Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2025

Chúng ta cần hoán cải sự hiểu biết và cảm xúc của trái tim về cụm từ: hình phạt của Chú

Đoạn Tin Mừng từ Luca (1,5-25) là câu chuyện truyền tin của Da-ca-ri-a. Hầu hết chúng ta khi nghe lời thiên thần nói với ông: "Này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi", đều nghĩ là ông bị Chúa phạt.

Hôm nay nghe được một đoạn chú giải được dịch từ "2025 Gospel Power" rất hay: Ông Dacaria được mô tả là “người công chính trước mặt Thiên Chúa”. Tuy nhiên, ngay cả người công chính cũng có thể sa ngã. Tuổi già và những năm tháng dài cầu xin một đứa con mà không được nhậm lời đã khiến ông Dacaria trở nên cay đắng, và nay là thiếu lòng tin trước mạc khải từ trời.
Sự thinh lặng bị áp đặt, dù bề ngoài có vẻ như một hình phạt, thực ra lại là một thời gian ân sủng... Nếu Thiên Chúa đã mở dạ những người mẹ son sẻ của Israel — như Sara, Rêbêca, Rakhen, Anna và mẹ của Samson — thì tại sao Thiên Chúa lại không làm điều tương tự cho bà Êlisabét? Dấu chỉ ấy, chính là sự thinh lặng, trở thành một trường học của đức tin.

Thư thứ nhất của thánh Gioan cũng nói: "Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào" (1 Gioan 1:5).

Chúng ta thường dán lên Thiên Chúa những trải nghiệm trong cuộc sống của chúng ta. Trên trái đất này, hình phạt thường đi kèm với sự tức giận, thậm chí tệ hơn, là trút giận cho hả dạ.

Thiên Chúa ‘phạt’ chúng ta không phải để hủy diệt, nhưng để sửa chữa, thanh luyện và chữa lành — bởi vì Ngài YÊU TA. Một người nghiện sẽ cảm thấy việc cai nghiện như một ‘hình phạt’ kinh khủng; cũng vậy, một người phải trải qua phẫu thuật để cắt bỏ khối u ung thư chắc chắn không hề cảm thấy dễ chịu.

Đây là một sự hoán cải trong tâm trí và trái tim mà chúng ta phải chú tâm để ý đến.

Có lẽ hình ảnh người huấn luyện viện giúp chúng ta nghĩ về "hình phạt" của Chúa cách đúng đắn hơn.Là một vận động viên đang trên đường thắng giải Olympia là thiên đàng, chúng ta sẽ rất vinh dự khi người huấn luyện viên không bao giờ chê bỏ ta mà còn đưa ra những chương trình huấn luyện đòi hỏi sự cố gắng luyện tập hơn nữa. Thật là Chúa muốn huấn luyện ta thành tay võ nghệ cao cường (x. Tv 144,1)

Tội lỗi đưa chúng ta vào con đường đau khổ và Chúa phải đi vào nơi tối tăm để đưa chúng ta ra.

Còn Đức Maria vô nhiễm nguyên tội đã phải chịu bao nhiêu đau khổ để thông phần những đau khổ của Đấng mang tên là “Ơn Cứu Độ” (x. Rm 8,17).

Nhờ Chúa Giêsu, chúng ta có thể biến đổi hết mọi đau khổ, ngay cả đau khổ vì tội thành những cơ hội để thông phần vào những đau khổ của Đấng Cứu Chuộc, Đức Giêsu Kitô.

Share:

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, năm A

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít. (Mt 1,18-24)

Cứu khỏi tội lỗi” không giống với “cứu khỏi những hậu quả của tội”. Đức Giêsu không chỉ đến để cứu chúng ta khỏi hỏa ngục, mà còn để cứu chúng ta khỏi việc phạm tội. Người đến để ban cho chúng ta khả năng sống đời thánh thiện. Sống trong tội lỗi là một đời sống cùng cực, khốn khổ; thực ra, đó là một thứ hỏa ngục ngay trên mặt đất. Tội lỗi có tính gây nghiện, và chúng ta cần một Quyền Năng Cao Hơn—thực sự là một Ngôi Vị Cao Hơn—để được giải thoát.

Cũng như Giuse trong Cựu Ước, con của Gia-cóp, là một người hay mơ và qua những giấc mơ ấy Thiên Chúa đã nói với ông, thì Thiên Chúa cũng thông truyền với Giuse trong Tân Ước, con của Gia-cóp (Mt 1,16), qua những giấc mơ.

Nhưng thiên thần không gọi ông là “con Gia-cóp” mà là “con Đavít”, nhấn mạnh mối liên hệ của thánh Giuse với những lời hứa và giao ước gắn liền với nhà Đavít, bao gồm cả lời hứa của ngôn sứ Isaia về Đấng “Emmanuel” sẽ được sinh ra bởi một “trinh nữ” thuộc dòng tộc này. Thực vậy, chính Giuse là người thừa kế ngai vàng Đavít. Nếu triều đại Đavít còn nắm quyền trong thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thì Giuse đã trị vì tại Giêrusalem. Nhưng thực tế, ông lại làm lao động chân tay ở Nadarét, một thôn xóm nhỏ bé nơi vùng đồi hẻo lánh của Ítraen.

Tại sao một hậu duệ hoàng tộc lại sống ở một nơi xa xôi như vậy? Có lẽ dòng họ Đavít đã định cư ở Nadarét để tránh xa những nơi chính trị bất ổn như Giêrusalem. Mang dòng máu hoàng gia là một gánh nặng chính trị, trừ khi bạn thực sự nắm quyền trên ngai vàng. Lúc ấy, Hêrôđê Cả đang nắm quyền, nhưng ông là kẻ tiếm vị, không có dòng máu hoàng gia, là người nửa Do Thái, với cha là người Êđôm (Idumê). Khi các đạo sĩ đến Giêrusalem tìm người thừa kế nhà Đavít, kết cục là Hêrôđê ra lệnh giết các trẻ trai ở Bêlem. Chính để tránh những biến cố như thế mà dòng họ Đavít ẩn mình nơi vùng đồi Nadarét.

Mặc dù thánh Mát-thêu chỉ nêu gia phả của thánh Giuse (Mt 1,2–16), chúng ta có thể tin chắc về mặt luân lý rằng Đức Maria cũng thuộc dòng dõi Đavít. Đó là truyền thống của Hội Thánh qua suốt các thế kỷ; hơn nữa, điều này hoàn toàn hợp lý, vì vào thời ấy các làng mạc thường được hình thành theo dòng họ, nên hầu hết dân làng đều là thành viên của cùng một đại gia đình xuất phát từ một tổ tiên danh giá. Có lẽ hầu như mọi người dân Nadarét đều mang dòng máu Đavít. Xác tín cá nhân của tôi là Luca chương 3 trình bày dòng huyết thống sinh học của Đức Giêsu qua Đức Maria (thực ra là qua người cha của Mẹ Maria, Hêli, dạng rút gọn của Êliakim [tức Giôgia-kim, x. 2 V 23,34]).

Qua Đức Maria sẽ đến Đấng “làm trọn” lời ngôn sứ vốn được hướng về vua Khít-ki-gia. Khít-ki-gia đã làm thất vọng, nhưng Đức Giêsu sẽ là “Emmanuel” theo một nghĩa sâu xa hơn rất nhiều: không chỉ là dấu chỉ Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mà chính là Thiên Chúa hiện diện trong xác phàm. Mẹ của Khít-ki-gia là Abia chỉ là một “thiếu nữ” trước khi đến với A-khát, còn Mẹ của Đức Giêsu, Đức Maria (tiếng Híp-ri là Miriam), là trinh nữ trước, trong và sau khi sinh con. Đức Giêsu hoàn toàn ứng nghiệm lời ngôn sứ xưa dành cho nhà Đavít.

Khi lùi lại và suy niệm các bài đọc này, chúng ta thấy một chủ đề chung: sự xâm nhập của Thiên Chúa vào đời sống con người. Thiên Chúa đề nghị can thiệp vào đời vua A-khát, nhưng phản ứng của nhà vua là “xin cảm ơn, nhưng không cần”. Thiên Chúa tiến vào Giêrusalem trong nghi thức phụng vụ, và dân chúng chào đón Người bằng những lời tung hô trong Thánh vịnh 24.

Trong Tin Mừng, Thiên Chúa “xâm nhập” vào đời sống của Đức Maria và thánh Giuse bằng sự hiện diện của Người. Có lẽ ước mơ của họ chỉ là sống một cuộc đời lặng lẽ, bình an, cố gắng nuôi dưỡng gia đình tại Nadarét trong khi chờ đợi lời hứa Thiên Chúa dành cho tổ tiên họ được các ngôn sứ loan báo. Họ đâu biết rằng Thiên Chúa sẽ dùng chính cuộc đời họ để hoàn tất tất cả những lời hứa ấy.

Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời họ cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt nhịp sống quen thuộc và sự thoải mái của đời thường.

Giuse bối rối khi thấy vị hôn thê của mình mang thai và lo sợ không dám cưới nàng, hoặc vì nghi ngờ có điều sai trái nơi Maria (cách hiểu hiện đại), hoặc vì ngần ngại kết hôn với một người phụ nữ thánh thiện đến mức được dành riêng cho việc thụ thai thần linh (cách hiểu truyền thống cổ điển).

Ước mơ của Đức Maria và thánh Giuse về một cuộc sống bình thường của một đôi vợ chồng trung lưu, sống “giấc mơ Ítraen”, đã tan vỡ. Cuộc đời họ sẽ không còn bình thường và điển hình nữa. Thiên thần hướng dẫn Giuse bước tiếp theo: hoàn tất hôn lễ với Maria. Chúng ta biết rằng những tháng sắp tới sẽ đầy căng thẳng—một chuyến đi dài đến Bêlem khi Maria đã mang thai gần ngày sinh, rồi một cuộc trốn chạy trong đêm từ Bêlem sang Ai Cập để tránh bách hại.

Cuộc đời của Mẹ Maria và thánh Giuse không còn bình thường và êm ả nữa, bởi vì khi Thiên Chúa “xâm nhập” vào đời chúng ta, Người đưa chúng ta vào kế hoạch cứu độ của Người cho toàn thế giới, và chúng ta phải cùng dự phần vào những đau khổ của Đấng mang tên là “Ơn Cứu Độ” (x. Rm 8,17).

Trong Thánh lễ, chúng ta chuẩn bị đón nhận “cuộc xâm nhập thần linh” của Thánh Thể, khi Thiên Chúa một lần nữa đi vào đời sống và thân xác chúng ta—“Mình và Máu, Linh Hồn và Thần Tính”. Chúng ta đã sẵn sàng cho điều đó chưa? Chúng ta có sẵn sàng để cuộc đời mình rẽ sang một hướng khác, thậm chí là một hướng không thoải mái, bởi vì giờ đây Thiên Chúa đang sống trong chúng ta hay không?

Share:

Lễ Thánh Gia -- năm A

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ : Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng : Người sẽ được gọi là người Na-da-rét. -- Mt 2,13-15.19-23

Tin Mừng này là một trong vài đoạn tập trung vào thánh Giuse như nhân vật chính. Chúng ta hãy cùng nhắc lại vài điều về vị thánh vĩ đại nhưng thường bị lãng quên này. Thánh Giuse thuộc dòng họ vương giả. Thật vậy, chính ngài là người thừa kế hợp pháp ngai vàng của thành Giêrusalem: đó chính là ý nghĩa của gia phả Chúa Giêsu trong Mát-thêu chương 1. Tuy nhiên, dù là người thừa kế chính đáng, thánh Giuse lại phải lánh nạn trước kẻ mạo danh đang ngồi trên ngai: Hêrôđê, một kẻ thuộc tầng lớp quý tộc và chính trị gia, nửa Do Thái nửa Êđôm, kẻ đã dùng tiền bạc, mưu mô và hôn nhân để chiếm lấy ngai vàng Ít-ra-en. Hêrôđê là một trong những hình mẫu phản Kitô xuất hiện sớm trong Kinh Thánh.

Dù thuộc dòng vương tộc của chi tộc Giuđa, thánh Giuse lại mang tên của vị tổ phụ thuộc một chi tộc khác, chi tộc từng cạnh tranh với Giuđa về quyền lãnh đạo mười hai chi tộc Ítraen (x. St 49,10.26). Cũng như Giuse “áo nhiều màu” nổi tiếng (áo Gia-cóp may cho ông vì thương ông cách đặc biệt), thánh cả Giuse đặc biệt nhạy cảm với những gì Chúa muốn nói với ngài và đã tiếp nhận những giấc mơ mạc khải liên quan đến việc đưa Con Chúa sang Ai Cập và gìn giữ dân Chúa khỏi tai họa.

Trong giai đoạn này của lịch sử cứu độ, sự an toàn của Thánh Gia, và vì thế niềm hy vọng cứu độ của toàn thể nhân loại, được đặt trong tay thánh Giuse. Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm, Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa, nhưng -- như trong nhiều bộ phim hành động - hay vào thời khắc quyết định, câu chuyện lại được giao phó cho nhân vật không có “siêu năng lực”! Chính vì thế, thánh Giuse trở thành hình mẫu của người tín hữu: Đức Giêsu phó thác chính mình cho chúng ta; Người ngự trong chúng ta nhờ  Chúa Thánh Thần và Thánh Thể.

Ở một mức độ nào đó, nhờ sự hiệp thông các thánh trong Chúa Thánh Thần, Mẹ Maria cũng ở cùng chúng ta (x. Ga 19,27). Nhưng chúng ta trân quý Chúa và Mẹ Người -  những Đấng đã được trao phó cho chúng ta - đến mức nào? Chúng ta có để cho sự sống của các Ngài trổ sinh nơi mình, để có thể thưa rằng: “Không còn phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20)?

Kinh Thánh làm nổi bật điều gì nơi thánh Giuse? Những đức tính nào đã giúp ngài chu toàn sứ mạng Thiên Chúa trao phó? Trong đoạn Phúc âm này, chúng ta nhận ra hai phẩm chất: (1) ngài sẵn sàng lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và (2) ngài mau mắn vâng phục.

Cách thực tế, để mở lòng lắng nghe tiếng Thiên Chúa trong đời sống mình, thường cần đến những thói quen sau đây: (1) dành thời gian xứng đáng cho cầu nguyện, kể cả thinh lặng trong cầu nguyện để con tim được Thiên Chúa chạm đến; (2) đọc và suy niệm Kinh Thánh, qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta; (3) tìm kiếm sự hướng dẫn của một linh mục giải tội hay linh hướng thánh thiện; (4) thực hành việc sám hối và hy sinh (dù là những hy sinh nhỏ), nhờ đó ta tập dứt bỏ những của cải và khoái lạc vật chất vốn thường làm tê liệt các giác quan thiêng liêng của mình.

Tuy nhiên, lắng nghe tiếng Thiên Chúa phải dẫn đến hành động. Một số tác giả thiêng liêng nói rằng Thiên Chúa ngừng ban những thúc đẩy nội tâm khi chúng ta thường xuyên từ chối thực thi chúng.

Thánh Giuse nêu gương cho các người cha Kitô hữu nói riêng và mọi tín hữu nói chung về cách lắng nghe và vâng theo tiếng Thiên Chúa. Thánh Giuse, xin cầu cho chúng con! -- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year A

Share:

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2025

Thầy có phải là Đấng phải đến không?: Niềm hy vọng của Gioan và của chúng ta - CN III Mùa Vọng năm A

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 11:2-11)

Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?” 4 Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

“Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”

------

“Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

“Câu hỏi này có vẻ kỳ quặc vì Gioan đã nhận ra Chúa Giêsu khi Chúa lãnh nhận phép rửa ở sông Giođan, và theo các lời tường thuật khác của Phúc âm, Gioan đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến sau ông và ông không đáng cởi dây giày của Ngài (Luca 3:16). Vậy tại sao Gioan lại sai người đi hỏi “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Dường như việc Gioan bị cầm tù là môt thử thách đức tin cho ông. Đúng là Gioan đã gặp gỡ Chúa Giêsu trong những thời điểm hạnh phúc hơn, như khi Gioan rao giảng ở sông Giođan và đám đông kéo đến với ông. Lúc đó, nước Chúa dường như là sắp xuất hiện. Nhưng mọi thứ đã không diễn ra theo cách đó. Tại sao vì chỉ nói sự thật (với Hêrôđê) mà Gioan bị bỏ tù? Và nếu Chúa Giêsu là người đã được xức dầu để “đem tin mừng cho kẻ nghèo hèn … công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân,” (Isaia 61:1), thì ngài có thể sử dụng một số quyền năng giải phóng đó để Gioan được phóng thích?

Ngay cả những vị thánh vĩ đại cũng có thể trải qua đêm tối và trải qua những thử thách về đức tin. Vì thế, việc bị thử thách không là không tương thích với sự thánh thiện. Khi Gioan phải chịu đau đớn về thể lý và đêm đem của tâm linh trong ngục tối tăm của Hê-rô-đê, ông tìm đến Chúa Giêsu để được an ủi: “Thầy có phải là Đấng phải đến không? Thầy không biết tôi bị nhốt trong ngục vì đã làm chứng cho hôn nhân sao?

Chúa Giêsu đáp lại họ rằng: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Chúa Giêsu nhắn lại lời an ủi cho Gioan: “Hãy đi nói với Gioan rằng các dấu hiệu của thời đại của Đấng Mêsia như đã được đề cập đến trong Isaia 35 và 61 đã được ứng nghiệm cách rõ ràng trước mắt các anh. Và thật hạnh phúc thay cho những ai không bị vấp ngã. Vì cách Ta đem nước Thiên Chúa đến trần gian thì khác với những gì họ mong chờ”.

Như chúng ta đã thấy, những lời tiên tri của Isaia về người mù, què, điếc, v.v., thực sự nói về những thực tại thuộc linh. Nhưng trước bản chất yếu đuối của chúng ta, vốn cần những dấu hiệu hữu hình (Gioan 4:48), Chúa Giêsu đã đoái thương diễn ra qua hành động những lời tiên tri về mặt tâm linh.

Nếu những vấn đề chính của nhân loại là những khuyết tật về thể chất, thì Chúa Giêsu đã thành lập một bệnh viện để chữa lành cơ thể cho mọi người. Nhưng trái lại, Chúa thành lập một Giáo hội, để chữa lành tâm hồn con người. Giáo hội ấy cũng đã thành lập các bệnh viện bởi vì cùng với Chúa Giêsu, Giáo hội nhận ra rằng chúng ta cần những dấu hiệu hữu hình để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng sự chữa lành về thể xác cần phải hướng chúng ta đến sự chữa lành sâu hơn, nếu không thì nó chỉ là tạm thời và cuối cùng là vô nghĩa.

Chúa Giêsu sau đó tiếp tục bằng việc khen ngợi Gioan Tẩy Giả, gọi ông là vị tiên tri vĩ đại nhất của Giao ước cũ, đỉnh cao của việc rao giảng và dạy dỗ Kinh thánh của Israel (xem Matthêu 11:13). Tuy nhiên, “Kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng còn lớn hơn ông ta”. Điều đó có nghĩa là gì?

Vương quốc thiên đàng là Giáo hội. Những lời của Chúa Giêsu có thể được coi là ám chỉ đến Giáo hội Khải hoàn, những người đã được cứu rỗi và ngay cả lúc này, đang ở trước sự hiện diện của Chúa trên thiên đàng. Họ cao trọng hơn Gioan (trong Phúc âm lúc này) vì họ đã được thấy Thiên Chúa mặt đối mặt và chia sẻ vào vĩnh phúc của Chúa, trong khi Gioan còn phải chịu những thử thách về thể lý cũng như tinh thần và sự yếu đuối của thân xác.

Và điều này cũng có thể được coi là ám chỉ đến Giáo hội Chiến đấu, những tín đồ vẫn đang chiến đấu trên trái đất. Mặc dù chúng ta có thể thiếu nhiều đức tính của Gioan, nhưng chúng ta có rất nhiều lợi thế mà ông không có: các bí tích ban truyền Chúa Thánh Thần cho chúng ta, chân lý trọn vẹn trong Kinh thánh và được Giáo hội làm sáng tỏ thêm, sự hiệp thông các thánh tăng thêm sự hỗ trợ, và nhiều hơn nữa. Vì vậy, ngay cả những người nhỏ nhất trong chúng ta, những người thực sự tin vào Chúa Kitô, cũng vĩ đại hơn Gioan về nhiều mặt.

Hoặc chúng ta nên nói, vĩ đại hơn Gioan đã là, vì khi Chúa Giêsu nói những lời này, Gioan vẫn còn trên trái đất và bị ràng buộc bởi Giao ước Cũ. Nay, Gioan đã đi vào phúc vinh quang và được phúc nhìn thấy Chúa cùng với các thánh khác.

Không cần phải nói cuộc sống này bao hàm việc buồn nản chờ đợi vì cuộc sống dường như đi lùi hơn là tiến bước. Ngay cả khi chúng ta hát những bài hát về niềm hy vọng và niềm vui khi Chúa Giêsu đến trong Mùa Vọng, nó không mấy thích hợp với các sự kiện trong cuộc sống cá nhân cũng như các sự kiện xã hội và chính trị trên khắp thế giới, nhiều sự kiện dường như báo trước thảm họa không thể tránh khỏi và không là về tình yêu, niềm vui và hòa bình. Giáo hội rất là thực tế, và Kinh thánh cũng vậy. Vì thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ở thế gian này, anh em sẽ gặp khó khăn. Nhưng hãy can đảm! Thầy đã thắng thế gian” (Gioan 16:33).

Đó là sứ điệp của các bài đọc Chúa Nhật tuần này. Như các tiên tri, chúng ta đang mong đợi từ giữa một thế giới đang chảy ngược dòng tiến đến hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng thế giới hiện tại này là một vấn đề tạm thời và Chúa Giêsu đã có câu trả lời vĩnh cửu cho vấn đề này. Khi chúng ta thắp ngọn nến hồng để đánh dấu “Chúa Nhật Gaudete / mừng vui,” chúng ta hãy phấn khởi với sự thật rằng chúng ta, những kẻ nhỏ bé, có thể cùng đứng với một người vĩ đại như Gioan Tẩy Giả và hy vọng về ngày chúng ta sẽ cũng với ngài vui hưởng nhan thánh Chúa trên thiên đàng.”
-- Dr. John Bergsma, The Word of the Lord: Reflections on the Sunday Mass Readings for Year A

Share:

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Các bài viết và video về yoga và thiền

Các bài viết và video từ Trongsach.com

Chánh niệm và tỉnh thức của Kitô giáo

Người Công Giáo có nên tập yoga không?

Một Số Khía Cạnh Của Việc Chiêm Niệm Kitô Giáo từ Bộ Giáo lý Đức tin

Video về Yoga

Yoga có là vấn đề không? Cha Vincent Lampert, nhà trừ quỷ, chia sẻ kiến thức của mình

Nếu bạn tập thể dục theo lối này... hãy thận trọng với Alex Frank

Trong video này, Alex Frank, tốt nghiệp từ Duke University và học luật ở Yale, vì bị đau lưng đã tìm đến yoga, ngay cả sống trong chùa ở Nhật bản 3 tháng. Alex trả lời câu hỏi bạn có thể tập yoga mà không có những tác động tiêu cực đến đời sống tâm linh của người Kitô hữu không? Có lựa chọn nào tốt hơn thay vì yoga không (ở video sau)? Mời bạn nghe Alex Frank chia sẻ

Các thần trong yoga có phải là ma quỷ không?

Yoga hay Pilates? Pilates được dựa trên phong trào thể dục dụng cụ ở phương Tây

Some English resources

Bodily positions -- Fr. Carlos Martins

Real cases of harassment by the evil one:
https://www.youtube.com/watch?v=Kfer9yoKHjg (part 1)
https://www.youtube.com/watch?v=NSswxNfmUgs (part 2)

Catholic articles
When Your Therapist Recommends Buddhist Meditation
Can a Christian Practice Buddhism?
What’s the Difference Between ‘Mindfulness Meditation’ and Christian Meditation

Share:

Chánh niệm (Mindfulness) và Truyền thống thần bí Công Giáo

Lời từ video của Dr. Greg Bottaro

Vì tôi dạy một khóa học về tỉnh thức theo Công Giáo (Catholic mindfulness) nên đôi khi có người hỏi tôi: người Công Giáo có được thực hành chánh niệm  không, và điều đó liên hệ thế nào với truyền thống linh đạo thần bí Công Giáo (mystical spirituality) vốn đã có sẵn trong Giáo Hội? Đây là những câu hỏi rất hay, và tôi muốn làm rõ ngay từ đầu.

Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào sự khác biệt giữa Phật giáo và Công Giáo. Tình thức, chánh niệm (mindfulness) là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều ngày nay, và điều này có thể gây nhầm lẫn vì nó dường như gắn liền với triết lý Phật giáo — và thật sự là như vậy, nó có nguồn gốc từ triết lý Phật giáo. Vì thế, điều hết sức quan trọng là phải hiểu rõ sự khác biệt giữa mindfulness / tình thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo.

Trước tiên, với tư cách là người Công Giáo, chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tự mạc khải cho chúng ta nơi con người Đức Giêsu Kitô, và qua đó Người cũng mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi. Mầu nhiệm Ba Ngôi là Thiên Chúa vừa là Ba vừa là Một: có sự đa dạng về ngôi vị nơi Thiên Chúa — Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần — nhưng đồng thời cũng có sự hiệp nhất tuyệt đối vì Thiên Chúa là Một. Mầu nhiệm này được phản chiếu trong toàn thể công trình tạo dựng.

Chẳng hạn, nơi nhân loại: con người cũng có một ý thức về sự hiệp nhất. Chúng ta là một gia đình nhân loại, có một điều gì đó liên kết tất cả chúng ta lại với nhau, và nếu Thiên Chúa muốn, tất cả chúng ta được mời gọi để vào nước trời— đó chính là sự hiệp thông các thánh. Có một sự hiệp nhất mà chúng ta đang hướng tới nơi toàn thể nhân loại. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng tin rằng mỗi người là một cá vị riêng biệt, được tạo dựng cách độc nhất vô nhị. Mỗi người là một cá nhân thật sự khác biệt. Điều này rất khác với điều Phật giáo tin về thực tại được tạo dựng và về thực tại như họ cảm nghiệm.

Trong khi chúng ta chấp nhận mầu nhiệm Ba Ngôi — vừa là Ba vừa là Một — thì Phật giáo không chấp nhận mầu nhiệm theo cách như vậy.

Để giải thích kinh nghiệm về hiệp nhất và đa dạng, Phật giáo đơn giản cho rằng sự đa dạng chỉ là ảo tưởng. Con đường đi đến giác ngộ của một Phật tử là hoàn toàn và dứt khoát hiểu, cảm nghiệm và cảm thấy chỉ có sự hiệp nhất của mọi hữu thể, và coi sự đa dạng của hiện hữu là ảo tưởng cần phải loại bỏ.

Vì thế, khi nói đến kinh nghiệm về chính bản thân mình, một Phật tử sẽ nói rằng cái “tôi” là ảo tưởng, bản ngã không tồn tại. Đồng thời, họ cũng nói rằng Thiên Chúa không tồn tại, bởi vì Thiên Chúa sẽ là một thực tại tách biệt khỏi con người, và trong triết lý Phật giáo thì không có sự phân biệt.

Dĩ nhiên, chúng ta không tin như vậy. Đây là một khác biệt rất lớn so với thế giới quan Kitô giáo, thần học và triết học của chúng ta.

Đó là hai hệ thống tư tưởng: Phật giáo và Công Giáo. Bây giờ, chúng ta hãy quay lại với mindfulness / tỉnh thức. Đối với Phật giáo, mindfulness /chánh niệm là một bước trên con đường đi đến giác ngộ. Nhưng mindfulness cũng có thể được thực hành trong bối cảnh Công Giáo. Làm sao điều đó có thể xảy ra?

Chúng ta hãy xem mindfulness là gì. Mindfulness đơn giản là ý thức về giây phút hiện tại. Đó là một cách để gạt bỏ lớp mạng nhện, làn sương mờ, sự rối loạn và lao đi không ngừng của tâm trí, hay những tiếng ồn ào bên trong đầu chúng ta, để chúng ta thật sự hiện diện trọn vẹn với những gì đang diễn ra xung quanh.

Đối với một Phật tử, đó là một bước dẫn đến việc nhận ra rằng tất cả những điều đó là ảo tưởng. Còn đối với người Công Giáo, đó là một bước giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của Thiên Chúa đang thấm nhuần công trình tạo dựng, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, và nhận ra chính bản thân mình trong bối cảnh của thế giới được tạo dựng này.
Việc thực hành như vậy có được không? Chúng ta hãy đi xa hơn một chút.

Trên con đường giác ngộ của Phật giáo còn có một bước gọi là “chánh ngữ” (right speech). Điều đó có nghĩa là không nói dối, không nói xấu sau lưng, không vu khống hay bôi nhọ người khác. Đó là một phần trong con đường giác ngộ của Phật giáo. Tự bản chất, đây là một điều tốt đẹp.

Và chúng ta, trong đời sống Kitô hữu, cũng thực hành “chánh ngữ” trên con đường đi đến nhân đức. Điều đó đã có sẵn trong hệ thống luân lý Công Giáo. Vì thế, chỉ vì một điều gì đó là một bước trên con đường giác ngộ của Phật giáo thì điều đó không nhất thiết là sai tự bản chất. Điều tương tự cũng áp dụng cho mindfulness.

Việc học cách ý thức về giây phút hiện tại, xét cho cùng, là một kỹ thuật hay một kinh nghiệm mang tính tâm lý. Chúng ta sử dụng nó thế nào thì phụ thuộc vào thế giới quan, niềm tin tôn giáo hay triết lý sống của mỗi người.

Nếu bạn là Phật tử, thì điều đó có nghĩa là bạn đang đi trên con đường khám phá rằng mọi điều bạn đang chú ý đến đều là ảo tưởng.

 Còn nếu bạn là Kitô hữu hay người Công Giáo, thì bạn đang đi trên con đường hiểu biết rõ hơn về chính mình, về Thiên Chúa, và về thực tại quanh mình. Càng có ý thức rõ ràng về bản thân, bạn càng hiểu sâu hơn những chuyển động của con tim mình, ở tầng sâu bên dưới mọi xao lãng và mọi hỗn loạn của tâm trí.

Khi nói đến cầu nguyện, đối với người Kitô hữu, mindfulness không phải là cầu nguyện, và cũng không thể thay thế cho cầu nguyện. Việc ngồi đó và chỉ đơn giản ý thức về hơi thở của mình không phải là một hình thức cầu nguyện. Tuy nhiên, nó là một cách giúp làm lắng dịu tâm trí để chúng ta có thể bước vào cầu nguyện mà không bị phân tâm — và điều này rất quan trọng.

Tôi không biết bạn thế nào, nhưng với tôi, có nhiều lần tôi ngồi trong thánh lễ mà tâm trí lại chạy sang hướng khác. Tôi không chú ý đến các bài đọc hay bài giảng. Vâng, thưa cha, con xin lỗi, có những lúc con không chú ý đến bài giảng — có thể vì bình xăng sắp hết và con đang nghĩ xem sau lễ sẽ đi đổ xăng ở đâu! Dù là lý do gì đi nữa, tâm trí chúng ta không phải lúc nào cũng gắn chặt với giây phút hiện tại.

Mindfulness / Tình thức chính là điều giúp chúng ta quay trở lại với giây phút hiện tại. Có khi chỉ đơn giản là cảm nhận chiếc ghế nhà thờ mà tôi đang ngồi trong giây lát, để đưa tâm trí ra khỏi những xao lãng và trở lại với “bây giờ và ở đây.”

Và chính điều đó mở ra cho tôi khả năng thật sự đón nhận Lời Chúa, thật sự lắng nghe bài giảng, thật sự đón nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, để tôi có thể cảm nếm bằng tất cả các giác quan, với sự tập trung trọn vẹn, với sự hiện diện đầy đủ trong giây phút ấy.
Đó chính là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức theo Công Giáo và mindfulness / chánh niệm theo Phật giáo, và cũng là sự khác biệt giữa mindfulness / tỉnh thức và cầu nguyện trong đời sống Công Giáo.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho bạn.

Chuyển ngữ từ video: Mindfulness and Catholic Mystical Tradition

Share:

Người Công Giáo có nên tập yoga không?

Từng là “tín đồ yoga” nhưng sau khi trở thành người Công giáo, tôi muốn đưa ra một vài lời cảnh báo.

Xã hội thế tục rất ưa chuộng yoga, và không ít người Công giáo cũng thích nó. Theo Statista.com, doanh thu của ngành công nghiệp yoga lên đến hàng tỷ đô-la, và số người tham gia được ước tính lên đến hàng chục triệu người.

Bản thân tôi đã từng dấn sâu vào yoga, bị thu hút bởi ý tưởng tự hoàn thiện bản thân mà không cần phải bị những quy luật đạo đức ràng buộc. Sau nhiều năm nghiên cứu yoga và các hệ thống liên quan—chánh niệm, Phật giáo, pháp thuật shaman—tôi đã hoàn thành khóa đào tạo giáo viên, ở ba tháng trong một tu viện Thiền Zen, và học với một trong những guru tinh thần hàng đầu tại Hoa Kỳ. Trong suốt quá trình học hỏi, và khi hành trình tìm kiếm thiêng liêng của tôi dần dẫn tôi đến với Giáo hội Công giáo, tôi nhận ra rằng có yoga nhiều điều sâu xa hơn rất nhiều so với những gì văn hoá đại chúng phương Tây miêu tả .

BẢN CHẤT CỦA YOGA LÀ GÌ?

Khi phân tích xem liệu người Công Giáo có nên thực hành yoga hay không, điểm khởi đầu là xác định yoga là gì. Nó không chỉ là một tư thế cơ thể hay một chuỗi các tư thế. Thực ra, nó còn hơn thế: từ yoga trong tiếng Phạn có nghĩa là “gắn ách vào”, “kết hợp lại”. Việc “gắn ách” này hàm ý một sự kết hợp mang tính tâm linh, bắt nguồn từ một dạng phục tùng. Giờ đây, Đức Kitô mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người (Mt 11:30), nhưng yoga đặt lên người tập loại ách nào? Nói cách khác: yoga buộc người thực hành phải phục tùng điều gì?

Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc xem xét các tư thế. Lấy vài ví dụ:

  • Ba tư thế Warrior (Chiến Binh) gợi lên thần Virabhadra, vị thần được thần Shiva tạo ra để giết cha vợ của Shiva. Ba tư thế này mô phỏng trình tự của vụ sát hại đó.
  • Matseyadrasana và Gorakshasana được đặt theo tên các đạo sư Ấn Độ giáo, những người sáng lập nên phong cách dẫn đến yoga hiện đại. Theo truyền thuyết nền tảng, họ đã dùng quyền năng huyền thuật của mình để thực hiện trộm cắp, ngoại tình, lừa đảo, cưỡng dâm bằng lừa dối, xúc phạm thi thể, giết con trai của Matsyendra và giả trang thành người khác giới.*
  • Theo người sáng lập Rasa Yoga, Sianna Sherman, tư thế Goddess “gợi lên” nữ thần hắc ám Kali, nổi tiếng vì làm quần áo từ các bộ phận cơ thể của kẻ thù bị giết. Cho đến ngày nay, tại Ấn Độ, những người sùng bái yoga vẫn dâng tế trẻ em cho bà ta.

VẬY MỤC ĐÍCH CỦA YOGA LÀ GÌ?

Nó vượt xa việc thực hiện những tư thế tôn vinh các thần và đạo sư Ấn Độ giáo có vấn đề. Bộ Ngoại giao Ấn Độ cho biết: “Yoga về căn bản là một kỷ luật thiêng liêng dựa trên một khoa học vô cùng tinh vi, tập trung vào việc đem lại sự hòa hợp giữa tâm trí và thân xác… Việc thực hành yoga dẫn đến sự hợp nhất giữa ý thức cá nhân với Ý thức Vũ trụ.” Như vậy, yoga về bản chất là một kỷ luật thiêng liêng. Việc làm thiêng liêng đó được đặt nền tảng trên niềm tin rằng ý thức, hay đơn giản là sự nhận biết, là phương tiện dẫn đến điều thiêng liêng. Mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ bản ngã cá nhân để nhận ra “Chân Ngã” của mình, hòa hợp ý thức của mình vào trong "Đại Ngã", hay có thể nói là hòa mình vào trong thực tại tối cao của vũ trụ, và tan biến mất trong đó.

Nhiều nguồn khác cũng nói những điều tương tự. Judith Lasater, có lẽ là giáo viên yoga nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ, mô tả “bản chất đích thực của việc thực hành” là giác ngộ, để “trải nghiệm thực tại không phải như những phần tách biệt của chúng ta, nhưng như một hữu thể duy nhất.” Anusha Wijeyakumar, một giáo viên yoga và tác giả có tiếng khác, nói rằng “mục tiêu tối hậu của yoga… là samadhi — sự hợp nhất sau cùng với thần và ý thức thiêng liêng… Yoga hám chứa rất nhiều chứ không chỉ là asana (các tư thế thể lý).”

Một mantra, tức bài kinh cầu của Ấn Độ giáo đi kèm các tư thế thể lý, là: “Tôi là những gì tôi nói tôi là.” Xét việc Thiên Chúa tự xưng trong sách Xuất hành 3,14, điều này trông rất giống một nỗ lực biến con người thành Thiên Chúa. Đây là một tuyên bố triết học cấp tiến dẫn đến một lối linh đạo đặc thù.

Ngược lại, Thánh Gioan Thánh Giá mô tả rằng linh hồn yêu mến Thiên Chúa sẽ phản chiếu ánh sáng của Người đến mức giống như chính Thiên Chúa, nhưng vẫn tách biệt về bản thể. Đức Hồng Y Ratzinger, khi khảo sát các hình thức chiêm niệm Kitô giáo, đã viết năm 1989 rằng “mọi khát vọng mà lời cầu nguyện của các tôn giáo khác biểu lộ đều được toại nguyện vượt xa mọi mức độ, nơi thực tại Kitô giáo, mà không làm cho bản thân người cầu nguyện hay bản tính của thụ tạo bị hòa tan hay biến mất vào biển cả của [Đấng] Tuyệt Đối.” Hiệp nhất với Thiên Chúa là khao khát cao quý, nhưng con đường Đông phương và con đường Kitô giáo khác nhau một cách căn bản.

Lập luận ủng hộ yoga phổ biến nhất là loại bỏ phần “thiêng liêng” sâu xa và chỉ tập trung vào hành động thể lý của việc co giãn. Những người Công Giáo ủng hộ yoga cho rằng chỉ cần thực hiện các “tư thế”—vốn tôn vinh các thần Ấn Độ giáo có vấn đề về luân lý và luôn là một thực hành thiêng liêng của Ấn giáo—thì vẫn tốt nếu ta chỉ có ý định tập thể dục. Nhưng lập luận này có đứng vững không?

Để tìm hiểu, ta hãy hỏi: có đúng là một hành vi—ví dụ, thực hiện một tư thế yoga—không có ý nghĩa nào vượt ngoài ý định của người thực hiện không? Thánh Tôma Aquinô lập luận rằng thật ra các hành vi có một ý nghĩa khách quan: “Điều tốt hay xấu mà hành vi bên ngoài tự nó mang… không bắt nguồn từ ý chí, mà từ lý trí” (ST I-II, q. 20, a. 1). Hành vi có bản chất riêng của nó: phẩm chất của hành vi bên ngoài được rút ra từ lý trí hơn là từ ý định của người thực hiện. Tương tự, Sách Giáo Lý dạy rằng để một hành vi là tốt, nó phải có đối tượng luân lý tốt, vốn là điều gắn liền với bản chất hành vi và độc lập với ý định. “Một ý định tốt… không làm cho một hành vi vốn sai lệch trong bản chất trở nên tốt hay chính đáng” (1753).

Vậy “hành vi” kéo giãn theo yoga có “sai lệch trong bản chất” không? “Đối tượng luân lý” của các tư thế này là gì? Bản thân các yogi chỉ ra điều đó, dù họ không nói quá thẳng thắn. Các tư thế nhằm đánh thức kundalini, năng lượng của linh hồn, gắn liền với các thần Ấn Độ giáo. Năng lượng đó khởi đầu ở đáy cột sống, được mô tả như “nữ thần rắn đang ngủ.” Yoga làm cho con rắn đi lên cột sống để chiếm hữu linh hồn, giúp người tập nhận ra “Chân Ngã,” tự đặt mình dưới ách các thần linh đó. Bikram Choudhury, người sáng lập một trong các loại hình yoga phổ biến nhất, nói rằng những gì xảy ra với chuỗi tư thế của ông là: “Bạn đánh thức kundalini. Bạn trở thành Chúa Giêsu Kitô. Hoặc Phật. Công thức yoga của tôi hiệu quả cho mọi người.”

Một trong những đạo sư chính đưa yoga sang phương Tây, B.K.S. Iyengar, viết rằng một tư thế yoga đích thực “là tư thế mà trong đó tư tưởng về [thần tối cao của Ấn Độ giáo] tuôn chảy một cách tự nhiên và liên tục vào tâm trí của người tập.” Judith Lasater nói rằng “bản chất nội tại của yoga là ta không thể tách các asana khỏi những khía cạnh khác của việc thực hành.” Alexandria Crow, một “chuyên gia” yoga nổi tiếng, nói: “Các tư thế thật ra chỉ là phương tiện để truyền dạy triết lý [của yoga].” Theo một cây bút của tạp chí Yoga Journal—nguồn yoga có lưu lượng truy cập lớn nhất ở Hoa Kỳ—lý do của điều này là một đổi mới của cha đẻ yoga hiện đại, Krishnamacharya, người “đã biến các tư thế thành một phần không thể tách rời của thiền định thay vì chỉ là một bước dẫn đến thiền.”

Điều đáng chú ý là ý định chủ quan có xu hướng tự điều chỉnh để phù hợp với đối tượng luân lý thông qua việc thực hành lặp đi lặp lại. Hai khảo sát khoa học cho thấy, mặc dù hầu hết mọi người bắt đầu tập yoga vì lợi ích sức khỏe, nhiều người ở lại với nó để đạt được sự thực chứng mang tính thiêng liêng này. Cha Joseph-Marie Verlinde, người từng đi sâu vào yoga trước khi trở lại đạo, đã nói với vị đạo sư của mình rằng người phương Tây chủ yếu tập yoga để thư giãn. Đạo sư “cười dữ dội” rồi nói: “Điều đó không ngăn được yoga tạo ra tác động của nó.”

Tóm lại, thật khó mà phủ nhận rằng hệ thống làm phát sinh yoga, bao gồm các tư thế, tôn vinh các thần Ấn Độ giáo và nhằm trói buộc người tập một cách thiêng liêng với các thần đó. Trong khi đó, Kinh Thánh nói rằng “mọi thần của chư dân chỉ là ngẫu tượng” (Tv 96,5—bản dịch cũ dùng từ “quỷ dữ” thay vì “ngẫu tượng”), và Giáo Hội có lập trường mạnh mẽ chống lại sự thờ ngẫu tượng (Xh 20,1-4; GLHTCG 2110). Khó có thể tưởng tượng người Công Giáo nào lại chạy đến phòng gym để thực hiện “tư thế cúi chào Ba’al,” vậy mà những “ngẫu tượng” hay “quỷ dữ” trong thực hành thiêng liêng của Ấn Giáo lại được bỏ qua dễ dàng.

Nhưng liệu chúng ta có thật sự mở cửa cho ma quỷ chỉ bằng cách đặt thân thể mình vào một số tư thế nào đó, như trong bài báo châm biếm của Babylon Bee nơi một thợ sửa ống nước vô tình bị quỷ ám? Norman Sjoman, một học giả từng thực hành và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Krishnamacharya, cha đẻ yoga hiện đại, đã kết luận rằng “điều làm cho một điều gì đó trở thành yoga không phải là làm gì, mà là làm như thế nào.” Và nhiều tư thế trong yoga bắt nguồn từ thể dục dụng cụ phương Tây và giống với các tư thế trong các bài tập thể hình thông thường. Tương tự như vậy, ăn một miếng bánh tròn bên ngoài bối cảnh Kitô giáo thì không có ý nghĩa thiêng liêng nào, nhưng rước Mình Thánh trong thánh lễ Công Giáo lại khơi dậy những hiệu quả thiêng liêng (hoặc án phạt thiêng liêng) vượt quá ý định chủ quan của người lãnh nhận. Vì vậy, việc thực hiện các tư thế này trong bối cảnh yoga, như một phần của việc thực hành yoga, bất kể ý định chủ quan, khiến chúng trở thành phương tiện để thúc đẩy linh đạo của yoga. Chúng trở thành một “bí tích,” theo nghĩa rộng—một dấu chỉ hữu hình của một hoạt động thiêng liêng sâu hơn.

Vì vậy, đúng theo nghĩa đen mà nói, các tư thế được thực hiện tách rời (không kèm theo các yếu tố tôn giáo hay thiền định) hầu như chắc chắn là ổn. Nhưng kinh nghiệm cá nhân của tôi trong thế giới yoga không khuyến khích tôi tham gia vào nó, cũng như gánh nặng thiêng liêng to lớn gắn liền với nó. Hầu như không thể tránh khỏi việc tham gia vào các yếu tố thiêng liêng của yoga, vốn gây vấn đề nếu chúng ta muốn tránh tôn vinh những vị thần sát nhân và mở lòng mình với các niềm tin thiêng liêng của yoga.

Có rất nhiều cách để rèn luyện thể chất mà không mang gánh nặng đó—đáng chú ý là Pietra Fitness—vừa mang lại lợi ích thể chất tương tự vừa đưa người tập vào tương quan yêu thương với Thiên Chúa dựa trên chân lý. Vậy tại sao lại chọn yoga, khi rủi ro quá cao và lợi ích lại tương đối thấp?

Chuyển ngữ từ Should Catholics Practice Yoga?

* For the gruesome details, see Christopher Wallis, Tantra Illuminated: The Philosophy, History, and Practice of a Timeless Tradition (Audible Audiobook Edition, 2016), ch. 100, 12:47:08; James Mallinson, The Khecarividya of Adinatha: A Critical Edition and Annotated Translation of an Early Text of Hathayoga, (New York: Routledge, 2008), p. 186, note 129; and David White, The Alchemical Body: Siddha Traditions in Medieval India (Chicago: University of Chicago Press, 2012), pp. 236-237. (“Goraksha kills and skins the boy, scrubs his skin like a washerman to remove all its bodily impurities and hangs his skin on the roof to dry, like the hide of some skinned beast.”)

Share:

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive