Thứ Năm, 18 tháng 12, 2025

Chúa Nhật thứ IV Mùa Vọng, năm A

Đức Giê-su sinh làm con bà Ma-ri-a. Bà đã thành hôn với ông Giu-se, con cháu vua Đa-vít. (Mt 1,18-24)

Cứu khỏi tội lỗi” không giống với “cứu khỏi những hậu quả của tội”. Đức Giêsu không chỉ đến để cứu chúng ta khỏi hỏa ngục, mà còn để cứu chúng ta khỏi việc phạm tội. Người đến để ban cho chúng ta khả năng sống đời thánh thiện. Sống trong tội lỗi là một đời sống cùng cực, khốn khổ; thực ra, đó là một thứ hỏa ngục ngay trên mặt đất. Tội lỗi có tính gây nghiện, và chúng ta cần một Quyền Năng Cao Hơn—thực sự là một Ngôi Vị Cao Hơn—để được giải thoát.

Cũng như Giuse trong Cựu Ước, con của Gia-cóp, là một người hay mơ và qua những giấc mơ ấy Thiên Chúa đã nói với ông, thì Thiên Chúa cũng thông truyền với Giuse trong Tân Ước, con của Gia-cóp (Mt 1,16), qua những giấc mơ.

Nhưng thiên thần không gọi ông là “con Gia-cóp” mà là “con Đavít”, nhấn mạnh mối liên hệ của thánh Giuse với những lời hứa và giao ước gắn liền với nhà Đavít, bao gồm cả lời hứa của ngôn sứ Isaia về Đấng “Emmanuel” sẽ được sinh ra bởi một “trinh nữ” thuộc dòng tộc này. Thực vậy, chính Giuse là người thừa kế ngai vàng Đavít. Nếu triều đại Đavít còn nắm quyền trong thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, thì Giuse đã trị vì tại Giêrusalem. Nhưng thực tế, ông lại làm lao động chân tay ở Nadarét, một thôn xóm nhỏ bé nơi vùng đồi hẻo lánh của Ítraen.

Tại sao một hậu duệ hoàng tộc lại sống ở một nơi xa xôi như vậy? Có lẽ dòng họ Đavít đã định cư ở Nadarét để tránh xa những nơi chính trị bất ổn như Giêrusalem. Mang dòng máu hoàng gia là một gánh nặng chính trị, trừ khi bạn thực sự nắm quyền trên ngai vàng. Lúc ấy, Hêrôđê Cả đang nắm quyền, nhưng ông là kẻ tiếm vị, không có dòng máu hoàng gia, là người nửa Do Thái, với cha là người Êđôm (Idumê). Khi các đạo sĩ đến Giêrusalem tìm người thừa kế nhà Đavít, kết cục là Hêrôđê ra lệnh giết các trẻ trai ở Bêlem. Chính để tránh những biến cố như thế mà dòng họ Đavít ẩn mình nơi vùng đồi Nadarét.

Mặc dù thánh Mát-thêu chỉ nêu gia phả của thánh Giuse (Mt 1,2–16), chúng ta có thể tin chắc về mặt luân lý rằng Đức Maria cũng thuộc dòng dõi Đavít. Đó là truyền thống của Hội Thánh qua suốt các thế kỷ; hơn nữa, điều này hoàn toàn hợp lý, vì vào thời ấy các làng mạc thường được hình thành theo dòng họ, nên hầu hết dân làng đều là thành viên của cùng một đại gia đình xuất phát từ một tổ tiên danh giá. Có lẽ hầu như mọi người dân Nadarét đều mang dòng máu Đavít. Xác tín cá nhân của tôi là Luca chương 3 trình bày dòng huyết thống sinh học của Đức Giêsu qua Đức Maria (thực ra là qua người cha của Mẹ Maria, Hêli, dạng rút gọn của Êliakim [tức Giôgia-kim, x. 2 V 23,34]).

Qua Đức Maria sẽ đến Đấng “làm trọn” lời ngôn sứ vốn được hướng về vua Khít-ki-gia. Khít-ki-gia đã làm thất vọng, nhưng Đức Giêsu sẽ là “Emmanuel” theo một nghĩa sâu xa hơn rất nhiều: không chỉ là dấu chỉ Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mà chính là Thiên Chúa hiện diện trong xác phàm. Mẹ của Khít-ki-gia là Abia chỉ là một “thiếu nữ” trước khi đến với A-khát, còn Mẹ của Đức Giêsu, Đức Maria (tiếng Híp-ri là Miriam), là trinh nữ trước, trong và sau khi sinh con. Đức Giêsu hoàn toàn ứng nghiệm lời ngôn sứ xưa dành cho nhà Đavít.

Khi lùi lại và suy niệm các bài đọc này, chúng ta thấy một chủ đề chung: sự xâm nhập của Thiên Chúa vào đời sống con người. Thiên Chúa đề nghị can thiệp vào đời vua A-khát, nhưng phản ứng của nhà vua là “xin cảm ơn, nhưng không cần”. Thiên Chúa tiến vào Giêrusalem trong nghi thức phụng vụ, và dân chúng chào đón Người bằng những lời tung hô trong Thánh vịnh 24.

Trong Tin Mừng, Thiên Chúa “xâm nhập” vào đời sống của Đức Maria và thánh Giuse bằng sự hiện diện của Người. Có lẽ ước mơ của họ chỉ là sống một cuộc đời lặng lẽ, bình an, cố gắng nuôi dưỡng gia đình tại Nadarét trong khi chờ đợi lời hứa Thiên Chúa dành cho tổ tiên họ được các ngôn sứ loan báo. Họ đâu biết rằng Thiên Chúa sẽ dùng chính cuộc đời họ để hoàn tất tất cả những lời hứa ấy.

Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời họ cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt nhịp sống quen thuộc và sự thoải mái của đời thường.

Giuse bối rối khi thấy vị hôn thê của mình mang thai và lo sợ không dám cưới nàng, hoặc vì nghi ngờ có điều sai trái nơi Maria (cách hiểu hiện đại), hoặc vì ngần ngại kết hôn với một người phụ nữ thánh thiện đến mức được dành riêng cho việc thụ thai thần linh (cách hiểu truyền thống cổ điển).

Ước mơ của Đức Maria và thánh Giuse về một cuộc sống bình thường của một đôi vợ chồng trung lưu, sống “giấc mơ Ítraen”, đã tan vỡ. Cuộc đời họ sẽ không còn bình thường và điển hình nữa. Thiên thần hướng dẫn Giuse bước tiếp theo: hoàn tất hôn lễ với Maria. Chúng ta biết rằng những tháng sắp tới sẽ đầy căng thẳng—một chuyến đi dài đến Bêlem khi Maria đã mang thai gần ngày sinh, rồi một cuộc trốn chạy trong đêm từ Bêlem sang Ai Cập để tránh bách hại.

Cuộc đời của Mẹ Maria và thánh Giuse không còn bình thường và êm ả nữa, bởi vì khi Thiên Chúa “xâm nhập” vào đời chúng ta, Người đưa chúng ta vào kế hoạch cứu độ của Người cho toàn thế giới, và chúng ta phải cùng dự phần vào những đau khổ của Đấng mang tên là “Ơn Cứu Độ” (x. Rm 8,17).

Trong Thánh lễ, chúng ta chuẩn bị đón nhận “cuộc xâm nhập thần linh” của Thánh Thể, khi Thiên Chúa một lần nữa đi vào đời sống và thân xác chúng ta—“Mình và Máu, Linh Hồn và Thần Tính”. Chúng ta đã sẵn sàng cho điều đó chưa? Chúng ta có sẵn sàng để cuộc đời mình rẽ sang một hướng khác, thậm chí là một hướng không thoải mái, bởi vì giờ đây Thiên Chúa đang sống trong chúng ta hay không?

Share:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Tiêu đề

Blog Archive

Labels

Blog Archive