Trong video này, Alex Frank, tốt nghiệp từ Duke University và học luật ở Yale, vì bị đau lưng đã tìm đến yoga, ngay cả sống trong chùa ở Nhật bản 3 tháng. Alex trả lời câu hỏi bạn có thể tập yoga mà không có những tác động tiêu cực đến đời sống tâm linh của người Kitô hữu không? Có lựa chọn nào tốt hơn thay vì yoga không (ở video sau)? Mời bạn nghe Alex Frank chia sẻ
Vì tôi dạy một khóa học về tỉnh thức theo Công Giáo (Catholic mindfulness) nên đôi khi có người hỏi tôi: người Công Giáo có được thực hành chánh niệm không, và điều đó liên hệ thế nào với truyền thống linh đạo thần bí Công Giáo (mystical spirituality) vốn đã có sẵn trong Giáo Hội? Đây là những câu hỏi rất hay, và tôi muốn làm rõ ngay từ đầu.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào sự khác biệt giữa Phật giáo và Công Giáo. Tình thức, chánh niệm (mindfulness) là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều ngày nay, và điều này có thể gây nhầm lẫn vì nó dường như gắn liền với triết lý Phật giáo — và thật sự là như vậy, nó có nguồn gốc từ triết lý Phật giáo. Vì thế, điều hết sức quan trọng là phải hiểu rõ sự khác biệt giữa mindfulness / tình thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo.
Trước tiên, với tư cách là người Công Giáo, chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho chúng ta nơi con người Đức Giêsu Kitô, và qua đó Người cũng mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm Ba Ngôi là Thiên Chúa vừa là Ba vừa là Một: có sự đa dạng về ngôi vị nơi Thiên Chúa — Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần — nhưng đồng thời cũng có sự hiệp nhất tuyệt đối vì Thiên Chúa là Một. Mầu nhiệm này được phản chiếu trong toàn thể công trình tạo dựng.
Chẳng hạn, nơi nhân loại: con người cũng có một ý thức về sự hiệp nhất. Chúng ta là một gia đình nhân loại, có một điều gì đó liên kết tất cả chúng ta lại với nhau, và nếu Thiên Chúa muốn, tất cả chúng ta được mời gọi để vào nước trời— đó chính là sự hiệp thông các thánh. Có một sự hiệp nhất mà chúng ta đang hướng tới nơi toàn thể nhân loại. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng tin rằng mỗi người là một cá vị riêng biệt, được tạo dựng cách độc nhất vô nhị. Mỗi người là một cá nhân thật sự khác biệt. Điều này rất khác với điều Phật giáo tin về thực tại được tạo dựng và về thực tại như họ cảm nghiệm.
Trong khi chúng ta chấp nhận mầu nhiệm Ba Ngôi — vừa là Ba vừa là Một — thì Phật giáo không chấp nhận mầu nhiệm theo cách như vậy.
Để giải thích kinh nghiệm về hiệp nhất và đa dạng, Phật giáo đơn giản cho rằng sự đa dạng chỉ là ảo tưởng. Con đường đi đến giác ngộ của một Phật tử là hoàn toàn và dứt khoát hiểu, cảm nghiệm và cảm thấy chỉ có sự hiệp nhất của mọi hữu thể, và coi sự đa dạng của hiện hữu là ảo tưởng cần phải loại bỏ.
Vì thế, khi nói đến kinh nghiệm về chính bản thân mình, một Phật tử sẽ nói rằng cái “tôi” là ảo tưởng, bản ngã không tồn tại. Đồng thời, họ cũng nói rằng Thiên Chúa không tồn tại, bởi vì Thiên Chúa sẽ là một thực tại tách biệt khỏi con người, và trong triết lý Phật giáo thì không có sự phân biệt.
Dĩ nhiên, chúng ta không tin như vậy. Đây là một khác biệt rất lớn so với thế giới quan Kitô giáo, thần học và triết học của chúng ta.
Đó là hai hệ thống tư tưởng: Phật giáo và Công Giáo. Bây giờ, chúng ta hãy quay lại với mindfulness / tỉnh thức. Đối với Phật giáo, mindfulness /chánh niệm là một bước trên con đường đi đến giác ngộ. Nhưng mindfulness cũng có thể được thực hành trong bối cảnh Công Giáo. Làm sao điều đó có thể xảy ra?
Chúng ta hãy xem mindfulness là gì. Mindfulness đơn giản là ý thức về giây phút hiện tại. Đó là một cách để gạt bỏ lớp mạng nhện, làn sương mờ, sự rối loạn và lao đi không ngừng của tâm trí, hay những tiếng ồn ào bên trong đầu chúng ta, để chúng ta thật sự hiện diện trọn vẹn với những gì đang diễn ra xung quanh.
Đối với một Phật tử, đó là một bước dẫn đến việc nhận ra rằng tất cả những điều đó là ảo tưởng. Còn đối với người Công Giáo, đó là một bước giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của Thiên Chúa đang thấm nhuần công trình tạo dựng, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, và nhận ra chính bản thân mình trong bối cảnh của thế giới được tạo dựng này.
Việc thực hành như vậy có được không? Chúng ta hãy đi xa hơn một chút.
Trên con đường giác ngộ của Phật giáo còn có một bước gọi là “chánh ngữ” (right speech). Điều đó có nghĩa là không nói dối, không nói xấu sau lưng, không vu khống hay bôi nhọ người khác. Đó là một phần trong con đường giác ngộ của Phật giáo. Tự bản chất, đây là một điều tốt đẹp.
Và chúng ta, trong đời sống Kitô hữu, cũng thực hành “chánh ngữ” trên con đường đi đến nhân đức. Điều đó đã có sẵn trong hệ thống luân lý Công Giáo. Vì thế, chỉ vì một điều gì đó là một bước trên con đường giác ngộ của Phật giáo thì điều đó không nhất thiết là sai tự bản chất. Điều tương tự cũng áp dụng cho mindfulness.
Việc học cách ý thức về giây phút hiện tại, xét cho cùng, là một kỹ thuật hay một kinh nghiệm mang tính tâm lý. Chúng ta sử dụng nó thế nào thì phụ thuộc vào thế giới quan, niềm tin tôn giáo hay triết lý sống của mỗi người.
Nếu bạn là Phật tử, thì điều đó có nghĩa là bạn đang đi trên con đường khám phá rằng mọi điều bạn đang chú ý đến đều là ảo tưởng.
Còn nếu bạn là Kitô hữu hay người Công Giáo, thì bạn đang đi trên con đường hiểu biết rõ hơn về chính mình, về Thiên Chúa, và về thực tại quanh mình. Càng có ý thức rõ ràng về bản thân, bạn càng hiểu sâu hơn những chuyển động của con tim mình, ở tầng sâu bên dưới mọi xao lãng và mọi hỗn loạn của tâm trí.
Khi nói đến cầu nguyện, đối với người Kitô hữu, mindfulness không phải là cầu nguyện, và cũng không thể thay thế cho cầu nguyện. Việc ngồi đó và chỉ đơn giản ý thức về hơi thở của mình không phải là một hình thức cầu nguyện. Tuy nhiên, nó là một cách giúp làm lắng dịu tâm trí để chúng ta có thể bước vào cầu nguyện mà không bị phân tâm — và điều này rất quan trọng.
Tôi không biết bạn thế nào, nhưng với tôi, có nhiều lần tôi ngồi trong thánh lễ mà tâm trí lại chạy sang hướng khác. Tôi không chú ý đến các bài đọc hay bài giảng. Vâng, thưa cha, con xin lỗi, có những lúc con không chú ý đến bài giảng — có thể vì bình xăng sắp hết và con đang nghĩ xem sau lễ sẽ đi đổ xăng ở đâu! Dù là lý do gì đi nữa, tâm trí chúng ta không phải lúc nào cũng gắn chặt với giây phút hiện tại.
Mindfulness / Tình thức chính là điều giúp chúng ta quay trở lại với giây phút hiện tại. Có khi chỉ đơn giản là cảm nhận chiếc ghế nhà thờ mà tôi đang ngồi trong giây lát, để đưa tâm trí ra khỏi những xao lãng và trở lại với “bây giờ và ở đây.”
Và chính điều đó mở ra cho tôi khả năng thật sự đón nhận Lời Chúa, thật sự lắng nghe bài giảng, thật sự đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, để tôi có thể cảm nếm bằng tất cả các giác quan, với sự tập trung trọn vẹn, với sự hiện diện đầy đủ trong giây phút ấy.
Đó chính là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo, và cũng là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức và cầu nguyện trong đời sống Công Giáo.
Từng là “tín đồ yoga” nhưng sau khi trở thành người Công giáo, tôi muốn đưa ra một vài lời cảnh báo.
Xã hội thế tục rất ưa chuộng yoga, và không ít người Công giáo cũng thích nó. Theo Statista.com, doanh thu của ngành công nghiệp yoga lên đến hàng tỷ đô-la, và số người tham gia được ước tính lên đến hàng chục triệu người.
Bản thân tôi đã từng dấn sâu vào yoga, bị thu hút bởi ý tưởng tự hoàn thiện bản thân mà không cần phải bị những quy luật đạo đức ràng buộc. Sau nhiều năm nghiên cứu yoga và các hệ thống liên quan—chánh niệm, Phật giáo, pháp thuật shaman—tôi đã hoàn thành khóa đào tạo giáo viên, ở ba tháng trong một tu viện Thiền Zen, và học với một trong những guru tinh thần hàng đầu tại Hoa Kỳ. Trong suốt quá trình học hỏi, và khi hành trình tìm kiếm thiêng liêng của tôi dần dẫn tôi đến với Giáo hội Công giáo, tôi nhận ra rằng có yoga nhiều điều sâu xa hơn rất nhiều so với những gì văn hoá đại chúng phương Tây miêu tả .
BẢN CHẤT CỦA YOGA LÀ GÌ?
Khi phân tích xem liệu người Công Giáo có nên thực hành yoga hay không, điểm khởi đầu là xác định yoga là gì. Nó không chỉ là một tư thế cơ thể hay một chuỗi các tư thế. Thực ra, nó còn hơn thế: từ yoga trong tiếng Phạn có nghĩa là “gắn ách vào”, “kết hợp lại”. Việc “gắn ách” này hàm ý một sự kết hợp mang tính tâm linh, bắt nguồn từ một dạng phục tùng. Giờ đây, Đức Kitô mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người (Mt 11:30), nhưng yoga đặt lên người tập loại ách nào? Nói cách khác: yoga buộc người thực hành phải phục tùng điều gì?
Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xem xét các tư thế. Lấy vài ví dụ:
Ba tư thế Warrior (Chiến Binh) gợi lên thần Virabhadra, vị thần được thần Shiva tạo ra để giết cha vợ của Shiva. Ba tư thế này mô phỏng trình tự của vụ sát hại đó.
Matseyadrasana và Gorakshasana được đặt theo tên các đạo sư Ấn Độ giáo, những người sáng lập nên phong cách dẫn đến yoga hiện đại. Theo truyền thuyết nền tảng, họ đã dùng quyền năng huyền thuật của mình để thực hiện trộm cắp, ngoại tình, lừa đảo, cưỡng dâm bằng lừa dối, xúc phạm thi thể, giết con trai của Matsyendra và giả trang thành người khác giới.*
Theo người sáng lập Rasa Yoga, Sianna Sherman, tư thế Goddess “gợi lên” nữ thần hắc ám Kali, nổi tiếng vì làm quần áo từ các bộ phận cơ thể của kẻ thù bị giết. Cho đến ngày nay, tại Ấn Độ, những người sùng bái yoga vẫn dâng tế trẻ em cho bà ta.
VẬY MỤC ĐÍCH CỦA YOGA LÀ GÌ?
Nó vượt xa việc thực hiện những tư thế tôn vinh các thần và đạo sư Ấn Độ giáo có vấn đề. Bộ Ngoại giao Ấn Độ cho biết: “Yoga về căn bản là một kỷ luật thiêng liêng dựa trên một khoa học vô cùng tinh vi, tập trung vào việc đem lại sự hòa hợp giữa tâm trí và thân xác… Việc thực hành yoga dẫn đến sự hợp nhất giữa ý thức cá nhân với Ý thức Vũ trụ.” Như vậy, yoga về bản chất là một kỷ luật thiêng liêng. Việc làm thiêng liêng đó được đặt nền tảng trên niềm tin rằng ý thức, hay đơn giản là sự nhận biết, là phương tiện dẫn đến điều thiêng liêng. Mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ bản ngã cá nhân để nhận ra “Chân Ngã” của mình, hòa hợp ý thức của mình vào trong "Đại Ngã", hay có thể nói là hòa mình vào trong thực tại tối cao của vũ trụ, và tan biến mất trong đó.
Nhiều nguồn khác cũng nói những điều tương tự. Judith Lasater, có lẽ là giáo viên yoga nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ, mô tả “bản chất đích thực của việc thực hành” là giác ngộ, để “trải nghiệm thực tại không phải như những phần tách biệt của chúng ta, nhưng như một hữu thể duy nhất.” Anusha Wijeyakumar, một giáo viên yoga và tác giả có tiếng khác, nói rằng “mục tiêu tối hậu của yoga… là samadhi — sự hợp nhất sau cùng với thần và ý thức thiêng liêng… Yoga hám chứa rất nhiều chứ không chỉ là asana (các tư thế thể lý).”
Một mantra, tức bài kinh cầu của Ấn Độ giáo đi kèm các tư thế thể lý, là: “Tôi là những gì tôi nói tôi là.” Xét việc Thiên Chúa tự xưng trong sách Xuất hành 3,14, điều này trông rất giống một nỗ lực biến con người thành Thiên Chúa. Đây là một tuyên bố triết học cấp tiến dẫn đến một lối linh đạo đặc thù.
Ngược lại, Thánh Gioan Thánh Giá mô tả rằng linh hồn yêu mến Thiên Chúa sẽ phản chiếu ánh sáng của Người đến mức giống như chính Thiên Chúa, nhưng vẫn tách biệt về bản thể. Đức Hồng Y Ratzinger, khi khảo sát các hình thức chiêm niệm Kitô giáo, đã viết năm 1989 rằng “mọi khát vọng mà lời cầu nguyện của các tôn giáo khác biểu lộ đều được toại nguyện vượt xa mọi mức độ, nơi thực tại Kitô giáo, mà không làm cho bản thân người cầu nguyện hay bản tính của thụ tạo bị hòa tan hay biến mất vào biển cả của [Đấng] Tuyệt Đối.” Hiệp nhất với Thiên Chúa là khao khát cao quý, nhưng con đường Đông phương và con đường Kitô giáo khác nhau một cách căn bản.
Lập luận ủng hộ yoga phổ biến nhất là loại bỏ phần “thiêng liêng” sâu xa và chỉ tập trung vào hành động thể lý của việc co giãn. Những người Công Giáo ủng hộ yoga cho rằng chỉ cần thực hiện các “tư thế”—vốn tôn vinh các thần Ấn Độ giáo có vấn đề về luân lý và luôn là một thực hành thiêng liêng của Ấn giáo—thì vẫn tốt nếu ta chỉ có ý định tập thể dục. Nhưng lập luận này có đứng vững không?
Để tìm hiểu, ta hãy hỏi: có đúng là một hành vi—ví dụ, thực hiện một tư thế yoga—không có ý nghĩa nào vượt ngoài ý định của người thực hiện không? Thánh Tôma Aquinô lập luận rằng thật ra các hành vi có một ý nghĩa khách quan: “Điều tốt hay xấu mà hành vi bên ngoài tự nó mang… không bắt nguồn từ ý chí, mà từ lý trí” (ST I-II, q. 20, a. 1). Hành vi có bản chất riêng của nó: phẩm chất của hành vi bên ngoài được rút ra từ lý trí hơn là từ ý định của người thực hiện. Tương tự, Sách Giáo Lý dạy rằng để một hành vi là tốt, nó phải có đối tượng luân lý tốt, vốn là điều gắn liền với bản chất hành vi và độc lập với ý định. “Một ý định tốt… không làm cho một hành vi vốn sai lệch trong bản chất trở nên tốt hay chính đáng” (1753).
Vậy “hành vi” kéo giãn theo yoga có “sai lệch trong bản chất” không? “Đối tượng luân lý” của các tư thế này là gì? Bản thân các yogi chỉ ra điều đó, dù họ không nói quá thẳng thắn. Các tư thế nhằm đánh thức kundalini, năng lượng của linh hồn, gắn liền với các thần Ấn Độ giáo. Năng lượng đó khởi đầu ở đáy cột sống, được mô tả như “nữ thần rắn đang ngủ.” Yoga làm cho con rắn đi lên cột sống để chiếm hữu linh hồn, giúp người tập nhận ra “Chân Ngã,” tự đặt mình dưới ách các thần linh đó. Bikram Choudhury, người sáng lập một trong các loại hình yoga phổ biến nhất, nói rằng những gì xảy ra với chuỗi tư thế của ông là: “Bạn đánh thức kundalini. Bạn trở thành Chúa Giêsu Kitô. Hoặc Phật. Công thức yoga của tôi hiệu quả cho mọi người.”
Một trong những đạo sư chính đưa yoga sang phương Tây, B.K.S. Iyengar, viết rằng một tư thế yoga đích thực “là tư thế mà trong đó tư tưởng về [thần tối cao của Ấn Độ giáo] tuôn chảy một cách tự nhiên và liên tục vào tâm trí của người tập.” Judith Lasater nói rằng “bản chất nội tại của yoga là ta không thể tách các asana khỏi những khía cạnh khác của việc thực hành.” Alexandria Crow, một “chuyên gia” yoga nổi tiếng, nói: “Các tư thế thật ra chỉ là phương tiện để truyền dạy triết lý [của yoga].” Theo một cây bút của tạp chí Yoga Journal—nguồn yoga có lưu lượng truy cập lớn nhất ở Hoa Kỳ—lý do của điều này là một đổi mới của cha đẻ yoga hiện đại, Krishnamacharya, người “đã biến các tư thế thành một phần không thể tách rời của thiền định thay vì chỉ là một bước dẫn đến thiền.”
Điều đáng chú ý là ý định chủ quan có xu hướng tự điều chỉnh để phù hợp với đối tượng luân lý thông qua việc thực hành lặp đi lặp lại. Hai khảo sát khoa học cho thấy, mặc dù hầu hết mọi người bắt đầu tập yoga vì lợi ích sức khỏe, nhiều người ở lại với nó để đạt được sự thực chứng mang tính thiêng liêng này. Cha Joseph-Marie Verlinde, người từng đi sâu vào yoga trước khi trở lại đạo, đã nói với vị đạo sư của mình rằng người phương Tây chủ yếu tập yoga để thư giãn. Đạo sư “cười dữ dội” rồi nói: “Điều đó không ngăn được yoga tạo ra tác động của nó.”
Tóm lại, thật khó mà phủ nhận rằng hệ thống làm phát sinh yoga, bao gồm các tư thế, tôn vinh các thần Ấn Độ giáo và nhằm trói buộc người tập một cách thiêng liêng với các thần đó. Trong khi đó, Kinh Thánh nói rằng “mọi thần của chư dân chỉ là ngẫu tượng” (Tv 96,5—bản dịch cũ dùng từ “quỷ dữ” thay vì “ngẫu tượng”), và Giáo Hội có lập trường mạnh mẽ chống lại sự thờ ngẫu tượng (Xh 20,1-4; GLHTCG 2110). Khó có thể tưởng tượng người Công Giáo nào lại chạy đến phòng gym để thực hiện “tư thế cúi chào Ba’al,” vậy mà những “ngẫu tượng” hay “quỷ dữ” trong thực hành thiêng liêng của Ấn Giáo lại được bỏ qua dễ dàng.
Nhưng liệu chúng ta có thật sự mở cửa cho ma quỷ chỉ bằng cách đặt thân thể mình vào một số tư thế nào đó, như trong bài báo châm biếm của Babylon Bee nơi một thợ sửa ống nước vô tình bị quỷ ám? Norman Sjoman, một học giả từng thực hành và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Krishnamacharya, cha đẻ yoga hiện đại, đã kết luận rằng “điều làm cho một điều gì đó trở thành yoga không phải là làm gì, mà là làm như thế nào.” Và nhiều tư thế trong yoga bắt nguồn từ thể dục dụng cụ phương Tây và giống với các tư thế trong các bài tập thể hình thông thường. Tương tự như vậy, ăn một miếng bánh tròn bên ngoài bối cảnh Kitô giáo thì không có ý nghĩa thiêng liêng nào, nhưng rước Mình Thánh trong thánh lễ Công Giáo lại khơi dậy những hiệu quả thiêng liêng (hoặc án phạt thiêng liêng) vượt quá ý định chủ quan của người lãnh nhận. Vì vậy, việc thực hiện các tư thế này trong bối cảnh yoga, như một phần của việc thực hành yoga, bất kể ý định chủ quan, khiến chúng trở thành phương tiện để thúc đẩy linh đạo của yoga. Chúng trở thành một “bí tích,” theo nghĩa rộng—một dấu chỉ hữu hình của một hoạt động thiêng liêng sâu hơn.
Vì vậy, đúng theo nghĩa đen mà nói, các tư thế được thực hiện tách rời (không kèm theo các yếu tố tôn giáo hay thiền định) hầu như chắc chắn là ổn. Nhưng kinh nghiệm cá nhân của tôi trong thế giới yoga không khuyến khích tôi tham gia vào nó, cũng như gánh nặng thiêng liêng to lớn gắn liền với nó. Hầu như không thể tránh khỏi việc tham gia vào các yếu tố thiêng liêng của yoga, vốn gây vấn đề nếu chúng ta muốn tránh tôn vinh những vị thần sát nhân và mở lòng mình với các niềm tin thiêng liêng của yoga.
Có rất nhiều cách để rèn luyện thể chất mà không mang gánh nặng đó—đáng chú ý là Pietra Fitness—vừa mang lại lợi ích thể chất tương tự vừa đưa người tập vào tương quan yêu thương với Thiên Chúa dựa trên chân lý. Vậy tại sao lại chọn yoga, khi rủi ro quá cao và lợi ích lại tương đối thấp?
* For the gruesome details, see Christopher Wallis, Tantra Illuminated: The Philosophy, History, and Practice of a Timeless Tradition (Audible Audiobook Edition, 2016), ch. 100, 12:47:08; James Mallinson, The Khecarividya of Adinatha: A Critical Edition and Annotated Translation of an Early Text of Hathayoga, (New York: Routledge, 2008), p. 186, note 129; and David White, The Alchemical Body: Siddha Traditions in Medieval India (Chicago: University of Chicago Press, 2012), pp. 236-237. (“Goraksha kills and skins the boy, scrubs his skin like a washerman to remove all its bodily impurities and hangs his skin on the roof to dry, like the hide of some skinned beast.”)
Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.-- Mt. 3:1-12
Đừng né tránh hay làm ngơ trước “tin xấu”. Tất cả các ngôn sứ, và đỉnh điểm là Gioan Tẩy Giả, đều nói với chúng ta về tin xấu của tội lỗi. Chúng ta cần biết điều đó. Chúng ta cần biết chẩn đoán của vị bác sĩ về căn bệnh của mình, cũng như biết trước tiên lượng chữa lành của Ngài. Nếu không có tin xấu, thì tin mừng sẽ không còn là tin mừng...
Nhưng dĩ nhiên, cũng đừng làm ngơ trước Tin Mừng – Phúc Âm. Toàn bộ sứ mạng của Gioan là để chuẩn bị cho điều đó, giống như mục đích của tấm phim X-quang là chuẩn bị cho ca phẫu thuật chữa lành.
Cũng như các môn đệ Gioan, chúng ta cũng có một dòng sông Giođan để tắm gội: đó chính là bí tích Thánh Tẩy. Và khác với nước sông Giođan, nước của bí tích Rửa Tội thật sự thanh tẩy chúng ta; nó thật sự ban cho chúng ta ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nó không chỉ là biểu tượng, nhưng là một quyền năng do chính Thiên Chúa ban.
Khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, nước không làm thay đổi Người; chính Người làm thay đổi nước. Nước không rửa sạch tội cho Người, vì Người không có tội; nhưng Người đã ban cho mọi nguồn nước trên thế gian quyền năng trở nên khí cụ của Người để tẩy sạch tội nguyên tổ trong bí tích Rửa Tội. Khi Người được dìm trong nước, thì thật ra chính nước được dìm trong Người.
Chúng ta biết mình sẽ còn phạm tội; đó là lý do bí tích Hòa Giải không phải là điều chỉ lãnh nhận một lần như Rửa Tội. Chúng ta giống như những đứa trẻ nhỏ: vừa rửa sạch xong lại bị dơ. Vì thế chúng ta phải thường xuyên trở lại phòng tắm. “Phòng tắm” của chúng ta chính là tòa giải tội. Và giống như nước của Rửa Tội, bí tích này không chỉ là một biểu tượng, mà là một quyền năng thật sự. Bạn bước vào tòa giải tội trong tình trạng nhơ nhớp, và bước ra tinh sạch.
Cái mà Thánh Phaolô gọi là “con người cũ” bước vào, và “con người mới” bước ra. Ma quỷ căm ghét và sợ hãi nơi đó hơn bất cứ nơi nào khác trên thế gian, ngoại trừ bàn thờ — nơi Đức Kitô, ẩn mình dưới hình bánh nhỏ bé, ngự xuống trên bàn thờ, rồi một lát sau đi vào miệng bạn, linh hồn bạn, và đời sống của bạn.
Tôi hy vọng sớm gặp lại bạn ở hai nơi ấy — hai nơi thánh thiện nhất, hạnh phúc nhất và lành mạnh nhất trên trần gian. -- Dr. Peter Kreeft
Nếu năm câu đầu (Is 11,1–5) chủ yếu là về chủ đề “Đavít mới — vương quốc mới”, thì sang câu 6, hình ảnh chuyển sang bối cảnh Vườn Êđen:
Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. (Isaia 11:6
Đây là sự hồi phục của nền hòa bình nguyên thủy của Vườn Êđen, thể hiện qua việc ăn chỉ trái cây thời ban sơ dành cho cả người và thú vật (St 1,30). “Một cậu bé” trong câu 7 ban đầu có lẽ chỉ là một phần của biểu tượng hòa bình, nhưng về mặt thiêng liêng có thể được hiểu như hình ảnh Hài Nhi Giêsu, Đấng đã “hiện diện” giữa các loài vật trong hang đá khi Ngài giáng sinh, biến nơi bé nhỏ ấy của Bêlem thành một Êđen mới trong đêm Nhập Thể.
... Sấm ngôn trở nên phức tạp, nhưng kết thúc ở câu cuối với hình ảnh rõ ràng của một cuộc Xuất Hành mới:
Đức Chúa sẽ khiến khô cạn vịnh biển Ai Cập, vung tay trên sông Cả (Euphrates) bằng cơn gió mạnh, dữ dội; Người sẽ chia sông ấy thành bảy nhánh, để có thể lội qua chỉ với đôi dép.(c. 15)
Như xưa Thiên Chúa đã cho Môsê dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập bằng cách vượt qua Biển Đỏ, thì nay Thiên Chúa sẽ làm trỗi dậy “chồi từ gốc Giêsê” — chính là vị Vua Đavít mới được hứa ban ở phần mở đầu (cc. 1–5) — và Ngài sẽ dẫn những người sống sót của Israel vượt qua sông Euphrates, con sông ngăn cách Israel và các dân lân bang với Assyria, đế quốc gian ác đã lưu đày các chi tộc miền Bắc đến những vùng xa xôi.
Đức Giêsu là Đavít mới của chúng ta, là Vua mới của chúng ta, Đấng cai quản Hội Thánh và mọi dân nước — như chúng ta đã cử hành gần đây trong lễ Chúa Kitô Vua. Ngài trị vì trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần, khiến chúng ta vâng phục Ngài vì tình yêu, tự do và nồng nhiệt hơn bất kỳ vị vua trần thế nào từng được tuân phục.
Đức Giêsu là Ađam mới, Đấng đưa chúng ta trở lại Êđen bằng cách ban cho chúng ta được lãnh nhận trái của Cây Sự Sống trong Thánh Thể và những dòng Nước Sự Sống trong Bí Tích Thánh Tẩy, để chúng ta được ăn, được uống và được sống đời đời.
Đức Giêsu là Môsê mới, Đấng dẫn chúng ta thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và Satan. Ngài dẫn chúng ta vượt qua dòng sông của Bí Tích Rửa Tội bước vào tự do của những người con Thiên Chúa, và thiết lập cho chúng ta một ngôi nhà trên Núi Sion mới — tức là Hội Thánh, Nhiệm Thể và Đền Thờ Mầu Nhiệm của Ngài.
Suy niệm cho bài đọc Tin Mừng: Mt. 3:1-12
Khi ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng : “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới : Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
Ngay cả trong thời của mình, Gioan đã được mọi người nhìn nhận như một ngôn sứ vĩ đại, được dân chúng kính trọng và cả giới lãnh đạo cũng phải e dè. Thế nhưng, Đấng đến sau ông lại cao trọng đến nỗi chính Gioan—một ngôn sứ sánh ngang với Êlia vĩ đại—cũng “không xứng đáng xách dép cho Người”, việc làm của một nô lệ. Ai có thể cao trọng hơn vị ngôn sứ vĩ đại nhất, nếu không phải là Đấng mà vị ngôn sứ ấy loan báo, tức chính Thiên Chúa?
Đấng Đang Đến sẽ thanh tẩy “bằng Thánh Thần và lửa”. Đây rất có thể là một biện pháp văn chương gọi là hendiadys — “một ý qua hai từ” — tức một ý nghĩa được diễn tả bằng hai từ ghép lại. Vì thế ta có thể dịch: “Người sẽ thanh tẩy bằng ngọn lửa của Chúa Thánh Thần” hoặc “ngọn lửa chính là Chúa Thánh Thần”. Nhưng Gioan rõ ràng liên kết “lửa” với phán xét cánh chung: “rơm rạ Người sẽ đốt trong lửa không hề tắt”.
Điều này thật thú vị, vì nó cho thấy các bí tích là những “nếm trước” của cuộc phán xét sau cùng. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta khôn ngoan khi được phán xét ngay bây giờ qua các bí tích để khỏi phải chịu phán xét sau này. Trong bí tích Rửa Tội, con người tội lỗi của chúng ta bị phán xét và bị “chết chìm”, để chúng ta không phải chịu cái chết đời đời mai sau.
Tương tự, trong bí tích Thêm Sức, con người tội lỗi của chúng ta được đốt cháy bởi Chúa Thánh Thần để chúng ta không phải trải qua ngọn lửa hỏa ngục sau này. Như thế, Đức Giêsu thật sự “thanh tẩy chúng ta bằng lửa” theo nghĩa cánh chung khi chúng ta gặp gỡ Người trong các bí tích. Các bí tích là nếm trước cuộc phán xét sau cùng.
Đây cũng là lý do Hội Thánh đôi khi áp dụng vạ tuyệt thông: bởi vì lãnh nhận Thánh Thể là một kinh nghiệm có tính “nếm trước” đầy nguy hiểm của cuộc phán xét chung.
Đó chính là hàm ý trong lời cảnh báo của Thánh Phaolô trong 1 Cr 11,27–32:
Vì thế, bất cứ ai ăn bánh hay uống chén của Chúa cách bất xứng thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Vì vậy, mỗi người phải tự xét mình, rồi hãy ăn bánh và uống chén ấy. Ai ăn uống mà không phân biệt được thân mình Chúa, thì là ăn uống án phạt cho chính mình. Vì lẽ đó mà nhiều người trong anh em yếu đuối, bệnh tật, và không ít người đã chết. Nhưng nếu chúng ta xét mình đúng đắn, thì chúng ta sẽ không bị xét xử. Còn khi chúng ta bị Chúa xét xử, ấy là để được sửa dạy, hầu khỏi bị kết án cùng với thế gian.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung Đức Giêsu qua cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, và Gioan thấy Chúa chúng ta như Đấng Phán Xét cánh chung, Đấng thanh tẩy bằng “lửa” của thời sau hết. Điều này đem lại cho chúng ta một cái nhìn rất nghiêm túc về các bí tích và thúc đẩy chúng ta thực hiện một cuộc xét mình chân thành, siêng năng lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải, kẻo chúng ta tham dự một cách bất xứng vào bất cứ bí tích nào khác, nhất là Thánh Thể. ---- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year A
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 24:37-44)
Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Anh em hãy biết điều này : nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
Từ Dr. John Bergsma
Các chủ đề của Tin Mừng hôm nay rất giống với chủ đề của Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai. Chúng ta nhờ đó thấy được lòng trung thành của Thánh Phaolô đối với Tin Mừng đã được rao giảng (không biến đổi nó).
Chúa Giêsu dùng trận lụt thời Nô-ê như một biểu tượng của ngày cánh chung. “Thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,” tất cả những hình ảnh của dục lạc. Khi ngày tận thế đến, hầu hết thế giới sẽ bị phân tâm bởi việc tìm kiếm lạc thú trong cuộc đời này.
Những lời tuyên bố này của Chúa về “một người được đem đi, một người bị bỏ lại” và sự xuất hiện của “kẻ trộm khi đêm đến” đã làm nảy sinh “tín điều” của thời hiện đại về “rapture / việc được đem đi,” một khái niệm về sự tái lâm của Đức Kitô, khi mà những người tin vào Chúa đột nhiên được “đưa lên” khỏi trái đất và những người không tin sẽ bị bỏ lại đàng sau và sẽ phải trải qua một đại nạn trước khi tận thế. Đây không là một tín điều trong truyền thống của Kitô giáo. “Rapture / việc được đem đi” được đưa ra bởi John Nelson Darby, một mục sư Plymouth Brethren vào những năm 1800. Carl Olson đã xuất bản “Will Catholics Be Left Behind: A Critique of the Rapture and Today's Prophecy Preachers / Liệu người Công giáo sẽ bị bỏ lại đằng sau”, phê bình rất chính xác về thuyết lý này.
Bài đọc I và Thánh Vịnh trình bày đời sống Kitô hữu như một cuộc “hành hương” đến Sion. Bài đọc hai và Tin Mừng trình bày đời sống Kitô hữu là một cuộc sống đòi hỏi có sự “tỉnh thức” và từ bỏ những đam mê nhục dục ở đời này. Hai hình ảnh có thể được kết hợp làm một cách sống. Trong một cuộc hành hương, người ta không bị lôi cuốn theo việc tìm kiếm lạc thú. Ban ngày bạn phải đi bộ nhiều giờ trên camino / đường và ngủ ở nơi bạn có thể—đôi khi ở những nơi khắc khổ—vào ban đêm. Và nếu bạn tạo nên thói quen dừng chân và “hưởng vui chơi”, bạn sẽ không thể nào đạt đến đích. Các bài đọc trong Thánh lễ này kêu gọi chúng ta lần nữa dấn thân sống cuộc đời hiện tại như một cuộc hành hương về núi Sion trên trời.
_____________
Từ Dr. Brant Pitre
Vậy Chúa Giêsu đang nói về điều gì? Đoạn Phúc âm này nói về điều gì? Điều đầu tiên tôi muốn nói ở đây, và điều này rất quan trọng, là nhấn mạnh rằng mặc dù một số Kitô hữu (Tin Lành) cho rằng Chúa Giêsu đang nói về việc những kẻ tin Chúa chân thành được bí mật “rapture / đem đi khỏi” trái đất. Nếu họ thực sự tin vào Chúa Giêsu, họ sẽ biến mất một cách bí ẩn và những người khác sẽ bị “bỏ lại đằng sau”. Nhưng đó không phải là điều mà Chúa Giê-su đang nói đến. Điều mà Chúa Giêsu đề cập đến trong đoạn Phúc âm này là về việc Chúa đến thứ hai trong ngày tận thế. Chúa Giêsu đang nói về phán xét cuối cùng, không phải việc được bí mật đem đi của những người thực sự tin vào Chúa.
Để tôi đưa ra cho bạn một vài lý do tại sao Ngài đang nói về cuộc phán xét cuối cùng, bạn có thể thấy điều đó bằng cách xem xét bối cảnh.
1. Mặc dù sách bài đọc Phúc âm không có câu này, nhưng câu ngay trước dòng đầu tiên “Thời ông Nô-e thế nào,” là câu nổi tiếng mà Chúa Giê-su nói “về ngày và giờ đó thì không ai biết được.” Và câu đó đề cập đến thời điểm trời và đất sẽ qua đi, không ai biết khi nào điều đó sẽ xảy ra, ngay cả các thiên sứ trên trời, chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi. Vì vậy, sự liên quan đến ngày giờ đó là ngày cánh chung, ngày phán xét cuối cùng. Đó là điểm đầu tiên, bối cảnh nói về sự phán xét cuối cùng.
2. Việc Chúa Giê-su ám chỉ thời Nô-ê cho bạn thấy rằng đây là sự phán xét của vũ trụ, sự phán xét của toàn thế giới. Bởi vì vào thời Nô-ê, nếu bạn quay trở lại sách Sáng thế chương 6-9 đọc, những gì Sáng thế mô tả là một trận lụt toàn cầu, nơi tất cả những kẻ ác trên toàn thế giới đều bị diệt vong trước sự phán xét của Chúa, và chỉ một số ít người, tám người, được cứu thoát khỏi sự phán xét của Chúa. Vì vậy, Chúa Giêsu đang đưa ra một sự so sánh. Cũng như trong thời Nô-ê, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, và không chuẩn bị cho cuộc đại hồng thủy, cuộc phán xét toàn cầu, thì khi Con Người quang lâm, nhiều người sẽ vẫn mải mê với những thứ của thế gian này, và họ sẽ không có sự sẵn sàng cho cuộc phán xét cuối cùng. Họ sẽ không sẵn sàng cho parousia, từ Hy Lạp về việc Con Người đến, khi Người sẽ phán xét trần gian. Giống như Chúa phán xét cả thế giới vào thời điểm lũ lụt.
3. Điều này thực sự quan trọng. Nếu bạn để ý, bạn có thể thấy rằng khi Chúa Giê-su nói một người được đem đi và một người bị bỏ lại, cho dù một người đàn ông được đem đi và một người đàn ông bị bỏ lại, hay một người đàn bà được đem đi và một người đàn bà bị bỏ lại (một lần nữa nếu bạn nghĩ về hình ảnh của lũ lụt làm nền cho những gì Ngài đang nói), điều gì đã xảy ra ở đây? Gia đình của Nô-ê đã được đem đí. Nói cách khác, họ đã được cứu khỏi sự phán xét của trận lụt, và những người bị bỏ lại; họ không bị bỏ lại để sống trên thế gian và có thời gian để ăn năn hay điều gì đó tương tự, họ bị lọt ra khỏi ơn cứu rỗi và trận lụt cuốn trôi đi, họ bị diệt vong trong sự phán xét của Chúa. Điều chủ yếu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây là sự phân chia giữa người công chính và kẻ ác sẽ diễn ra vào ngày phán xét cuối cùng.
Nếu bạn muốn một so sánh tương tự với điều này, bạn có thể xem chương tiếp theo trong sách Mát-thêu, dụ ngôn về chiên và dê trong Phúc âm Mát-thêu chương 25, nơi Chúa Giê-xu phân rẽ người công chính khỏi kẻ gian ác. Ngài phân biệt chiên với dê, và người công chính đi vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa Cha, trong khi những con dê đi vào lửa hủy diệt vĩnh cửu đã chuẩn bị sẵn cho ma quỷ và các thiên sứ của hắn. Vì vậy, đây là sự phân tách của ngày phán xét cuối cùng, nó không phải là về việc người tín hữu trung tín được đem đi cách bí ẩn. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn này, Chúa nói ngày Con Người quang lâm cũng vậy. Đây là ngày Chúa đến lần thứ hai chứ không là sự những người tín hữu chân thực được đem đi lên thiên đàng trong bí mật. Từ “rapture / được đem đi” đó không bao giờ được dùng đến.
4. Tất cả điều này rất rõ ràng nếu bạn nhìn vào phần kết của bài Phúc âm hôm nay, bởi vì đâu là điểm nhấn mạnh chính? Nó là bản chất bất ngờ của sự phán xét. Nói cách khác, bạn không biết chính xác khi nào Con Người sẽ đến vào ngày tận thế. Ngài sử dụng một vài hình ảnh khác nhau cho việc này. Ngài nói, hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến. Vì vậy Ngài nói hãy tỉnh thức, như thức canh chờ Con Người đến. Nhưng Ngài cũng dùng dụ ngôn kẻ trộm trong đêm. Vì vậy Ngài nói nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Và câu cuối cùng liên kết nó với câu trước đó trong Mát-thêu 24:35-6, Trời đất sẽ qua đi vào ngày giờ không ai biết cả.
Vì vậy, toàn bộ bối cảnh của đoạn văn này không là về việc được đem đi lên trời trong bí mật mà là về cuộc phán xét cuối cùng. Đó là về cuộc chờ đợi [Chúa đến] lần thứ hai. Đó là về parousia / sự xuất hiện của Chúa Kitô vào ngày tận thế. Đây là một phân tích ngắn thôi. Nếu bạn muốn biết thêm, tôi đã có một lớp học Kinh Thánh và về rapture / được đem đi với tiêu đề “Jesus and the End Times: A Catholic View of the Lats Days”. Trong đó, tôi đi qua những vấn đề khác của quan điểm “được đem đi.” Tôi chỉ muốn loại ý đó ra ở đây để bạn thấy rằng Giáo hội bắt đầu năm phụng vụ với Tin Mừng Mát-thêu, bắt đầu Chúa nhật đầu tiên của Mùa Vọng, không phải với một đoạn nói về việc được đem đi, về rapture. Giáo hội bắt đầu Chúa nhật thứ I của Mùa Vọng, với một đoạn Phúc âm nói về chờ đợi cuối cùng, về sự tái lâm của Chúa Kitô vào ngày tận thế, điều này cho chúng ta chút manh mối về những gì sắp diễn ra trong Mùa Vọng. Nó nói về việc chúng ta chuẩn bị, không chỉ mừng Lễ Giáng Sinh, khi Chúa đến lần đầu tiên, mà còn là chuẩn bị cho chúng ta cho Chúa đến lần cuối cùng, sự giáng lâm cuối cùng của Chúa Kitô vào ngày tận thế.
Một hôm có bạn nêu ra vấn đề "Catholic guilt" / cảm giác tội lỗi của người Công giáo làm mình nhớ đến một câu chuyện của bản thân giúp mình hiểu Catholic guilt.
Câu chuyện là Ad có lần bị ho rất nặng, ho liên lỉ. Cuối cùng thử đi khám dị ứng. Bác sĩ tìm không ra dị ứng nào; bác sĩ đoán nguyên do và bảo vì mình ăn quá nhiều nhưng lại nói thầm với y tá giúp việc và mình nghe được.
Mình không mắc chứng ăn quá nhiều (thực sự khi còn bé nhớ ông thuốc ta nói biếng ăn biếng ngủ) nhưng có lẽ vì thức ăn người Việt không đủ cho mình khi bước vào những năm tuổi teen và bị chứng trào ngược bao tử từ khi còn rất trẻ.
Mỗi khi nhớ lại câu chuyện mình cảm thấy xấu hổ (giống như Catholic guilt) vì bác sĩ nghĩ vậy về mình. Nhưng giả sử bác sĩ ấy là mẹ của mình, mẹ sẽ nói: "Tội nghiệp con tôi, lớn lên ăn không đủ chất nên sinh ra chứng này", mình sẽ không xấu hổ mà cảm thấy được hiểu, được tôn trọng.
Cảm giác tội lỗi của Catholic guilt là biết tội mà chưa biết đủ về tình yêu của Chúa, mạnh mẽ như người cha và ân cần, dịu dàng như người mẹ.
Khi người Công giáo đi xưng tội và ý thức được tình yêu và lòng thương xót của Chúa, người ấy sẽ cảm thấy chút xấu hổ, nhưng cũng tràn ngập lòng biết ơn vì Chúa hiểu biết sự yếu đuối của ta và không chê ta bao giờ. Vì Chúa có thể biến ta thành người đạo đức tốt lành trong tích tắc với quyền năng của Ngài. Nhưng cách nào đó, Chúa biết rằng chúng ta cần nhân đức khiêm nhường hơn tất cả; nhân đức khiêm nhường giữ chúng ta trong một mối tương quan đúng đắn giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Đức tin giúp chúng ta biết Chúa đã yêu thương tôi đến nỗi đã hiến mạng để tôi được tinh tuyền, trong sạch, biết mình quý giá thế nào đối với Thiên Chúa.
Thiết nghĩ điều này cũng quan trọng: ta phải biết có một sự khác biệt thường bị nhẫm lẫn giữa "Catholic guilt" -- cảm giác tội lỗi của một người bình thường và scrupulosity - được dùng để chỉ một dạng rối loạn lo âu liên quan đến sự tội lỗi thái quá. Cảm giác tội lỗi không luôn là điều tệ vì nó có thể giúp chúng ta ý thức về lỗi lầm nào đó ta đã làm chứ không bỏ qua để tìm cách thay đổi bản thân. Nhưng dù là Catholic guilt hay rối loạn lo âu về tội thái quá, biết đến tình yêu và lòng thương xót của Chúa là nền tảng cần thiết để có thể tiến bước.