✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 24:37-44)
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
Từ Dr. John Bergsma
Các chủ đề của Tin Mừng hôm nay rất giống với chủ đề của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai. Chúng ta nhờ đó thấy được lòng trung thành của Thánh Phaolô đối với Tin Mừng đã được rao giảng (không biến đổi nó).
Chúa Giêsu dùng trận lụt thời Nô-ê như một biểu tượng của ngày cánh chung. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,” tất cả những hình ảnh của dục lạc. Khi ngày tận thế đến, hầu hết thế giới sẽ bị phân tâm bởi việc tìm kiếm lạc thú trong cuộc đời này.
Những lời tuyên bố này của Chúa về “một người được đem đi, một người bị bỏ lại” và sự xuất hiện của “kẻ trộm khi đêm đến” đã làm nảy sinh “tín điều” của thời hiện đại về “rapture / việc được đem đi,” một khái niệm về sự tái lâm của Đức Kitô, khi mà những người tin vào Chúa đột nhiên được “đưa lên” khỏi trái đất và những người không tin sẽ bị bỏ lại đàng sau và sẽ phải trải qua một đại nạn trước khi tận thế. Đây không là một tín điều trong truyền thống của Kitô giáo. “Rapture / việc được đem đi” được đưa ra bởi John Nelson Darby, một mục sư Plymouth Brethren vào những năm 1800. Carl Olson đã xuất bản “Will Catholics Be Left Behind: A Critique of the Rapture and Today's Prophecy Preachers / Liệu người Công giáo sẽ bị bỏ lại đằng sau”, phê bình rất chính xác về thuyết lý này.
Bài đọc I và Thánh Vịnh trình bày đời sống Kitô hữu như một cuộc “hành hương” đến Sion. Bài đọc hai và Tin Mừng trình bày đời sống Kitô hữu là một cuộc sống đòi hỏi có sự “tỉnh thức” và từ bỏ những đam mê nhục dục ở đời này. Hai hình ảnh có thể được kết hợp làm một cách sống. Trong một cuộc hành hương, người ta không bị lôi cuốn theo việc tìm kiếm lạc thú. Ban ngày bạn phải đi bộ nhiều giờ trên camino / đường và ngủ ở nơi bạn có thể—đôi khi ở những nơi khắc khổ—vào ban đêm. Và nếu bạn tạo nên thói quen dừng chân và “hưởng vui chơi”, bạn sẽ không thể nào đạt đến đích. Các bài đọc trong Thánh lễ này kêu gọi chúng ta lần nữa dấn thân sống cuộc đời hiện tại như một cuộc hành hương về núi Sion trên trời.
_____________
Từ Dr. Brant Pitre
Vậy Chúa Giêsu đang nói về điều gì? Đoạn Phúc âm này nói về điều gì? Điều đầu tiên tôi muốn nói ở đây, và điều này rất quan trọng, là nhấn mạnh rằng mặc dù một số Kitô hữu (Tin Lành) cho rằng Chúa Giêsu đang nói về việc những kẻ tin Chúa chân thành được bí mật “rapture / đem đi khỏi” trái đất. Nếu họ thực sự tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ biến mất một cách bí ẩn và những người khác sẽ bị “bỏ lại đằng sau”. Nhưng đó không phải là điều mà Chúa Giê-su đang nói đến. Điều mà Chúa Giêsu đề cập đến trong đoạn Phúc âm này là về việc Chúa đến thứ hai trong ngày tận thế. Chúa Giêsu đang nói về phán xét cuối cùng, không phải việc được bí mật đem đi của những người thực sự tin vào Chúa.
Để tôi đưa ra cho bạn một vài lý do tại sao Ngài đang nói về cuộc phán xét cuối cùng, bạn có thể thấy điều đó bằng cách xem xét bối cảnh.
1. Mặc dù sách bài đọc Phúc âm không có câu này, nhưng câu ngay trước dòng đầu tiên “Thời ông Nô-e thế nào,” là câu nổi tiếng mà Chúa Giê-su nói “về ngày và giờ đó thì không ai biết được.” Và câu đó nói vềVà câu đó đề cập đến thời điểm trời và đất sẽ qua đi, không ai biết khi nào điều đó sẽ xảy ra, kể cả các thiên thời điểm mà trời đất sẽ qua đi, ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi. Vì vậy, sự liên quan đến ngày giờ đó là ngày cánh chung, ngày phán xét cuối cùng. Đó là điểm đầu tiên, bối cảnh nói về sự phán xét cuối cùng.
2. Việc Chúa Giê-su ám chỉ thời Nô-ê cho bạn thấy rằng đây là sự phán xét của vũ trụ, sự phán xét của toàn thế giới. Bởi vì vào thời Nô-ê, nếu bạn quay trở lại sách Sáng thế chương 6-9 đọc, những gì Sáng thế mô tả là một trận lụt toàn cầu, nơi tất cả những kẻ ác trên toàn thế giới đều bị diệt vong trước sự phán xét của Chúa, và chỉ một số ít người, tám người, được cứu thoát khỏi sự phán xét của Chúa. Vì vậy, Chúa Giêsu đang đưa ra một sự so sánh. Cũng như trong thời Nô-ê, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, và không chuẩn bị cho cuộc đại hồng thủy, cuộc phán xét toàn cầu, thì khi Con Người quang lâm, nhiều người sẽ vẫn mải mê với những thứ của thế gian này, và họ sẽ không có sự sẵn sàng cho cuộc phán xét cuối cùng. Họ sẽ không sẵn sàng cho parousia, từ Hy Lạp về việc Con Người đến, khi Người sẽ phán xét trần gian. Giống như Chúa phán xét cả thế giới vào thời điểm lũ lụt.
3. Điều này thực sự quan trọng. Nếu bạn để ý, bạn có thể thấy rằng khi Chúa Giê-su nói một người được đem đi và một người bị bỏ lại, cho dù một người đàn ông được đem đi và một người đàn ông bị bỏ lại, hay một người đàn bà được đem đi và một người đàn bà bị bỏ lại (một lần nữa nếu bạn nghĩ về hình ảnh của lũ lụt làm nền cho những gì Ngài đang nói), điều gì đã xảy ra ở đây? Gia đình của Nô-ê đã được đem đí. Nói cách khác, họ đã được cứu khỏi sự phán xét của trận lụt, và những người bị bỏ lại; họ không bị bỏ lại để sống trên thế gian và có thời gian để ăn năn hay điều gì đó tương tự, họ bị lọt ra khỏi ơn cứu rỗi và trận lụt cuốn trôi đi, họ bị diệt vong trong sự phán xét của Chúa. Điều chủ yếu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây là sự phân chia giữa người công chính và kẻ ác sẽ diễn ra vào ngày phán xét cuối cùng.
Nếu bạn muốn một so sánh tương tự với điều này, bạn có thể xem chương tiếp theo trong sách Mát-thêu, dụ ngôn về chiên và dê trong Phúc âm Mát-thêu chương 25, nơi Chúa Giê-xu phân rẽ người công chính khỏi kẻ gian ác. Ngài phân biệt chiên với dê, và người công chính đi vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa Cha, trong khi những con dê đi vào lửa hủy diệt vĩnh cửu đã chuẩn bị sẵn cho ma quỷ và các thiên sứ của hắn. Vì vậy, đây là sự phân tách của ngày phán xét cuối cùng, nó không phải là về việc người tín hữu trung tín được đem đi cách bí ẩn. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn này, Chúa nói ngày Con Người quang lâm cũng vậy. Đây là ngày Chúa đến lần thứ hai chứ không là sự những người tín hữu chân thực được đem đi lên thiên đàng trong bí mật. Từ “rapture / được đem đi” đó không bao giờ được dùng đến.
4. Tất cả điều này rất rõ ràng nếu bạn nhìn vào phần kết của bài Phúc âm hôm nay, bởi vì đâu là điểm nhấn mạnh chính? Nó là bản chất bất ngờ của sự phán xét. Nói cách khác, bạn không biết chính xác khi nào Con Người sẽ đến vào ngày tận thế. Ngài sử dụng một vài hình ảnh khác nhau cho việc này. Ngài nói, hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Vì vậy Ngài nói hãy tỉnh thức, như thức canh chờ Con Người đến. Nhưng Ngài cũng dùng dụ ngôn kẻ trộm trong đêm. Vì vậy Ngài nói nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Và câu cuối cùng liên kết nó với câu trước đó trong Mát-thêu 24:35-6, Trời đất sẽ qua đi vào ngày giờ không ai biết cả.
Vì vậy, toàn bộ bối cảnh của đoạn văn này không là về việc được đem đi lên trời trong bí mật mà là về cuộc phán xét cuối cùng. Đó là về cuộc chờ đợi [Chúa đến] lần thứ hai. Đó là về parousia / sự xuất hiện của Chúa Kitô vào ngày tận thế. Đây là một phân tích ngắn thôi. Nếu bạn muốn biết thêm, tôi đã có một lớp học Kinh Thánh và về rapture / được đem đi với tiêu đề “Jesus and the End Times: A Catholic View of the Lats Days”. Trong đó, tôi đi qua những vấn đề khác của quan điểm “được đem đi.” Tôi chỉ muốn loại ý đó ra ở đây để bạn thấy rằng Giáo hội bắt đầu năm phụng vụ với Tin Mừng Mát-thêu, bắt đầu Chúa nhật đầu tiên của Mùa Vọng, không phải với một đoạn nói về việc được đem đi, về rapture. Giáo hội bắt đầu Chúa nhật thứ I của Mùa Vọng, với một đoạn Phúc âm nói về chờ đợi cuối cùng, về sự tái lâm của Chúa Kitô vào ngày tận thế, điều này cho chúng ta chút manh mối về những gì sắp diễn ra trong Mùa Vọng. Nó nói về việc chúng ta chuẩn bị, không chỉ mừng Lễ Giáng Sinh, khi Chúa đến lần đầu tiên, mà còn là chuẩn bị cho chúng ta cho Chúa đến lần cuối cùng, sự giáng lâm cuối cùng của Chúa Kitô vào ngày tận thế.
Một hôm có bạn nêu ra vấn đề "Catholic guilt" / cảm giác tội lỗi của người Công giáo làm mình nhớ đến một câu chuyện của bản thân giúp mình hiểu Catholic guilt.
Câu chuyện là Ad có lần bị ho rất nặng, ho liên lỉ. Cuối cùng thử đi khám dị ứng. Bác sĩ tìm không ra dị ứng nào; bác sĩ đoán nguyên do và bảo vì mình ăn quá nhiều nhưng lại nói thầm với y tá giúp việc và mình nghe được.
Mình không mắc chứng ăn quá nhiều (thực sự khi còn bé nhớ ông thuốc ta nói biếng ăn biếng ngủ) nhưng có lẽ vì thức ăn người Việt không đủ cho mình khi bước vào những năm tuổi teen và bị chứng trào ngược bao tử từ khi còn rất trẻ.
Mỗi khi nhớ lại câu chuyện mình cảm thấy xấu hổ (giống như Catholic guilt) vì bác sĩ nghĩ vậy về mình. Nhưng giả sử bác sĩ ấy là mẹ của mình, mẹ sẽ nói: "Tội nghiệp con tôi, lớn lên ăn không đủ chất nên sinh ra chứng này", mình sẽ không xấu hổ mà cảm thấy được hiểu, được tôn trọng.
Cảm giác tội lỗi của Catholic guilt là biết tội mà chưa biết đủ về tình yêu của Chúa, mạnh mẽ như người cha và ân cần, dịu dàng như người mẹ.
Khi người Công giáo đi xưng tội và ý thức được tình yêu và lòng thương xót của Chúa, người ấy sẽ cảm thấy chút xấu hổ, nhưng cũng tràn ngập lòng biết ơn vì Chúa hiểu biết sự yếu đuối của ta và không chê ta bao giờ. Vì Chúa có thể biến ta thành người đạo đức tốt lành trong tích tắc với quyền năng của Ngài. Nhưng cách nào đó, Chúa biết rằng chúng ta cần nhân đức khiêm nhường hơn tất cả; nhân đức khiêm nhường giữ chúng ta trong một mối tương quan đúng đắn giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Đức tin giúp chúng ta biết Chúa đã yêu thương tôi đến nỗi đã hiến mạng để tôi được tinh tuyền, trong sạch, biết mình quý giá thế nào đối với Thiên Chúa.
Thiết nghĩ điều này cũng quan trọng: ta phải biết có một sự khác biệt thường bị nhẫm lẫn giữa "Catholic guilt" -- cảm giác tội lỗi của một người bình thường và scrupulosity - được dùng để chỉ một dạng rối loạn lo âu liên quan đến sự tội lỗi thái quá. Cảm giác tội lỗi không luôn là điều tệ vì nó có thể giúp chúng ta ý thức về lỗi lầm nào đó ta đã làm chứ không bỏ qua để tìm cách thay đổi bản thân. Nhưng dù là Catholic guilt hay rối loạn lo âu về tội thái quá, biết đến tình yêu và lòng thương xót của Chúa là nền tảng cần thiết để có thể tiến bước.
Phải chống lại cám dỗ. Sau khi đã khiêm tốn quy phục Thiên Chúa, chúng ta được lệnh phải chống lại ma quỷ. Ở phần còn lại của câu 7 trong chương 4, thánh Giacôbê nói, “Hãy chống lại ma quỷ, chúng sẽ chạy xa anh em” (Giacôbê 4, 7b). Chúng ta không thụ động nhượng bước trước tấn công của nó, nhưng phải đánh trả.
Tân ước thường mô tả đời sống Kitô hữu như một trận chiến thiêng liêng chống lại thế lực tội ác bằng việc sử dụng các thuật ngữ chiến tranh như chiến đấu, chế ngự, đấu tranh và đánh thắng. Kitô hữu thường được so sánh với những người lính đang chiến đấu trên đất quân thù.
Làm sao chúng ta có thể chống lại ma quỷ? Thánh Phaolô nói, “hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của thần khí ban cho, tức là lời Thiên Chúa” (Êphêsô 6, 17). Bước thứ nhất là tiếp nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bạn sẽ không thể nói không với ma quỷ nếu bạn đã không nói vâng với Đức Kitô. Không có Đức Kitô, chúng ta hoàn toàn vô phương tự vệ trước ma quỷ, nhưng với “mũ chiến đội đầu là ơn cứu độ” tâm trí chúng ta được bảo vệ bởi chính Thiên Chúa. Hãy nhớ điều này: nếu bạn là Kitô hữu, Satan không thể bắt ép bạn làm một chuyện gì, nó chỉ có thể gợi ý.
Thứ đến, bạn phải dùng lời của Thiên Chúa làm vũ khí chống lại Satan. Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta khi ngài chịu cám dỗ trong sa mạc. Mỗi lần Satan đưa ra một đề nghị mời mọc, ngài chống lại bằng cách trích dẫn một câu lời chúa. Ngài không tranh luận với Satan. Ngài đã không nói, “tôi không đói” khi bị cám dỗ dùng quyền năng mình để đáp ứng nhu cầu bản thân. Ngài chỉ đơn giản trích dẫn lời Chúa đã thuộc lòng. Lời Thiên Chúa có quyền năng và Satan sợ điều đó.
Đừng bao giờ tìm cách tranh luận với ma quỷ. Nó giỏi hơn bạn nhiều, bởi đã có hàng ngàn năm tập luyện. Bạn không thể đánh lừa Satan với lý luận hoặc quan điểm của bạn, nhưng bạn có thể dùng thứ vũ khí vốn làm nó phải run sợ - chân lý của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao thuộc lòng Kinh Thánh là tuyệt đối cần thiết để đánh bại cám dỗ. Bạn có thể đọc thật nhanh bất cứ khi nào bạn bị cám dỗ. Như Đức Giêsu, bạn đã cất giữ chân lý trong lòng, và nhớ lại bất cứ khi nào.
Nếu bạn không thuộc lòng một câu Kinh Thánh nào, thì khác chi bạn có súng mà bên trong không có đạn! Tôi thách thức bạn học thuộc lòng mỗi tuần một câu lời Chúa trong quãng đời còn lại. Hãy hình dung bạn sẽ mạnh mẽ biết bao. -- Trích từ Sống theo đúng mục đích
Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. 18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19 Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Luca 21:5-19)
Rõ ràng Chúa Giêsu nói ở phần đầu đoạn Kinh Thánh này về sự hủy diệt hoàn toàn của Đền Thờ Hêrôđê vào năm 70 sau Công nguyên (tức là Đền Thờ được bắt đầu xây bởi Hêrôđê Cả và hoàn tất vào năm 66). Nhiều người đặt câu hỏi về cái gọi là “Bức tường Than khóc” ở Giêrusalem: chẳng phải những phiến đá của Bức tường Than khóc là một phần của Đền Thờ sao, và điều này có phủ nhận lời tiên báo của Chúa Giêsu không? Thực ra, Bức tường Than khóc là một phần của bức tường kè được xây để tạo nên một quảng trường phẳng rộng rãi cho Đền Thờ và các hành lang của nó. Bức tường ấy không phải là một phần của Đền Thờ. Đền Thờ thực sự nằm hơi về phía bắc của Đền Mái Vòm hiện nay (Dome of the Rock), và không còn một dấu tích nào sót lại.
Trong phần kế tiếp của Tin Mừng Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu mô tả những biến cố dẫn đến cuộc tàn phá Giêrusalem năm 70. Sử gia Do Thái Flavius Josephus ghi lại những dấu hiệu kinh hoàng trên trời và dưới đất xảy ra trước tai họa này trong tác phẩm “Cuộc Chiến Do Thái” (The Jewish War).
Đồng thời, Giêrusalem là Thành Thánh, trung tâm của thế giới, rốn của vũ trụ, một vũ trụ thu nhỏ của Đền Thờ hoàn vũ. Như Josephus viết:
“Vì nếu ai chịu khó xem xét cấu trúc của Nhà Tạm, và nhìn vào y phục của thượng tế cùng những vật dụng được dùng trong phụng vụ thánh, người ấy sẽ thấy… mọi thứ đều được tạo nên như một sự mô phỏng và biểu tượng của vũ trụ.”
(Jewish Antiquities 3:180)
Vì thế, điều xảy ra với Giêrusalem năm 70 là một hình bóng và dấu chỉ cho điều sẽ xảy ra với toàn thể vũ trụ. Do đó, lời của Chúa Giêsu cũng hoàn toàn đúng khi được hiểu như nói về ngày tận thế.
“Trước khi tất cả những điều ấy xảy ra…”
Chúa nói:
- Họ sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em,
- giao nộp anh em cho các hội đường và nhà tù,
- điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy.
- Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.
- Anh em đừng lo phải bào chữa thế nào,
- vì chính Thầy sẽ ban cho anh em lời lẽ khôn ngoan,
- đến nỗi mọi kẻ chống đối anh em đều không thể chống lại hay bác bỏ.
- Cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè cũng sẽ nộp anh em,
- và một số người trong anh em sẽ bị giết chết.
Những điều này được ứng nghiệm trong sách Công vụ Tông đồ, khi trong những năm 50–60 sau Công nguyên, các Tông đồ bị bắt bớ, bị giải đến trước hội đường, nhà tù, vua chúa, quan quyền, và một số bị giết—tất cả xảy ra trước khi Giêrusalem bị phá hủy năm 70. Đồng thời, những cuộc bách hại này luôn là đặc điểm của Hội Thánh trong suốt lịch sử và sẽ trở nên mãnh liệt hơn ngay trước ngày Chúa quang lâm.
“Anh em sẽ bị mọi người thù ghét vì danh Thầy.”
Sự thù ghét của người đời là một gánh nặng đặc biệt đối với Kitô hữu, vì chúng ta khao khát tình yêu và sự hoán cải của họ. Chúng ta không chúc dữ điều gì cho ai, nhưng vì chúng ta không chấp nhận những lối sống và niềm tin sai lạc, nguy hại và trái với ý Chúa, nên ta bị chống đối và oán ghét.
“Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất.”
Vì Chúa Giêsu thừa nhận rằng một số sẽ bị giết, nên câu này không thể hiểu theo nghĩa giản đơn rằng người tín hữu sẽ không bị tổn hại thể xác.
Câu này phải được hiểu theo nghĩa của thời cánh chung, thời điểm cuối cùng: người tín hữu sẽ không bị tổn hại vĩnh viễn, vì thân xác họ sẽ được phục sinh toàn vẹn. Như thế, chủ đề phục sinh—trọng tâm của các bài đọc tuần trước, được nối kết lại.
“Nhờ kiên trì, anh em sẽ cứu được mạng sống mình.”
Sự kiên trì là một hình thức của nhân đức can đảm—khả năng chịu đựng đau đớn và thử thách.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự kiên trì cần thiết trong thời đại đầy bách hại đang dần hình thành, để chúng ta trung tín đến cùng và nhận lại thân xác trong ngày phục sinh, không thiếu một sợi tóc.-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year B
Xin chào, tôi là Cha Mike Schmitz, cho Kênh Ascension Presents.
Khi còn trong đại học, chúng tôi thường làm cho các linh mục thức rất khuya. Lễ chính của sinh viên là lúc 9 giờ tối, rất trễ. Và tôi nhớ có một người bạn thân của tôi, anh ấy đi lễ mỗi Chúa Nhật. Nhưng khi mọi người đứng dậy ra khỏi hàng để lên rước lễ, anh ấy vẫn ngồi yên trong ghế. Tôi nghĩ anh ấy đang tự nhủ: Mình thật tệ. Mình là kẻ duy nhất không lên rước Chúa hôm nay. Mình không xứng đáng lãnh nhận Thánh Thể ngày Chúa nhật này, vì những gì mình đã làm tối thứ Sáu, hoặc thứ Bảy.
Tôi không phán xét và chỉ nghĩ, anh ấy biết rõ chính mình. Anh biết mình đang trong tình trạng không thể rước Mình Thánh Chúa. Tôi nghĩ anh ấy thấy đó là một thất bại, là một sự thiếu sót trong việc làm chứng cho Chúa Giêsu. Nhưng tôi nhớ khi nhìn anh, tôi đã nghĩ: Người này hiểu được điều đó. Khi không lên rước lễ, anh đang tôn kính Chúa hơn nhiều người trong chúng tôi những người vẫn lên rước lễ trong tình trạng không xứng đáng.
Thánh Phaolô viết về điều này trong thư I gửi tín hữu Côrintô, chương 11. Ngài nói có những người đi lễ nhưng rước Mình và Máu Chúa một cách bất xứng, và vì thế họ mang tội xúc phạm đến chính cái chết của Người.
Nếu ta rước lễ trong tình trạng tội trọng, rước lễ trong tình trạng bất xứng, đó là một tội trọng khác. Thánh Kinh nói điều đó rõ ràng và nghiêm trọng. Thế nhưng, biết bao lần chúng ta đến bàn thánh một cách vô tư, mà không xét mình: Tôi có đang ở trong tình trạng ân sủng không? Tôi có ý thức mình đang mắc tội trọng không?
Chúng ta biết ba điều kiện để một tội trở thành tội trọng: Vậy nếu tôi biết mình đã bỏ lễ Chúa Nhật, đó là một lỗi phạm nặng. Nếu tôi biết đây là lỗi phạm nặng và vẫn cố tình làm, thì đó là tội trọng. Tôi không thể rước lễ.
Và trước lễ, nếu tôi đã phạm một tội trọng, dù biết rõ và vẫn cố ý, thì tôi cũng không thể rước lễ, vì rước lễ lúc đó, tôi sẽ phạm một tội trọng khác.
Chúng ta được mời gọi đi lễ, nhưng phải kiêng rước lễ nếu ý thức mình đang phạm tội trọng.
Ngôn ngữ của Thánh Phaolô rất nghiêm trọng: tôi đã được giải thích là khi rước lễ bất xứng, ta trở nên “đồng phạm” trong cái chết của Chúa Kitô. Một điều khá nặng nề.
Có vài điều cần lưu ý: Để phạm tội trọng, phải hội đủ ba điều kiện: Lỗi phạm nặng, ý thức là điều nặng và vẫn chọn làm điều đó. Nếu bạn không biết điều đó, nó vẫn là tội, nhưng bạn không mắc lỗi, không mang tội về mặt luân lý. Nhưng giờ bạn đã biết.
Rước lễ trong tình trạng tội trọng là một tội khác nữa. Nhiều người nói: Cứ lên rước lễ. Thánh Thể là thuốc cho tội nhân, không phải phần thưởng cho người công chính. Đúng, Thánh Thể là thuốc chữa cho người bệnh, nhưng không phải cho người đã chết. Tội trọng là sự chết thiêng liêng. Nếu ai đó nói với bạn: Không sao, cứ lên rước lễ dù đang ở trong tội trọng. Đó là lời sai lầm. Tôi không bao giờ khuyên điều đó, vì Lời Chúa và Giáo Hội đều ngăn cấm rõ ràng. Bạn cần nhớ điều đó.
Nhưng nếu bạn không chắc thì sao? Nếu bạn đi lễ mà tự hỏi: Mình có phạm tội trọng không nhỉ? Có phải tội đó là tội trọng không? Và đầu óc bạn cứ quay cuồng.
Đây là lời khuyên tôi nhận được, và muốn truyền lại cho bạn. Tôi sẽ sống theo có lẽ đến tận ngày tôi mất đi là: Khi nghi ngờ, hãy rước lễ và rước với tâm hồn bình an. Vì ba điều kiện của tội trọng là: Nếu bạn không biết chắc, thì chưa đủ điều kiện để là tội trọng.
Hơn nữa, nếu bạn là ma quỷ, và muốn ngăn con người đến gần trái Chúa, bạn sẽ làm gì? Điều xảy ra có lẽ là, ngay trong giây phút rước lễ, khi con người được đến gần Chúa và hiệp thông với Ngài, ma quỷ sẽ tìm cách làm bạn xao lạc, bằng cách gieo vào tâm trí bạn: “Khoan, mình có đang ở trong ân sủng không? Có nên lên không? Đó chính là sự phân tâm mà hắn muốn tạo ra ngay trong giây phút thân mật giữa linh hồn và Chúa.
Khi không chắc chắn, hãy rước lễ. (2x) Bởi tiếng nói bảo bạn không nên đến gần Chúa là tiếng nói sai lầm.
Người bạn thời đại học của tôi, người đã không lên rước lễ, lại là một chứng nhân mạnh mẽ hơn cho sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Thánh Thể, và cho tình yêu của Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người đến gần Ngài hơn bất cứ ai khác trong đời tôi. Anh ấy hiểu hai điều: 1. Chúa muốn tôi ở đây. Tôi phải đi lễ ngày Chúa Nhật. 2. Nhưng với tình trạng linh hồn của tôi hiện tại, tôi chưa thể rước Chúa.
Lời tuyên bố: Tôi cần phải đi lễ, nhưng tôi không thể rước Chúa lúc này, đã truyền cảm hứng cho tôi về việc yêu mến Chúa Giêsu trong Thánh Thể hơn bất kỳ cuốn sách nào tôi từng đọc. Đó là chứng tá của một người tưởng mình thất bại, nhưng thật ra đang làm chứng cho quyền năng và chân lý của Chúa, cho sự hiện diện thật của Ngài trong Bí tích Thánh Thể, ngay cả khi không rước lễ.
Đó là điều tôi muốn chia sẻ hôm nay. Tôi là Cha Mike Schmitz. Xin Thiên Chúa chúc lành cho bạn.
Cuối tuần vừa rồi, tôi đã dành thời gian để tìm hiểu sâu về cuộc đời của Thánh Carlo Acutis. Và thật lòng mà nói, tôi đã không chuẩn bị tinh thần cho những gì mình tìm thấy. Tôi vốn đã biết khá rõ về tiến trình phong thánh – nó hoạt động như thế nào, các bước ra sao – nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nghiên cứu kỹ về một vị thánh nào từ đầu đến cuối: cuộc đời, cái chết, và những phép lạ gắn liền với họ.
Trong trường hợp này, những gì tôi tìm thấy thực sự khiến tôi gần như rơi nước mắt. Đặc biệt là khi tôi đọc được cách mà Carlo Acutis đối diện với những đau đớn của giờ phút cuối đời. Đó là một câu chuyện thật phi thường. Đôi khi chúng ta có thể cảm thấy các vị thánh rất xa cách chúng ta. Ví dụ, khi tôi nghĩ đến Thánh Maximilian Kolbe, tôi vô cùng ngưỡng mộ ngài, nhưng ngài dường như ở một thế giới khác. Ngài là một vị tử đạo trong trại tập trung.
Nhưng với Carlo thì khác. Cậu ấy ở ngay trước mắt chúng ta. Cậu là một thanh niên thuộc thế hệ thiên niên kỷ – yêu thích trò chơi điện tử và lập trình. Cậu đi giày thể thao, mặc áo hoodie. Nhưng đồng thời, cậu lại sống đời thánh thiện khiến chúng ta phải nhìn vào lời mời gọi nên thánh của chính mình. Carlo không ở trên một bệ thờ xa vời nào đó.
Carlo mời gọi chúng ta cũng hãy nên thánh. Trong video này, đây là những gì bạn có thể mong đợi. Video này sẽ hơi dài, bởi vì chúng ta sẽ cùng nhau cẩn thận đi qua cuộc đời, cái chết và hai phép lạ phi thường đã dẫn đến việc phong thánh cho Carlo. Tôi muốn thử thách các bạn – hãy ở lại với tôi đến cuối video, vì chỉ khi đó, bạn mới thực sự thấy được bức tranh toàn cảnh về lý do tại sao Thánh Carlo không chỉ là một vị thánh quan trọng đối với người Công giáo, mà có thể là một trong những vị thánh quan trọng nhất của thế hệ chúng ta. Tôi không hề nói quá đâu. Nhưng bạn cần phải nghe câu chuyện của cậu ấy. Và ở cuối video, tôi cũng sẽ chia sẻ thêm về tác động mà câu chuyện này đã có đối với tôi –là một người từng theo đạo Tin Lành.
Chúng ta hãy bắt đầu. Video này về cơ bản sẽ là câu chuyện về cuộc đời của Carlo Acutis. Tôi nghĩ rằng bạn sẽ tìm thấy rất nhiều điều ý nghĩa trong đó. Và tất cả những gì tôi chia sẻ ở đây đều có thể được xác minh trực tuyến. Đây đều là thông tin công khai, nên nếu bạn cảm thấy tôi nói chưa chính xác ở đâu, cứ việc kiểm tra lại nhé.
Carlo Acutis sinh ra tại London vào năm 1991, nhưng gia đình sớm chuyển về Milan. Điều đặc biệt ở đây là – cha mẹ cậu khá giàu có, có học thức, và nói một cách đơn giản là chỉ mang danh Công giáo theo danh nghĩa. Mẹ cậu thậm chí thừa nhận rằng bà hầu như chẳng bao giờ bước chân vào nhà thờ, ngoại trừ những dịp như đám cưới hay các bí tích. Nhưng rồi, cậu bé nhỏ này xuất hiện, và ngay từ những năm tháng đầu đời, cậu đã kéo cả gia đình mình trở lại với đức tin.
Hãy tưởng tượng một đứa trẻ mẫu giáo kéo cha mẹ đi lễ – đó chính là điều đã xảy ra trong trường hợp này. Năm ba tuổi, Carlo đã khăng khăng đòi dừng lại ở các nhà thờ để dâng hoa cho Đức Mẹ và cầu nguyện trước thánh giá. Và năm bốn tuổi, trong khi phần lớn trẻ em chỉ mới đang học đọc, Carlo đã đọc kinh Mân Côi mỗi ngày. Đây không phải là một đứa trẻ chỉ bắt chước đức tin của cha mẹ – đây là một đứa trẻ dẫn dắt cha mẹ đến với đức tin. Mẹ cậu sau này đã nói rằng chính bà được cứu nhờ tấm gương của Carlo. Khi cậu rước lễ lần đầu vào năm bảy tuổi, đó không chỉ là một cột mốc. Đó là trung tâm của cuộc đời cậu. Carlo luôn nài nỉ được tham dự Thánh lễ mỗi ngày.
Cậu thường quỳ gối trong giờ chầu Thánh Thể và nói với bất kỳ ai thắc mắc rằng: “Thánh Thể là con đường cao tốc dẫn tôi đến thiên đàng.” Và cậu nghiêm túc đến mức đã tự đặt cho mình một châm ngôn nhỏ: “Thánh lễ thánh thiêng– làm tôi thánh thiện.”
Nhưng sự thánh thiện của Carlo không chỉ giới hạn trong nhà thờ. Cậu là kiểu người sẵn sàng chia sẻ tiền tiêu vặt của mình cho người nghèo, làm bạn với những bạn học bị bắt nạt, và âm thầm mua chăn tặng cho người vô gia cư trên đường phố Milan. Các giáo viên chỉ nhận ra quy mô của lòng bác ái âm thầm đó tại lễ tang của cậu – khi nhà thờ tràn ngập những người nghèo mà Carlo từng thầm lặng giúp đỡ.
Dù khi có một đời sống thiêng liêng sâu sắc như thế, Carlo vẫn hoàn toàn bình thường. Cậu yêu thích bóng đá, Pokémon, trò chơi điện tử, và cả phim hoạt hình The Simpsons. Điểm khác biệt là cậu biết giữ mọi thứ trong cân bằng. Cậu chỉ cho phép mình chơi game một giờ mỗi tuần, bởi vì – như cậu nói – “Thắng được hàng ngàn trận chiến thì có ích gì nếu con không thể thắng được chính đam mê của mình?” Đó là một sự khôn ngoan mà tôi – và hầu hết người lớn – cần phải học hỏi. Rất ít người trong chúng ta đạt được đến mức độ tự chủ như thế.
Rồi còn khía cạnh công nghệ của Carlo nữa. Cậu không chỉ đơn thuần thích máy tính – cậu là một thiên tài thực thụ. Khi còn là thiếu niên, cậu đã tự xây dựng các trang web, viết mã lập trình, và cuối cùng tạo ra một danh mục trực tuyến khổng lồ về các phép lạ Thánh Thể, thứ mà đến nay vẫn còn được sử dụng trên khắp thế giới. Trong khi nhiều bạn cùng tuổi mải mê với MySpace, Carlo lại dùng Internet để dẫn người ta đến với Chúa Giêsu.
Mùa thu năm 2006, mọi chuyện dường như vẫn bình thường với Carlo. Cậu 15 tuổi, đang học trung học, vẫn lập trình website và chơi bóng đá với bạn bè. Nhưng rồi đột nhiên, sức khỏe cậu suy sụp. Cậu bắt đầu có các triệu chứng giống như cảm cúm. Gia đình đưa cậu đến bệnh viện, và các bác sĩ phát hiện ra cậu mắc một dạng bệnh bạch cầu (leukemia) cực kỳ ác tính.
Hãy tưởng tượng – mới 15 tuổi mà nghe chẩn đoán như thế. Hầu hết mọi người sẽ tuyệt vọng, sẽ hỏi: “Tại sao chuyện này lại xảy ra với con? Con còn quá trẻ.” hoặc cố bấu víu vào chút an ủi nào đó. Nhưng Carlo lại phản ứng khác. Cậu xem đó là lễ dâng cuối cùng của mình lên Thiên Chúa từ giường bệnh.
Điều khiến tôi thật sự xúc động là đây: cậu bình tĩnh nói với gia đình và các bác sĩ rằng:
“Con xin dâng tất cả những đau khổ con phải chịu cho Chúa, cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.”
Khi tôi lần đầu tiên đọc những lời này, thật lòng mà nói, tôi gần như bật khóc. Thật là phi thường để có khả năng ôm lấy đau khổ của mình một cách vị tha như vậy. Đó là điều tôi luôn cố gắng noi theo. Bởi vì điều đó không chỉ thể hiện sự trưởng thành, mà còn thể hiện sự thánh thiện thực sự. Đây chính là điều mà các vị thánh đã làm – và thành thật mà nói, đó cũng là điều tôi mong ước mình làm được khi đối diện với thử thách trong cuộc đời tôi. Tôi thường không đạt được, nhưng chính vì thế mà nó thật đẹp – và khiến tôi gần như rơi nước mắt. Đây chính là ý nghĩa sâu xa nhất của đời sống đức tin.
Carlo ấy đã từ chối thuốc giảm đau, giải thích rằng cậu sẽ dâng những đau khổ của mình cho những người còn khốn khổ hơn. Có lúc các y tá định gọi bố mẹ cậu dậy, nhưng Carlo đã ngăn họ lại. Cậu không muốn bố mẹ vì mình mà mất ngủ. Ngay cả trong những giờ phút cuối đời, tâm trí cậu vẫn hướng về người khác chứ không phải bản thân. Khi mẹ cậu khóc bên giường bệnh, cậu nhẹ nhàng an ủi bà. Anh nói: “Mẹ đừng sợ. Nhờ Chúa Giêsu, cái chết không phải là dấu chấm hết. Đó là một cuộc vượt qua để đến tới sự sống thật. “Mẹ hãy vui lên vì con rất hạnh phúc.” Ngày 12 tháng 10 năm 2006, chỉ 10 ngày sau khi nhập viện và khi mới 15 tuổi, Carlo đã qua đời với một nụ cười thanh thản trên môi. Cậu chết như cách cậu đã sống: bình an, với đôi mắt hướng về Chúa Kitô. Nhưng câu chuyện của cậu gần như lại bắt đầu từ đây.
Tại lễ tang, người ta bắt đầu thì thầm về những ơn lành và các ca chữa lành liên quan đến cậu. Một phụ nữ bị ung thư vú đã nhờ lời chuyển cầu của Carlo trong Thánh lễ an táng và đã được chữa lành cách không thể giải thích được -- không cần đến liệu pháp hóa trị mà bác sĩ đã chỉ định.
Một người bạn của gia đình, một phụ nữ 44 tuổi chưa bao giờ có khả năng thụ thai, cũng đã cầu nguyện tại lễ tang của Carlo. Chỉ một tháng sau, bà phát hiện mình mang thai. Ngay cả mẹ của Carlo cũng trải nghiệm điều phi thường. Nhiều năm trước, bà mong muốn có thêm con nhưng không thể thụ thai. Sau khi Carlo qua đời, bà mơ thấy con, và trong giấc mơ, Carlo nói rằng bà sẽ lại làm mẹ. Rồi bốn năm sau khi Carlo mất, bà đã có một cặp sinh đôi – một trai và một gái. Bà không hề nghi ngờ rằng người con trai trên thiên đàng đã can thiệp. Và thưa các bạn, tất cả những điều này đều có thật. Bạn có thể tự mình tra cứu.
Tuy nhiên, những sự kiện này không được kể vào trong tiến trình phong thánh chính thức. Chúng ta sẽ nói đến điều đó. Nhưng đối với gia đình và bạn bè Carlo, đây là những dấu chỉ rất mạnh mẽ. Với họ, rõ ràng là Carlo đã chuyển cầu và rất gần với Chúa.
Sau cùng, cái chết của Carlo không phải là bi kịch như người ta vẫn nghĩ về một cậu bé 15 tuổi ra đi vì bệnh bạch cầu. Cái chết của Carlo thực ra là một chiến thắng. Carlo cho thế giới thấy thế nào là chết trong bình an – không phải trong sợ hãi mà trong đức tin, không phải trong cay đắng mà trong tình yêu. Cuộc đời cậu ngắn ngủi. Đúng, nhưng nó tiếp tục sinh hoa trái qua các phép lạ, những cuộc hoán cải, và vô số người trẻ giờ đây nhìn đến Carlo như một mẫu gương về sự thánh thiện thời hiện đại. Có người có thể nghĩ cái chết của Carlo là dấu chấm hết cho câu chuyện của cậu. Nhưng thật ra, như tôi nói, đó chỉ mới là khởi đầu.
Sự thánh thiện của Carlo không phai mờ sau khi qua đời; dường như còn được nhìn thấy rõ hơn. Những lời cầu nguyện, các câu chuyện, những sự chữa lành âm thầm – tất cả đều đang dẫn tới điều gì đó lớn lao hơn.
Vào năm 2013, một biến cố phi thường tại Brazil đã trở thành phép lạ chính thức mở đường cho án phong chân phước của Carlo. Trước khi đi sâu vào phép lạ đó, hãy tạm lùi lại một chút. Giáo Hội Công giáo không xem nhẹ việc tuyên thánh. Không phải là về cảm tính hay vì được yêu mến bởi quần chúng.
Để được phong chân phước, ứng viên cần có một phép lạ đã được xác minh là nhờ lời chuyển cầu của họ. “Được xác minh” ở đây không có nghĩa là một câu chuyện hay ho lan truyền trên mạng.
Nó có nghĩa là hồ sơ y khoa chính thức, lời khai hữu thệ, các cuộc điều tra của tòa án giáo luật, và nhiều tầng lớp thẩm định của bác sĩ, nhà khoa học, thần học gia, hồng y, và cuối cùng là chính Đức Giáo hoàng.
Tôi đã phỏng vấn Đức ông Robert Sarno, người đã dành nhiều thập kỷ làm việc tại văn phòng Vatican chuyên điều tra các phép lạ. Ngài mô tả quy trình này là một trong những quy trình nghiêm ngặt nhất thế giới. Nghiêm ngặt đến mức nhiều hồ sơ bị bác bỏ khi đem ra xem xét.
Mục tiêu không phải là chứng minh rằng một phép lạ đã xảy ra, mà là cố gắng theo mọi cách có thể để chỉ ra rằng nó không xảy ra. Chỉ sau khi không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích tự nhiên nào, lúc đó – và chỉ lúc đó – Giáo Hội mới tiến bước.
Đó chính là mức độ bằng chứng mà chúng ta đang nói đến ở đây. Điều tuyệt vời là mọi điều tôi sắp chia sẻ đều có thể được kiểm chứng độc lập trên mạng. Với điều đó trong tâm trí, hãy trở lại Brazil.
Năm 2013, một cậu bé tên là Matheus Vianna Lindo đã phải chịu đựng từ khi sinh ra một căn bệnh hiếm và nghiêm trọng có tên là “annular pancreas” – tức là tụy vòng. Nói đơn giản, một phần mô tuyến tụy đã phát triển vòng quanh đoạn đầu của ruột non, bó chặt lấy nó. Điều này khiến cậu bé bị nôn liên tục, suy dinh dưỡng và đau đớn đến mức các bác sĩ nói rằng chỉ có phẫu thuật mới có thể cứu được. Và cần nói rõ: trong giới y học, người ta thống nhất rằng căn bệnh này không thể tự khỏi nếu phẫu thuật không can thiệp. Nó sẽ không tự biến mất. Tôi muốn tạm dừng một chút ở đây, bởi vì là một người cha có ba đứa con nhỏ – và cũng có một đứa cháu từng vật lộn nhiều năm với các vấn đề tiêu hóa nghiêm trọng – khi đọc đến câu chuyện này trong quá trình nghiên cứu, tôi thật sự xúc động sâu sắc.
Cơn đau dạ dày ở trẻ nhỏ thật khủng khiếp. Nó không chỉ hành hạ đứa trẻ, mà còn dày vò cha mẹ. Giờ ăn trở thành cuộc chiến đầy căng thẳng. Đêm đến thì mất ngủ. Cha mẹ phải mang nặng cảm giác bất lực. Và trường hợp của Matheus thật sự khiến người ta đau lòng.
Khi lên hai tuổi, cậu bé chỉ nặng khoảng 9 kg và đã phải nhập viện nhiều lần. Cậu còn bị viêm phổi do hít phải dịch nôn mãn tính. Gia đình cậu tuyệt vọng. Họ không đủ khả năng chi trả cho ca phẫu thuật đầy rủi ro và dường như không còn cách nào khác.
Rồi đến ngày 12 tháng 10 năm 2013 – đúng vào ngày giỗ của Carlo Acutis. Ở một nhà nguyện nhỏ tại Campo Grande, Brazil, các giáo dân đang kết thúc tuần cửu nhật kính Carlo. Trong Thánh lễ hôm đó, một thánh tích của Carlo – một mảnh quần áo của cậu – được trưng bày để tôn kính. Ông ngoại của Matheus đã khuyến khích cậu tiến đến gần thánh tích. Với sự đơn sơ của một đứa trẻ, Matheus đặt tay lên thánh tích của Carlo và cầu nguyện: “Xin cho con ngừng nôn.”
Thật xúc động. Các nhân chứng kể lại điều xảy ra sau đó: đêm hôm đó, lần đầu tiên trong đời, Matheus xin được ăn một bữa đầy đủ. Cậu ngồi cùng anh chị em, ăn một bát cơm với súp đậu – và không nôn ra nữa. Không đau, không khó chịu, chỉ là một bữa ăn bình thường với gia đình. Từ ngày hôm đó trở đi, tình trạng nôn mửa không còn. Cậu ăn ngon miệng trở lại. Các bác sĩ sớm xác nhận điều mà gia đình đã tin chắc trong lòng – sự tắc nghẽn tụy đã hoàn toàn biến mất. Hình ảnh chụp chiếu cho thấy tuyến tụy bị dị dạng trước đây đã tự tái tạo đúng hình dạng bình thường. Và cho đến ngày nay, Matheus vẫn khỏe mạnh, sống một cuộc sống bình thường. Và điều đáng nhớ nhất: không có lời giải thích y học nào cho hiện tượng này. Căn bệnh tụy vòng không thể tự khỏi – càng không thể biến mất chỉ sau một đêm, ngay sau khi một đứa trẻ cầu nguyện và chạm vào thánh tích. Giáo phận Campo Grande đã xem xét vụ việc cực kỳ nghiêm túc. Họ thu thập toàn bộ hồ sơ y tế, báo cáo của bác sĩ, lời chứng của gia đình, rồi gửi tất cả sang Rôma. Một tòa án giáo phận chính thức mở cuộc điều tra, phỏng vấn mọi người dưới tuyên thệ.
Đến năm 2019, Vatican xác nhận cuộc điều tra này hợp lệ về mặt pháp lý. Sau đó, một hội đồng gồm năm chuyên gia y khoa xem xét bằng chứng và đưa ra kết luận nhất trí: Sự chữa lành diễn ra nhanh chóng, hoàn toàn, và bền vững – không thể giải thích bằng khoa học.
Sau đó, một ủy ban các nhà thần học đã nhất trí rằng việc chữa lành ấy là kết quả của lời chuyển cầu của Carlo. Rồi đến lượt các hồng y và giám mục trong Bộ Phong Thánh xem xét và khẳng định phán quyết đó. Cuối cùng, vào tháng 2 năm 2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ký sắc lệnh công nhận phép lạ.
Một cậu bé mắc căn bệnh chỉ có thể được chữa bằng phẫu thuật, chạm vào thánh tích của Carlo, cầu nguyện bằng những lời đơn sơ và ngây thơ nhất có thể. Và ngay trong đêm hôm đó, cậu ăn một bữa cơm như anh chị em mình — lần đầu tiên trong đời. Kết quả chụp chiếu cho thấy tuyến tụy của cậu đã tự phục hồi hoàn toàn theo cấu trúc bình thường.
Mọi bước của quá trình này đều được ghi lại. Mọi bằng chứng được kiểm chứng. Mọi hồ sơ được công khai. Đây không phải là lời đồn, đây là bằng chứng thực tế. Bất kỳ ai cũng có thể tra cứu điều này. Và vào tháng 10 năm 2020, nhờ phép lạ ấy, Carlo Acutis đã được phong Chân phước tại Assisi — trở thành người thuộc thế hệ thiên niên kỷ đầu tiên đạt đến giai đoạn này trên con đường nên thánh.
Phép lạ đầu tiên tại Brazil quả thật phi thường. Nhưng câu chuyện nên thánh của Carlo vẫn chưa kết thúc. Việc phong Chân phước cần một phép lạ, còn việc phong Thánh (phong hiển thánh) thì cần một phép lạ thứ hai. Và vào năm 2022, 16 năm sau khi Carlo qua đời, phép lạ thứ hai đã đến — lần này không phải ở Nam Mỹ, mà là ở châu Âu, trong cuộc đời của một cô gái trẻ đang du học tại Ý.
Tên cô là Valeria (hay chính xác hơn là Valeriia Valverde), 21 tuổi, đến từ Costa Rica. Khi ấy cô đang sống ở Florence để du học, và mọi thứ thay đổi hoàn toàn vào đêm ngày 2 tháng 7 năm 2022. Valeria đang đạp xe thì bị ngã mạnh xuống đường. Cú va chạm khiến cô bị chấn thương sọ não nghiêm trọng, nhiều tổn thương ở não, xuất huyết, và sưng phù nặng đến mức các bác sĩ phải cắt bỏ một phần hộp sọ để cứu mạng cô.
Tình hình vô cùng bi thảm. Valeria rơi vào hôn mê sâu và phải thở máy. Mạng sống của cô thật sự rất mong manh. Các bác sĩ nói với gia đình cơ hội sống sót gần như là số không. Và ngay cả nếu có sống sót, cô gần như chắc chắn sẽ bị tổn thương não vĩnh viễn.
Khi mẹ của Valeria, bà Liliana, bay từ Costa Rica sang, bà tìm thấy con gái mình nằm bất tỉnh trên giường bệnh, xung quanh là vô số máy móc duy trì sự sống. Liliana là một người có đức tin sâu sắc, đặc biệt sùng kính Chân phước Carlo Acutis, người đã được phong chân phước vào thời điểm đó. Ngay từ lúc xảy ra tai nạn, bà bắt đầu phó thác Valeria cho lời cầu bầu của Carlo, cầu nguyện liên lỉ và kêu gọi người khác cùng hiệp ý cầu nguyện.
Suốt sáu ngày liền, không có gì thay đổi. Valeria vẫn hôn mê sâu, tiên lượng vẫn vô vọng.
Rồi đến ngày 8 tháng 7, Liliana đã làm một điều vô cùng đặc biệt. Bà rời bệnh viện, đến Assisi, nơi thi hài của Carlo được lưu giữ trong Đền Thánh, Shrine of the Spoliation. Bà quỳ bên mộ Carlo suốt nhiều giờ, dâng trọn trái tim mình, cầu xin Carlo chuyển cầu cho con gái được chữa lành. Bà thậm chí còn viết một lá thư gửi cho Carlo, khẩn khoản xin sự giúp đỡ.
Ngay trong ngày hôm đó, tại Florence, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Valeria — người đang hoàn toàn phụ thuộc vào máy thở — bất ngờ bắt đầu tự thở lại được. Các bác sĩ hoàn toàn kinh ngạc. Họ không thể tin điều này đã xảy ra.
Được khích lệ bởi dấu hiệu ấy, các bác sĩ bắt đầu giảm thuốc an thần cho Valeria. Và sáng hôm sau, ngày 9 tháng 7, Valeria tỉnh dậy. Cô cử động được, phản ứng được, thậm chí cố gắng nói chuyện. Sau đó là một quá trình hồi phục nhanh đến mức không thể giải thích bằng y học. Chỉ trong vài ngày, khả năng nói của cô cải thiện rõ rệt. Đến ngày 18 tháng 7, kết quả chụp cắt lớp cho thấy một điều không ai ngờ tới: mọi vết xuất huyết trong não đã hoàn toàn biến mất.
Đến tháng 8, cô được chuyển sang trung tâm phục hồi chức năng, và đến đầu tháng 9, chưa đầy hai tháng sau tai nạn, Valeria hoàn toàn tỉnh táo, khỏe mạnh, không còn bất kỳ di chứng thần kinh nào. Ngày 2 tháng 9, cô cùng mẹ trở lại mộ của Carlo ở Assisi, lần này là để tạ ơn.
Đối với các bác sĩ, đây thật sự là một điều không thể hiểu nổi. Một bệnh nhân với chấn thương nặng như vậy không thể nào đột nhiên tỉnh lại rồi tự đi ra khỏi bệnh viện. Nhưng với Valeria – đó chính xác là điều đã xảy ra. Và đây không chỉ đơn thuần là “sống sót sau chấn thương” – mà là một sự chữa lành toàn diện, hoàn toàn và bền vững.
Giáo hội đã tiến hành cuộc điều tra chính thức như thường lệ. Tổng giáo phận Florence mở án điều tra, phỏng vấn bác sĩ, y tá, người thân, và thu thập toàn bộ hồ sơ y khoa.
Sau đó, Tòa Thánh Vatican xem xét toàn bộ tài liệu. Vào cuối năm 2023, hội đồng y khoa tuyên bố rằng sự hồi phục này không thể giải thích được bằng khoa học. Đến tháng 3 năm 2024, các nhà thần học xác nhận rằng việc chữa lành diễn ra nhờ lời cầu bầu của Carlo. Vào tháng 5 năm 2024, các hồng y và giám mục của Bộ Phong Thánh đồng ý, và Đức Giáo hoàng Phanxicô chính thức công nhận đây là một phép lạ.
Và như vậy, với hai phép lạ được phê chuẩn – cả hai đều đột ngột, trọn vẹn và không thể giải thích bằng y học – Carlo đã hoàn thành điều kiện cuối cùng để được phong Thánh.
Ngày 7 tháng 9 năm 2025, trong một buổi lễ tại Vatican, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã phong thánh cho Carlo Acutis, cùng với Chân phước Pier Giorgio Frassati.
Giờ tôi chỉ muốn dừng lại để suy ngẫm một chút. Là một người trở thành Công giáo từ Tin Lành, điều khiến tôi xúc động nhất khi đọc về cuộc đời, cái chết và các phép lạ gắn liền với Thánh Carlo là: từ rất sớm, Carlo đã có khao khát nên thánh. Trong khi hầu hết trẻ em cùng tuổi lo chơi điện tử hoặc cố gắng hòa nhập, thì Carlo đã hướng trọn cuộc sống mình về Thiên Chúa.
Khi nhìn lại chính bản thân, tôi phải thừa nhận – tôi vẫn vật lộn với cầu nguyện, với tính kỷ luật, và tôi không tự nhiên bị thu hút bởi việc dành hàng giờ cầu nguyện hay chiêm niệm. Một phần trong tôi ước gì mình giống Carlo hơn, ước gì sự thánh thiện đến với tôi một cách tự nhiên như với cậu ấy. Nhưng rồi tôi phải nhắc nhở chính mình – và có lẽ bạn cũng cần nghe điều này:
Các thánh không phải là siêu nhân. Họ không phải những sinh vật hoàn hảo được “thả xuống” từ trời với sẵn đầy đủ các nhân đức. Họ là con người, như bạn và tôi. Họ cũng chiến đấu với cám dỗ, chịu đau khổ, vấp ngã, nhưng họ không ngừng nói “xin vâng” với Thiên Chúa. Chính điều đó làm cho tấm gương của họ trở nên mạnh mẽ.
Sự thánh thiện không phải điều không thể đạt được. Đó là ơn gọi chung của mọi người. Và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta thật sự có thể sống điều đó.
Điều này thật tuyệt vời – thật mạnh mẽ. Là một người tân tòng, tôi thấy rằng mầu nhiệm các thánh thông công là một trong những điều đẹp đẽ và bất ngờ nhất mà tôi khám phá được trong đức tin Công giáo. Các thánh không phải là những nhân vật phủ bụi trong ô kính nhà thờ, họ là một phần sống động của cộng đoàn hiện tại, đang sống trong Chúa Kitô.
Câu chuyện của họ truyền cảm hứng cho chúng ta, nhưng đồng thời họ cũng chuyển cầu cho chúng ta. Từ cái nhìn của người Công giáo – và đôi khi, qua cả các thánh tích, chúng ta có thể cảm nhận sự hiện diện của họ một cách cụ thể và thực tế.
Đây là bức tranh sống động của thế giới Kitô giáo – thật tuyệt vời. Và thật lòng mà nói, sau khi đã trải nghiệm thực tại này, tôi không thể quay lại Tin Lành nữa. Mầu nhiệm các thánh thông công làm cho Giáo Hội trở nên sống động theo cách mà tôi chưa bao giờ có thể tưởng tượng.
Vậy nên, tôi xin kết lại với điều này: Các thánh thật tuyệt vời. Họ nhắc nhở chúng ta rằng nên thánh là điều có thể đạt được ngay trong đời này. Và Thánh Carlo Acutis – vị thánh thiên niên kỷ đầu tiên – là bằng chứng sống động cho điều đó.
Có thể đôi lúc bạn cảm thấy một cám dỗ nào đó quá sức chịu đựng, nhưng đó là lừa phỉnh của Satan. Thiên Chúa đã hứa không bao giờ đặt trên bạn gánh nặng vượt quá sức mạnh Ngài ban trong bạn để bạn đối phó với nó. Ngài không cho phép bất kỳ cám dỗ nào xảy ra mà bạn không thể đánh bại. Tuy nhiên, bạn phải góp phần bằng cách thực hành bốn bí quyết Kinh Thánh dạy để đối đầu với cám dỗ.
TẬP TRUNG SỰ CHÚ Ý CỦA BẠN VÀO MỘT ĐIỀU KHÁC. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi không nơi nào trong Kinh Thánh bảo chúng ta “chống lại cám dỗ”. Chúng ta chỉ được dạy hãy “chống lại ma quỷ” (Galát 5, 22-23)… Thay vào đó, chúng ta được khuyên hãy tập trung suy nghĩ một chuyện khác, bởi lẽ chống lại một ý nghĩ sẽ vô ích. Việc đó chỉ làm tăng sự chú ý vào điều sai trái, và chúng ta càng thấy nó quyến rũ hơn. Để tôi giải thích:
Mỗi khi bạn tìm cách ngăn chặn một ý tưởng khỏi tâm trí, bạn lại khiến nó đi sâu hơn vào ký ức mình. Thay vì chống, bạn lại củng cố nó. Điều này rất đúng đối với cám dỗ. Bạn không đánh bại cám dỗ bằng cách chống lại cảm xúc về nó. Càng chống lại cảm xúc, nó càng làm bạn tiêu hao và chế ngự bạn. Bạn làm cho nó mạnh thêm mỗi khi nghĩ đến nó.
Vì cám dỗ luôn bắt của bạn sẽ chiếm được con đầu từ một ý nghĩ, nên cách nhanh nhất để vô hiệu hoá sức quyến rũ của nó là hãy chú ý vào một chuyện khác. Đừng chống lại ý tưởng. Chỉ cần thay đổi dòng suy tư và để tâm đến một ý nghĩ khác. Đây là bước đầu tiên để đánh bại cám dỗ.
Cuộc chiến chống lại tội lỗi thắng hay bại là ở trong tâm trí. Điều gì chiếm sự chú ý của bạn sẽ chiếm được con người của bạn…
Đó là lý do tại sao việc lặp đi lặp lại “tôi phải ăn ít lại… Hoặc tôi phải bỏ hút thuốc… Hoặc tôi không thèm khát nữa” là chiến lược tự làm cho mình thất bại. Nó bắt bạn chú ý vào điều bạn không muốn. Cũng như tuyên bố, “tôi sẽ không bao giờ làm điều mẹ tôi đã làm”. Chính bạn đang tự đặt mình để làm lại chuyện đó.
Cám dỗ khởi sự bằng việc bắt lấy chú ý của bạn. Điều gì khiến bạn chú ý, điều ấy sẽ dấy lên cảm xúc nơi bạn. Tiếp đến, cảm xúc tác động đến hành vi và bạn lại hành động theo cảm xúc. Càng chú ý đến “tôi không muốn làm điều này”, nó càng mạnh mẽ kéo bạn vào trong lưới bẫy của nó.
Phớt lờ cám dỗ thì hiệu quả hơn so với việc chiến đấu với nó. Khi tâm trí bạn nghĩ đến một điều gì khác, cám dỗ sẽ tự mất tác dụng. Thế nên, khi cám dỗ gọi điện thoại cho bạn, đừng tranh cãi với nó, chỉ việc cúp máy!
Đôi khi điều này có ý nghĩa vật lý là lánh xa cám dỗ. Tẩu vi thượng sách. Chỗi dậy tắt ti vi. Rời khỏi nhóm bạn đang nói chuyện tầm phào. Hãy rời khỏi rạp, dù phim chưa xong. Để khỏi bị châm, hãy lánh xa đàn ong. Hãy làm bất cứ điều gì có thể để hướng sự chú ý của bạn vào một chuyện khác.
Về mặt thiêng liêng, tâm trí của bạn là một trong những nơi dễ bị tổn thương nhất. Để bớt bị cám dỗ, hãy để lời Chúa và những ý tưởng tốt lành chiếm hữu tâm trí bạn. Hãy đánh bại những ý nghĩ đen tối bằng cách nghĩ đến những gì thanh cao. Đây là nguyên tắc thay thế. Thắng điều dữ bằng điều lành (Rôma 12, 21). Satan không thể lôi kéo sự chú ý của bạn đang khi bạn bận tâm đến một điều khác. Đó là lý do tại sao Kinh Thánh lặp đi lặp lại với chúng ta rằng, hãy giữ lòng trí tập trung: “Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giêsu” (Híp-ri 3, 1). “Anh hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô” (2 Timôthê 2, 8 ). “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Philípphê 4, 8 ).
Nếu thật sự nghiêm túc muốn đánh bại cám dỗ, bạn phải quản trị tâm trí mình và giám sát nguồn thông tin đưa vào. Người khôn ngoan nhất đã từng sống trên đời cảnh báo rằng: “hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ, vì từ đó mà sự sống phát sinh” (Châm ngôn 4, 23). Đừng để rác rưởi đổ vào tâm trí bạn cách bừa bãi. Phải gạn lọc. Phải chọn lựa kỹ càng điều bạn suy nghĩ. Hãy noi gương thánh Phaolô, “chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cô-rintô 10, 5). Điều này đòi hỏi phải thực hành lâu dài suốt cả đời, nhưng với trợ giúp của Chúa thánh thần, bạn có thể thiết lập lại cách suy nghĩ của mình. -- Trích từ Sống theo đúng mục đích