoài ngay nếu không tôi sẽ giết các người." Sau đó, cậu ấy đã cố gắng bóp cổ cha mình, nhưng ông đã thoát ra và chạy ra ngoài cùng với vợ mình, đóng cửa lại. Cha mẹ của cậu ấy chạy ra sân trước và đứng trên vỉa hè trước nhà. Họ đã bị con trai của họ làm cho khiếp sợ.

Cha mẹ của Andy gọi điện cho con trai đỡ đầu của tôi, Salvador, và hỏi tôi đang ở đâu. Salvador nói với họ rằng tôi đang thuyết giảng tại một Nhà thờ ở trung tâm Los Angeles. Cha mẹ của Andy nói với Salvador rằng Andy lại trở nên bạo lực và bùng phát cơn giận, và cậu ấy đã đuổi họ ra khỏi nhà. Salvador nói với họ rằng cậu ấy sẽ lái xe đến đó và ở lại với họ trên vỉa hè trước nhà cho đến khi Andy bình tĩnh lại. Salvador đã đến nhà Mendoza ở khu Đông Los Angeles và đứng với họ trên vỉa hè trước nhà. Salvador nói rằng ngôi nhà hoàn toàn im lặng. Gia đình Mendoza nói với cậu ấy rằng Andy đã ngừng la hét và phá đồ trong khoảng năm phút qua. Salvador nói với gia đình Mendoza, "Tôi sẽ vào trong để nói chuyện với Andy."

Cha mẹ của cậu ấy bảo cẩn thận vì con trai của họ rất khó đoán. Salvador đi vào trong nhà và bắt đầu đi từ phòng này sang phòng khác gọi to tên Andy. Salvador bước vào gara và thấy Andy treo lủng lẳng trên xà nhà với một sợi dây điện công suất lớn quấn quanh cổ; cậu ấy vẫn đang thở rất nhẹ và mặt cậu tái nhợt. Salvador hét lên gọi cha mẹ giúp đỡ. Họ chạy vào. Bà Mendoza ngất xỉu khi bà bước vào gara và nhìn thấy con trai mình treo cổ.

Salvador và ông Mendoza đã tháo dây khỏi cổ cậu ấy và đặt cậu ấy nằm ngửa xuống. Salvador (con trai đỡ đầu của tôi) đã được huấn luyện trong hai mùa hè trước như một nhân viên cứu hộ trẻ và bắt đầu thực hiện CPR trong khi gọi 911 ngay lập tức. Salvador tiếp tục cho đến khi xe cứu thương đến trong khoảng năm phút. Khi Salvador thực hiện CPR, cậu ấy cũng âm thầm cầu nguyện Kinh Lòng Thương Xót cho Andy. Salvador nhớ lại một cuốn tờ rơi mà tôi đã đưa cậu ấy từ trước, trong đó trích lời Chúa Giêsu Kitô hứa với Thánh Faustina (năm 1931) rằng: "Nếu con cầu nguyện Kinh Lòng Thương Xót bên cạnh một người đang hấp hối, và nếu người ấy đón nhận lời cầu nguyện ấy với trái tim rộng mở, thì Ta hứa sẽ thương xót linh hồn ấy và cứu rỗi họ."

Salvador và cha mẹ của Andy đã theo xe cứu thương đến Trung tâm Y tế Hạt Los Angeles. Tôi nhận được cuộc gọi và tôi đã gặp gia đình Mendoza ở đó cùng với vợ tôi. Andy đang ở trong phòng chăm sóc đặc biệt, và tiên lượng của cậu ấy không tốt vì cậu đã không có oxy quá lâu khi thắt cổ. Cậu ấy đang thở nhờ máy thở và nằm im lịm như xác chết. Cậu ấy đang trong cơn hôn mê.

Cha mẹ cậu ấy chỉ cho phép con trai đỡ đầu của tôi, Salvador, tôi và vợ tôi vào phòng với Andy. Chúng tôi quỳ xuống và cầu nguyện Kinh Lòng Thương Xót chỉ cách cậu ấy hai bước, ngay bên tai cậu ấy. Sau đó chúng tôi đọc Kinh Mân Côi. Tất cả chúng tôi đều hy vọng rằng cậu ấy có thể nghe thấy chúng tôi. Đột nhiên cậu ấy quay đầu về phía chúng tôi và, với mắt nhắm vẫn nhắm kín, tỏ sự công nhận lời cầu nguyện của chúng tôi. Tôi nói với Andy ngay bên tai cậu ấy, "Đã đến lúc anh mở lòng ra với Chúa Giêsu Kitô; Ngài yêu anh. Mở lòng anh để đón nhận Ngài, và xin Chúa ban cho anh tình yêu và sự tha thứ của Ngài. Đừng chần chừ nữa; Hãy trao trái tim anh cho Chúa Giêsu ngay bây giờ!"

Bác sĩ nói với tôi rằng mặc dù Andy đang trong tình trạng hôn mê, nhưng cậu ấy có thể nghe được mọi lời nói. Tôi đã gọi một linh mục Công Giáo đang thăm bệnh nhân tại bệnh viện và đưa ngài vào phòng để xức dầu bệnh nhân cho Andy. Đây không phải là một sự trùng hợp; đó là một sự kiện do Chúa định sẵn. Chúng tôi (vợ tôi, con trai đỡ đầu của tôi và tôi) quay lại vào các ngày thứ Ba, thứ Tư và thứ Năm để cầu nguyện Kinh Lòng Thương Xót và Kinh Mân Côi. Mỗi ngày tôi thì thầm vào tai cậu ấy, "Chúa Giêsu yêu anh. Mẹ Maria đang ở đây để bảo vệ anh. Anh hãy lòng anh ra với Ngài và xin Ngài thương xót anh. Hãy mời Chúa Giêsu vào trái tim anh.”

Bác sĩ nói rằng Andy chỉ cử động — xoay đầu về phía chúng tôi — mỗi khi chúng tôi vào phòng và bắt đầu cầu nguyện.

Andy qua đời vì một cơn đau tim dữ dội vào sáng sớm thứ Sáu. Trái tim tôi đau đớn khi chứng kiến sự đau buồn và khổ sở sâu sắc của cha mẹ cậu ấy trước bi kịch này - một tuổi trẻ bị tước đoạt bởi tự tử, nghiện ngập và sự dấn thân vào thế giới u ám của Satan giáo. Các nghi lễ Công Giáo được thực hiện rất kín đáo; chỉ có cha mẹ cậu ấy, vợ tôi, con trai đỡ đầu của tôi và tôi tham dự. Đó là “thời gian để than khóc” (Giảng Viên 3:1–4). Chúng tôi đã lần chuỗi Mân Côi trong chín ngày tại nhà Mendoza, và tôi đã âm thầm cầu nguyện chuỗi Lòng Thương Xót Chúa trong chín ngày liên tiếp. Tôi không thể tưởng tượng được cảm giác phải chôn cất con trai mình là như thế nào, nhưng Mẹ Maria thì hiểu.

Cuộc sống sau đó vẫn tiếp tục. Bi kịch này khiến gia đình Mendoza trở thành những tín hữu Công Giáo sốt sắng. Họ chính thức cử hành Bí tích Hôn Phối trong Giáo Hội sau hai mươi năm chung sống mà không kết hôn. Khoảng ba tháng sau khi con trai Andy qua đời, tôi nhận được một cuộc gọi từ ông Mendoza vào khoảng 3 giờ sáng. Ông rất xúc động khi nói, “Jesse, Andy đã hiện ra với chúng tôi trong phòng ngủ, ở chân giường. Vợ tôi cũng đã thấy Andy.” Tôi bảo ông bình tĩnh lại, và nói chậm hơn. Ông Mendoza nói rằng con trai ông đã hiện ra như một bóng ma ở chân giường trong phòng ngủ và thảm thiết cầu xin ông: “Ba ơi, ba ơi, giúp con với. Con đang bị cháy ở đây, giúp con đi. Con đang cháy ở đây. Con đang cháy. Làm ơn, ba ơi, đi và dâng cho con ba mươi Thánh Lễ. Làm ơn, ba ơi, xin ba dâng ba mươi Thánh Lễ cho con.” Con trai ông sau đó biến mất. Bà Mendoza cũng đang ở trên điện thoại với tôi; bà xác nhận rằng bà đã thấy đúng hình ảnh con trai mình mà ông Mendoza đã thấy. Ông Mendoza nghẹn ngào hỏi tôi, “Jesse, điều này có nghĩa là gì?”

Ông Mendoza là một người Công Giáo đơn sơ, hiểu biết ít, và con trai ông gần như không biết gì về đức tin Công Giáo trong cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế. Tôi nói với ông Mendoza, "Tạ ơn Chúa. Điều đó có nghĩa là con trai ông đang ở trong luyện ngục.” Rồi tôi giải thích rằng, theo truyền thống Công giáo từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả (năm 590), nếu dâng liên tục ba mươi Thánh Lễ cho linh hồn một người qua đời trong ơn nghĩa Chúa, thì Chúa sẽ giải thoát họ khỏi luyện ngục vào Thánh Lễ thứ ba mươi. Ông Mendoza sau hôm đó liền đến nhà thờ để xin dâng ba mươi Thánh Lễ liên tiếp cho linh hồn của Andy.

Chàng trai trẻ này giống như Thánh Dismas, tên trộm lành được Chúa Giêsu tha thứ trên thập giá vào giây phút cuối đời. Khách quan mà nói, câu chuyện của Andy là một bi kịch hiện đại: một chàng trai trẻ tự tử, là tín đồ Satan, nghiện ngập, đã ký khế ước với ma quỷ và xăm hình Satan trên đầu. Tất cả những dấu hiệu bên ngoài cho thấy cậu đang trên con đường dẫn đến hỏa ngục.

Nhưng vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, những dấu hiệu rất rõ ràng cho thấy Andy đã mở lòng đón nhận Chúa Kitô, dù trong trạng thái hôn mê. Cậu đón nhận lời cầu nguyện, ăn năn trong lòng, và được xức dầu bệnh nhân, bí tích giúp tha thứ tội lỗi khi người bệnh không thể xưng tội. Cậu đã chết trong ân sủng, và dường như đang được thanh luyện bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa trong luyện ngục.

Việc ông Mendoza nhìn thấy con trai ông là chứng cứ cho thấy Andy đã được cứu như tên trộm lành trên thập giá trong những giây phút cuối cùng của đời mình. Niềm hy vọng của tôi là Andy đã được giải thoát khỏi luyện ngục và hiện đang ở trên thiên đàng cầu nguyện cho chúng tôi. Niềm hy vọng của tôi là một ngày nào đó tôi sẽ gặp lại cậu ấy, không còn hình xăm Satan trên đầu, mà đã được thanh tẩy hoàn toàn bởi máu của Con Chiên.

Vậy điểm xâm nhập của ma quỷ vào đời cậu là ở đâu? Điểm xâm nhập xảy ra khi cậu ấy mời ma quỷ vào cuộc đời mình trong buổi lễ đen, và ma quỷ vẫn theo cậu ấy vì cậu ấy sống trong tình trạng tội trọng liên tục. Quỷ bị thu hút bởi những người xấu sống trong tội trọng. Đây là điều được gọi là “luật hấp dẫn.”

Chuyển ngữ từ The Devil in the City of Angels: My Encounters With the Diabolical

Share:

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2025

Cô Dâu Đầu Tiên Được Tạo Dựng Từ Cạnh Sườn của Ađam

Dưới ánh sáng của Kinh Thánh và truyền thống Do Thái cổ xưa, khi chúng ta nhìn vào cạnh sườn của Chúa Giêsu bị đâm thâu, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Ngài và câu chuyện Kinh Thánh về việc Thiên Chúa lấy thịt từ cạnh sườn của Ađam trong Vườn Địa Đàng:

“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói :“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. (Sáng Thế 2:21–24)

... Và cũng như việc tạo dựng kỳ diệu người vợ đầu tiên từ cạnh sườn của Ađam là nền tảng cho hôn nhân giữa người nam và người nữ, thì máu và nước kỳ diệu từ cạnh sườn của Chúa Giêsu cũng là nguồn gốc và nền tảng cho sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh.

Theo lời của Thánh Augustinô, người đã nhận ra sự tương đồng này từ nhiều thế kỷ trước:

“[Trong] hai con người đầu tiên đó… đã được tiên báo hôn nhân giữa Chúa Kitô và Hội Thánh.… Cũng như Ađam là hình bóng của Chúa Kitô, thì Evà được tạo dựng từ Ađam đang ngủ cũng là hình ảnh tiên trưng cho việc Hội Thánh được tạo dựng từ cạnh sườn của Chúa khi Ngài ngủ, bởi khi Ngài chịu khổ nạn và chết trên thập giá, và bị lưỡi giáo đâm thâu, các bí tích đã chảy ra từ Ngài để hình thành Hội Thánh. Giấc ngủ của Chúa Kitô cũng chính là cuộc thương khó của Ngài.… Như Evà được lấy ra từ cạnh sườn của Ađam đang ngủ, thì Hội Thánh cũng được sinh ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô chịu đau khổ.” (Exposition of the Psalms 138:2)

Nói cách khác, cũng như Evà nhận được sự sống từ món quà kỳ diệu là thân thể của Ađam,  tân lang đầu tiên,  thì Hội Thánh, Hiền Thê của Chúa Giêsu, cũng nhận được sự sống nhờ hai ân ban: “nước hằng sống” của Chúa Thánh Thần trong bí tích Rửa Tội và “máu ban sự sống” của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Và cũng như sự sống tự nhiên được trao ban cho Evà – và qua Evà đến với toàn thể nhân loại, từ cạnh sườn của Ađam, thì sự sống siêu nhiên được ban cho Hội Thánh nhờ nước và máu từ cạnh sườn của Đức Kitô, Vị Lang Quân. – Dr. Brant Pitre, Jesus the Bridegroom: The Greatest Love Story Ever Told

Share:

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay

Một hôm một ý tưởng đến với mình. Mùa Chay có thể được nhìn thấy như một tóm tắt hành trình thiêng liêng của chúng ta. Con đường trở về Nhà Cha được một truyền thống chia ra thành ba phần: thanh luyện, khai sáng và kết hợp.

- Bắt đầu Mùa Chay, chúng ta được mời gọi để từ bỏ con đường tội lỗi, để nhận ra những hứa hẹn của tội đều là hảo huyền và còn tệ hơn là hảo huyền: muốn ăn thứ heo ăn mà không có để ăn (heo đối với người Do thái là giống súc vật bị coi là dơ bẩn và chỉ người không thuộc về Do Thái giáo chăn nuôi chúng). Tội giảm giá trị con người xuống còn tệ hơn súc vật.

- Giữa Mùa Chay năm nay, chúng ta đọc dụ ngôn Người Con Hoang Đàng hay còn được gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu vào Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay. Trong dụ ngôn, người con bắt đầu ý thức mối quan hệ của anh với cha mình. Vì ở dưới ảnh hưởng của tội, anh nghĩ mình chỉ là tên đầy tớ.

Dụ ngôn cho thấy, sau khi tháo gỡ lăng kính của tội, chúng ta nhìn thấy rõ ràng hơn tội mình làm đau lòng Cha mình dường nào. Tôi thật là kẻ bất hiếu chỉ đáng làm tôi tớ mà thôi.

Chúng ta đã không sống đúng với Giao ước của bí tích Rửa tội: tôi là con cái trong Gia đình Thiên Chúa và chỉ phụng thờ, vâng lời một mình Thiên Chúa mà thôi. Bài đọc Phúc âm trong lễ hằng ngày của Mùa Chay, mời gọi chúng ta nhận ra Thiên Chúa Cha luôn giữ lời hứa Giao ước. Ngài yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Đấng Mêsia Ngài gửi đến sẽ được cứu độ. Hãy tin vào Chúa Kitô.

- Hôm nay chúng ta bước vào Tuần Thánh và đặc biệt là Tam Nhật Phục Sinh. Trọng tâm của tuần này không còn là chúng ta nữa. Trọng tâm của tuần này là TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA được bày tỏ qua cuộc thương khó của Chúa Giêsu, qua cái chết và phục sinh của Ngài.

Trong Tam Nhật Vượt Qua, chúng ta nhìn thấy Nước và Máu chảy ra từ cạnh sườn Chúa Giêsu. Nước rửa sạch, nước trong lành để chúng ta không còn phải uống nước đục bẩn, không còn khát nữa. Máu Chúa Giêsu đổ ra tràn đầy để dưỡng nuôi chúng ta, để thân xác hèn yếu này khi chết đi, có hạt giống phục sinh của thân xác vinh quang trong mình. Chúng ta cũng sẽ được phục sinh với thân xác vinh quang cho trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho chúng ta.

Vậy nếu bạn chưa xưng tội, đừng chần chờ để lãnh nhận hoa quả của Cây Sự Sống trong Lễ Phục Sinh năm nay, hầu có nơi mình sự sống đời đời. Khi bạn trải nghiệm cuộc vượt qua cuối cùng của đời mình bạn sẽ có khả năng sống trong trời mới đất mới, nơi của hạnh phúc vĩnh cửu, sự sống tràn đầy.

Share:

Thứ Tư, 9 tháng 4, 2025

Hãy nhớ, kế hoạch của Thiên Chúa thì luôn là tốt lành

Thiên Chúa biết những gì là tốt nhất cho bạn và biết cả những gì bạn thích nhất. Ngài nói với Giêrêmia, “Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng” (Gr 29, 11). Giuse đã hiểu chân lý này khi nói với các anh em ông là những người đã bán ông làm nô lệ, “Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt” (St 50, 20). Vua Hezekiah cũng bày tỏ cảm nhận này trong căn bệnh đã đe dọa tính mạng ông, “Nay muôn vàn cay đắng đã hoá nên an bình, vì chính Ngài đã cứu con khỏi hố diệt vong” (Is 38, 17). Khi Ngài nói không trước lời kêu cầu của bạn, hãy nhớ, “Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Ngài” (Dt 12, 10b).

Thật là sống còn khi bạn biết tập trung vào kế hoạch của Thiên Chúa chứ không tập trung vào đau khổ hoặc biến cố. Đó là cách Đức Giêsu đã đón nhận trên thập giá và chúng ta được thúc giục noi gương Ngài: “Mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Ngài đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng hề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa” (Dt 12, 2). Corrie Ten Boom, người đã khổ đau trong trại tù của Đức quốc xã, giải thích sức mạnh của sự tập trung như sau: “Nếu nhìn vào thế giới, bạn sẽ đau buồn; nếu nhìn vào bản thân, bạn sẽ chán nản. Nhưng nếu nhìn vào Đức Kitô, bạn sẽ được yên nghỉ!” Sự tập trung của bạn sẽ xác định cảm xúc của bạn. Bí quyết để chịu đựng là hãy nhớ rằng, khổ đau chỉ là tạm thời nhưng phần thưởng của bạn sẽ là đời đời. Moisen chịu đựng một cuộc đời đầy cam go vì ông “mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời” (Dt 11, 26). Thánh Phaolô trải qua những khốn khổ cùng một cách thức đó. Ngài nói, “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4, 17).

Đừng suy nghĩ thiển cận. Cứ tập trung vào thành quả sau cùng:

“Vì một khi cùng chịu đau khổ với Ngài, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài. Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8, 17b-18).

Hãy hân hoan và dâng lời tạ ơn. Kinh Thánh nói với chúng ta, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5, 18). Làm sao có thể tạ ơn được? Hãy lưu ý, Thiên Chúa bảo chúng ta tạ ơn “trong mọi hoàn cảnh” chứ không “cho mọi hoàn cảnh”. Ngài không mong bạn biết ơn đối với tội ác, tội lỗi, đau khổ hoặc những hậu quả đau buồn kéo theo trong thế giới. Thay vào đó, Thiên Chúa muốn bạn cám ơn Ngài vì Ngài sẽ dùng mọi biến cố của bạn để hoàn thành những mục đích của Ngài.

Kinh Thánh nói, “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4). Kinh Thánh không nói, “Anh em hãy vui trên nỗi khổ của mình”. Đó là khoái lạc khổ đau, một ý tưởng bệnh hoạn. Bạn hãy vui “trong Chúa”. Bất luận điều gì đang xảy đến, bạn cũng có thể vui trong tình yêu, trong sự chăm sóc, khôn ngoan, sức mạnh và trong sự trung tín của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói, “Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Lc 6, 23).

Chúng ta cũng có thể vui mừng khi biết rằng, Thiên Chúa đang cùng chúng ta trải qua đau khổ. Chúng ta không phục vụ một Thiên Chúa xa xôi hay phân cách, chỉ đứng bên lề cách an toàn để khích lệ bằng những sáo ngữ. Thay vào đó, Ngài có mặt trong những khốn cùng của chúng ta. Đức Giêsu đã làm điều đó trong mầu nhiệm Nhập Thể và Thánh Thần của Ngài cũng đang thực hiện điều đó trong chúng ta ngay lúc này. Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc chúng ta.

Không bỏ cuộc. Cứ kiên nhẫn và bền chí. Kinh Thánh nói, “Đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chờ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1, 3-4).

Xây dựng nhân cách là một tiến trình tiệm tiến. Bất cứ khi nào chúng ta tìm cách tránh né hay trốn chạy các khó khăn trong cuộc sống là chúng ta làm gián đoạn tiến trình, trì hoãn việc lớn lên và kết thúc với một nỗi đau còn tệ hơn - nỗi đau vô tích sự đồng hành với việc chối từ và tránh né. Hiểu được những hậu quả đời đời của việc phát triển nhân cách, bạn sẽ ít cầu nguyện với lời kinh “Xin an ủi con” (“Xin giúp con chịu đựng hơn”) nhưng sẽ cầu nguyện nhiều hơn với lời kinh “Xin biến đổi con” (“Xin dùng biến cố này để làm con nên giống Chúa hơn”).

Bạn biết mình đang trưởng thành khi bắt đầu cảm nhận bàn tay Thiên Chúa trong những bất ngờ, khoảnh khắc và những hoàn cảnh dường như vô nghĩa trong cuộc sống.

Nếu bạn đang đối đầu với một nghịch cảnh ngay lúc này, đừng hỏi, “Tại sao lại là tôi?”. Thay vào đó, hãy hỏi, “Chúa muốn con rút ra bài học nào?”. Rồi hãy cứ tín thác vào Ngài và quyết tâm làm điều lành. “Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Ngài đã hứa” (Dt 10, 36). Đừng bỏ cuộc - hãy lớn lên!

NGHĨ VỀ MỤC ĐÍCH ĐỜI TÔI

Một điểm để suy tư: Có một mục đích sau mỗi biến cố.

Một câu Kinh Thánh để nhớ: “Chúng ta biết rằng, Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, tức làm cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định” (Rm 8, 28).

Một câu hỏi để nghiền ngẫm: Biến cố nào trong cuộc đời tôi đã giúp tôi trưởng thành hơn cả?

-- Trích từ Sống Theo Đúng Mục Đích

Share:

Chủ Nhật, 6 tháng 4, 2025

12 sự thật thú vị về cuộc đời của Chân phước Pier Giorgio Frassati

Chân phước Pier Giorgio Frassati, sinh ngày 6 tháng 4 năm 1901 trong một gia đình giàu có và có tiếng tăm ở Ý, đã trở thành một hình mẫu nổi bật ngay sau khi qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1925, ở tuổi 24. Ngài sẽ được phong hiển thánh trong năm nay, năm 2025, Năm Thánh Giới Trẻ tại Rome.

Theo trang web dành riêng cho ngài của các giám mục Công giáo Hoa Kỳ, trong nhiều năm qua, Frassati đã trở thành “một đấng bảo trợ toàn cầu quan trọng cho giới trẻ và thanh niên — và có một vị trí đặc biệt trong lòng các bạn trẻ ở Hoa Kỳ.” Thánh GH Gioan Phaolô II đã tuyên bố ngài là đấng bảo trợ cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới và gọi ngài là “người của các mối phúc,” vì ngài đã thể hiện những phúc lành ấy trong cuộc sống hàng ngày của mình.

Dưới đây là 12 điều thú vị về cuộc đời ngắn ngủi nhưng rất mạnh mẽ của ngài:

1. Mặc dù được nuôi dưỡng trong một gia đình vô thần, nhưng Frassati đã bộc lộ thiên hướng giúp đỡ người khác từ khi còn nhỏ. Một lần, khi còn là một đứa trẻ, ngài mở cửa và gặp một người mẹ đang xin ăn với đứa con không có giày. Ngài đã cởi giày của mình và cho đứa trẻ đó.

2. Ngay từ khi còn trẻ, ngài gia nhập Hiệp hội Thánh Mẫu và Hội Tông đồ Cầu nguyện và được phép nhận Mình Thánh Chúa hàng ngày, điều này là rất hiếm vào thời đó.

3. Cùng lúc đó, ngài nổi tiếng trong nhóm bạn bè là “Il Terrore” (Kẻ Khủng Bố) vì niềm đam mê với những trò đùa tinh nghịch.

4. Khi 17 tuổi, ngài gia nhập Hội Thánh Vincente de Paul và dành phần lớn thời gian rảnh rỗi để chăm sóc những người nghèo, vô gia cư, bệnh tật và những người lính giải ngũ từ Thế chiến I.

5. Năm 1919, Frassati gia nhập Liên minh Sinh viên Công giáo và Đảng Dân chúng, với các nguyên lý dựa trên giáo lý xã hội của Giáo hội. Ngài mạnh mẽ phản đối sự trỗi dậy của lãnh đạo phát xít Benito Mussolini và bị bỏ tù ở Rôma sau khi tham gia cuộc biểu tình của Hiệp hội Công nhân Công giáo.

6. Ngài nổi bật vì luôn trao tặng tất cả những gì mình có cho người nghèo. Ngài thậm chí còn dùng tiền xe buýt của mình để làm từ thiện và sau đó phải chạy về nhà kịp giờ ăn cơm.

7. Là một người đam mê và thành thạo leo núi, ngài đã thấy nhiều điểm tương đồng giữa đời sống Công giáo và sở thích leo núi của mình. Ngài thường xuyên tổ chức các chuyến đi lên núi, tạo cơ hội cầu nguyện và trò chuyện về đức tin trong lúc leo lên hoặc xuống núi.

8. Sau chuyến leo núi mà sau này trở thành chuyến leo núi cuối cùng của ngài, ngài đã viết một ghi chú đơn giản trên một bức ảnh: “Verso L’Alto” (Tới đỉnh cao) — một cụm từ đã trở thành khẩu hiệu Công giáo phổ biến.

9. Khi 24 tuổi, Frassati bị bệnh nặng vì bại liệt (polio). Một số người bạn của ngài tin rằng ngài mắc bệnh từ những người sống trong khu ổ chuột ở Turin. Trong những ngày cuối đời, ngài thì thầm những tên của những người cần giúp đỡ cho gia đình và bạn bè đang tụ tập bên giường bệnh của ngài. Ngài qua đời vào ngày 4 tháng 7 năm 1925.

10. Pier Giorgio Frassati được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong “Chân Phước” vào năm 1990, ngài gọi ngài là “người của các mối phúc” và “tông đồ đầy niềm của Đức Kitô”. Một năm trước đó, sau khi thăm mộ ngài, Thánh GH Gioan Phaolô II đã tiết lộ rằng chính ngài, khi còn là một người trẻ, cũng đã cảm nhận được “ảnh hưởng tích cực từ gương mẫu của ngài”.

“Ngài đã rời thế giới quá sớm,” Gioan Phaolô II nói, “nhưng ngài đã để lại dấu ấn trên suốt thế kỷ của chúng ta.”

11. Trong cuốn tiểu sử về anh trai mình, chị của Frassati, Luciana, đã viết rằng “ngài đại diện cho những gì đẹp nhất trong giới trẻ Kitô giáo: trong sáng, vui vẻ, nhiệt tình với mọi điều tốt đẹp.”

12. Pier Giorgio Frassati rất được yêu mến trong giới trẻ. Nhiều hội đoàn đã được thành lập mang tên ngài, và ngài được coi là đấng bảo trợ của các sinh viên (chủ yếu vì ngài không giỏi học), các bạn trẻ Công giáo, các nhà leo núi, các nhóm thanh niên, Công tác Công giáo, các tu sĩ dòng Đaminh (ngài đã gia nhập), và Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

Video về Carlo Acutis

Chuyển ngữ từ 12 amazing facts about the life of Blessed Pier Giorgio Frassati

Share:

Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2025

Thờ phượng không nhằm lợi ích của bạn

Với tư cách là quản xứ, tôi nhận được nhiều thư viết như thế này: “Con rất thích buổi thờ phượng hôm nay, con nhận được nhiều điều lắm.” Đây là một quan niệm sai lầm về việc thờ phượng. Thờ phượng không vì lợi ích của chúng ta! Chúng ta thờ phượng vì lợi ích của Thiên Chúa. Khi thờ phượng, mục tiêu của chúng ta là đem niềm vui cho Thiên Chúa, chứ không phải cho chính mình.

Nếu bạn đã từng nói, “Tôi không nhận được gì từ buổi thờ phượng hôm nay,” thì bạn đã thờ phượng vì một lý do sai lầm. Thờ phượng không dành cho bạn, mà dành cho Thiên Chúa. Dĩ nhiên, những cử hành mang tính thờ phượng đích thực cũng bao hàm các yếu tố của tình thân hữu, học hỏi, rao giảng Tin Mừng, và ở đó cũng có những lợi ích khác. Nhưng chúng ta không thờ phượng để làm vui chính mình. Động lực của chúng ta là đem vinh quang và niềm vui cho Đấng Tạo Hóa.

Trong sách Isaia 29, Thiên Chúa phàn nàn về việc thờ phượng hai lòng và giả hình. Dân Chúa dâng lên Ngài những kinh nguyện cũ rích, những lời ngợi khen không xuất phát từ trái tim, những lời lẽ trống rỗng và những nghi thức tẻ nhạt nhân tạo mà không hề nghĩ đến ý nghĩa thật sự của chúng. Thiên Chúa không động lòng bởi những truyền thống máy móc trong thờ phượng, nhưng Ngài sẽ động lòng bởi tình yêu nồng nàn và lòng trung tín. Kinh Thánh nói: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng, tôn vinh Ta bằng môi, còn lòng chúng thì xa Ta lắm; chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh của người phàm, nhưng đó chỉ là sáo ngữ.” (Is 29,13)

Thờ phượng không phải là một phần trong cuộc sống; đó là cả cuộc sống của bạn. Thờ phượng không chỉ là những gì diễn ra ở nhà thờ. Chúng ta nghe nói rằng hãy “thờ phượng Ngài liên lỉ” và “ngợi khen Ngài từ bình minh tới hoàng hôn.” Trong Kinh Thánh, dân Chúa ngợi khen Ngài khi làm việc, khi ở nhà, trong trận chiến, trong nhà tù và cả trên giường ngủ! Ngợi khen phải là công việc đầu tiên khi bạn vừa mở mắt mỗi sáng và là việc cuối cùng khi bạn khép mắt vào ban đêm. Vua Đavít nói: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi.” (Tv 34,2)

Mỗi công việc đều có thể trở thành một hành vi thờ phượng khi bạn thực hiện nó vì lời ngợi khen, vì vinh quang và để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Kinh Thánh nói: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31).

Bằng cách nào để làm mọi việc cho vinh quang Chúa?

Hãy làm mọi việc như thể bạn đang làm điều đó thay cho Đức Giêsu, bằng cách nói chuyện liên lỉ với Ngài khi bạn đang làm việc. Thánh Phaolô nói: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời.” (Cl 3,23)

Đây là bí quyết của một đời sống thờ phượng: làm mọi việc như đang làm cho Đức Giêsu.

Trong một chú giải Thư Rôma 12,1, có đoạn viết: “Hãy lấy mỗi ngày, cuộc sống thường nhật của bạn — ngủ nghỉ, ăn uống, đi làm, và cả những lúc bận rộn — để đặt nó trước nhan Thiên Chúa như một của lễ.”

Công việc trở nên thờ phượng khi bạn dâng nó cho Thiên Chúa và thực hiện với ý thức rằng Ngài đang hiện diện.

Lần đầu tiên khi tôi yêu vợ mình, tôi nghĩ đến nàng liên tục: khi ăn sáng, khi lái xe đến trường, khi ngồi học, khi xếp hàng trong siêu thị, khi đổ xăng — tôi không ngừng nghĩ đến người phụ nữ này! Tôi thường nói chuyện với chính mình về nàng và nghĩ đến mọi điều khiến tôi yêu nàng. Điều đó giúp tôi cảm thấy gần gũi với Kay, dù chúng tôi ở cách nhau hàng trăm dặm và học ở những đại học khác nhau. Bằng việc nghĩ đến nàng mãi như thế, tôi đã ở lại trong tình yêu với nàng. Thờ phượng đích thực cũng như vậy — phải lòng và yêu mến Đức Giêsu. -- Trích từ Sống Theo Đúng Mục Đích của Rick Warren

Share:

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2025

Đức Maria và các thánh

Khi Satan cám dỗ Ađam và Evà phạm tội, lời tuyên án của Chúa đã hé lộ kế hoạch cứu độ con cháu của họ khỏi những điều kinh hoàng sắp xảy đến. Chúa phán với con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3:15).

"Dòng giống" của người phụ nữ — tức con cháu bà — chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã bị “cắn gót” bởi Satan trên Thập giá, nhưng rồi đã “đạp vào đầu” con rắn — nghĩa là chiến thắng nó — qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Cũng như sự đồng thuận của Evà với cám dỗ của Kẻ Thù đã đem đến cái chết và sự thống trị của ma quỷ trên thế gian, thì lời thưa “xin vâng” của Đức Maria với Thiên Chúa đã mở ra con đường dẫn đến chiến thắng tối hậu của Con Mẹ trên Satan. Từ xưa đến nay, các Kitô hữu vẫn gọi Đức Maria là “Evà mới,” vì sự vâng phục của Mẹ đã tháo gỡ những gì mà Evà xưa đã làm qua sự bất tuân của mình.

Có lẽ vì lý do đó, một số bản thảo cổ của đoạn Thánh Kinh này viết rằng “bà sẽ đạp nát” đầu con rắn. Dù hai bản văn có khác nhau, ý nghĩa chung vẫn không thay đổi: Qua Chúa Kitô, Đấng là dòng giống của Mẹ, Đức Maria đã đạp nát đầu con rắn. Vì thế, Mẹ đã được tôn vinh trong văn chương, âm nhạc và nghệ thuật như là Đấng đạp nát đầu con rắn dưới gót chân Mẹ.

Mỗi khi các cuộc tấn công của Kẻ Thù trên đời sống chúng ta có vẻ gia tăng, chúng ta hãy chạy đến với Đức Maria không chỉ như là Mẹ hiền từ của chúng ta, mà còn như một chiến binh dũng mãnh, trước sự hiện diện của Mẹ ma quỷ phải kinh hoàng run sợ. Như Thánh Bonaventura từng nói: “Người ta không sợ một đạo quân mạnh mẽ thù địch cho bằng quyền lực của hoả ngục sợ tên Mẹ Maria và sự bảo trợ của Mẹ.”

Các thánh qua mọi thời đại cũng đã để lại cho chúng ta những lời khuyên khôn ngoan và những tấm gương sáng ngời về cách chiến đấu và chiến thắng ma quỷ nhờ đức tin, lời cầu nguyện, và đời sống thánh thiện. Thánh Antôn ẩn tu, Thánh Padre Pio ở Pietrelcina, Thánh Gioan Vianney, Thánh Teresa thành Avila, Thánh Gemma Galgani và nhiều vị thánh khác đã từng chịu đựng các cuộc tấn công thể xác từ ma quỷ và cuối cùng đã chiến thắng kẻ thù ma quái của họ. Các ngài biết rõ thế nào là chiến đấu và chiến thắng. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào lời chuyển cầu và sự trợ giúp của các ngài trong cuộc chiến thiêng liêng chống lại Kẻ Thù.

Nhà thần học và tác giả linh đạo thời Trung Cổ, Hugh thành Saint Victor, đã viết rằng các thánh cùng chiến đấu với chúng ta như những chiến binh trong đạo binh của Đức Kitô:

“Vì Ngôi Lời Nhập Thể là Vị Vua của chúng ta, Đấng đã đến trần gian để giao chiến với ma quỷ. Tất cả các thánh sống trước khi Ngài đến như những chiến binh đi trước Vua của mình, còn những ai đến sau và sẽ đến cho đến tận thế là những chiến binh theo sau Vua mình. Chính Vị Vua ấy đứng giữa đạo binh của Ngài, được bảo vệ và bao quanh bởi các đội quân trung thành... Tất cả cùng phụng sự một Vị Vua, theo một lá cờ, truy đuổi một kẻ thù, và được đội triều thiên bởi một chiến thắng vinh quang.”

Các thánh nam nữ của Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể đến với các ngài qua lời cầu nguyện, qua việc học hỏi và noi gương đời sống các ngài, cũng như qua việc tôn kính các thánh tích của các ngài — điều mà ma quỷ vô cùng kinh sợ. Không có gì ngạc nhiên khi Kinh Cầu Các Thánh được đọc như một phần không thể thiếu trong các nghi thức trừ tà long trọng. -- Paul Thigpen, Manual for Spiritual Warfare

Share:

Tôi không lên án chị đâu! Và từ nay đừng phạm tội nữa -- CN V Mùa Chay C

Việc Chúa Giêsu luôn đảo ngược tình huống như trong câu chuyện nhóm Pharisêu hỏi có nên ném đá người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang ở đây, việc không ai từng làm cho Ngài câm lặng mà Ngài luôn khiến họ câm lặng, là một trong những bằng chứng về thần tính của Chúa Giêsu. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa xuất hiện, Ngài đều làm điều đó: Ngài đảo ngược tình huống, Ngài trở thành người đặt câu hỏi, còn kẻ chất vấn Ngài trở thành người bị chất vấn. Ví dụ, trong sách Gióp, Gióp hỏi Thiên Chúa: Tại sao Ngài lại làm điều này với con? Tại sao Ngài lại để con đau khổ nhiều đến vậy? Ngài biết con không đáng chịu điều này. Ngài biết con không phải là kẻ xấu xa nhất thế gian, như ba người bạn gọi là bạn của con đã nói. Tại sao Ngài để điều xấu xảy ra với người tốt? Đây là thứ công lý gì vậy? Cuối cùng Chúa xuất hiện và trả lời Gióp, câu trả lời của Ngài là dưới hình thức những câu hỏi: Ngươi ở đâu khi Ta tạo dựng thế giới và vạch ra câu chuyện cuộc đời ngươi? Ngươi có mặt ở đó để tư vấn cho Ta về kịch bản câu chuyện sao? Ta không thấy ngươi ở giữa các thiên thần của Ta.

Khi Thánh Catarina thành Siena hỏi Thiên Chúa hai câu hỏi quan trọng nhất — đó là “Ngài là ai?” và “Con là ai?” — Thiên Chúa đã trả lời bằng bốn từ: “Ta là Thiên Chúa; ngươi không phải là Thiên Chúa.”

Khi những người Pharisêu nghe câu trả lời của Ngài, tất cả đều ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi và khôn ngoan nhất, vì họ nhận ra rằng giờ đây họ là những người bị chất vấn. Chúa Giêsu ngầm đưa cho họ một thế khó: Họ có dám nói rằng họ không có tội hay không? Nếu họ bảo mình không có tội, họ là những kẻ ngốc nghếch hoặc dối trá nhất thế gian. Nếu thừa nhận họ có tội, họ không có quyền ném đá. Bây giờ họ hiểu rằng họ bị chất vấn, chứ không là kẻ chất vấn. Việc bị Chúa chất vấn chính là bước đầu tiên để có sự hiểu biết.

Chúa chất vấn bằng câu hỏi nào? Câu hỏi mà họ đang được hỏi chính là câu hỏi mà Thiên Chúa đã hỏi Gióp: Ngươi là ai? Đó là câu hỏi mà Thiên Chúa sẽ hỏi từng người trong chúng ta khi chúng ta chết: Ngươi là ai? Hãy cho Ta thấy tất cả mọi điều trong linh hồn ngươi. Nếu Ta thấy Con của Ta ở đó, Ta sẽ nhận ra ngươi và đón tiếp ngươi vào thiên đàng, vì ngươi là người trong gia đình.

Chúa Giêsu sau đó không chỉ trả lời họ mà còn trả lời người phụ nữ. Câu trả lời của Ngài dành cho người phụ nữ có hai phần. Trước hết, lời của Ngài có nghĩa là: “Vì không ai trong những kẻ tố cáo ngươi dám xét xử và buộc tội ngươi, vì tất cả họ đều nhận ra rằng họ cũng là tội nhân, nên Ta cũng không xét xử và buộc tội ngươi — dù Ta không có tội và có quyền xét xử và buộc tội ngươi.”

Mọi người đều vỗ tay trước phần đầu tiên trong câu trả lời của Ngài, nhưng họ thường quên phần thứ hai, phần cũng quan trọng không kém và mang theo với nó quyền năng Thiên Chúa phát ra từ chính đôi môi đó: “Hãy đi, và đừng phạm tội nữa.” Tha thứ không phải là thờ ơ, làm lơ. Chúa không nói, “Không có gì để tha cả.” Tội đã phạm. Ngài không nói, “Đừng lo lắng về chuyện đó.” Cô ấy phải đối mặt với tội của mình. Chúa không chỉ yêu người tội lỗi, mà còn ghét tội, chính vì Ngài yêu người tội lỗi. Ngài biết tội lỗi có hại thế nào và ơn tha thứ thì đắt đỏ chừng nào. Ngài sẽ phải trả giá cho tội lỗi của cô ấy, và Ngài biết cái giá đó đắt như thế nào: Ngài sẽ bị treo trên thập giá.

Ơn tha thứ đòi hỏi một sự bù trả. Khi chúng ta tha một món nợ, chúng ta mất đi một khoản tiền vì chúng ta có ít tiền hơn để trả cho những chủ nợ của mình. Nếu bạn nợ tôi một ngàn đô và tôi tha cho bạn, bạn không phải trả tôi, nhưng tôi vẫn phải trả những người mà tôi nợ — như bạn đã nợ tôi. Tha thứ là một hình thức hy sinh. Nó không dễ dàng hay rẻ tiền. Sự tha thứ của Thiên Chúa thì đắt giá. Bạn thực sự có thể nhìn thấy cái giá đó. Bạn nhìn thấy giá của nó trên mỗi cây thánh giá. -- Dr. Peter Kreeft, Food for the Soul: Reflections on the Mass Readings (Cycle C)

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive