Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2021

Lễ Hiển Linh

Bài này dịch tạm từ bài viết của Dr. John Bergsma

Từ "Hiển linh/Epiphany" bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp: epi, "trên"; và phaino, "xuất hiện, tỏa sáng." Do đó, “Hiển linh/Epiphany” chỉ về thần tính của Chúa Giêsu "chiếu sáng" trên trái đất, nói cách khác, là sự biểu lộ bản tính Thiên Chúa của Ngài.

Lễ Hiển Linh có một lịch sử thú vị, và bắt nguồn từ việc trong phụng vu tưởng niệm các sự kiện khác nhau về thời thơ ấu hoặc sứ vụ ban đầu của Chúa Giêsu, trong đó thần tính của Ngài được mặc khải. Đặc biệt, ba sự kiện đã được Giáo hội sơ khai xác định: cuộc viếng thăm của các đạo sĩ, việc Chúa chịu phép rửa, và việc biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Ở các nhà thờ địa phương khác nhau, những ngày để ghi nhớ những sự kiện này đã được cử hành sau Lễ Chúa Giáng sinh. Một số nhà thờ địa phương đã sử dụng thuật ngữ "Epiphany" để chỉ lễ tưởng niệm Chúa Giáng sinh làm rối loạn tình huống thêm nữa. Tuy nhiên, theo thời gian, nghi lễ Latinh đặt Lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 và đặt sự kiện các đạo sĩ viếng thăm làm “Lễ Hiển linh” mười hai ngày sau, vào ngày 6 tháng 1. Do đó này chúng ta có truyền thống “Mười hai ngày of Christmas ”, tức là khoảng thời gian giữa Lễ Giáng sinh và Lễ Hiển linh.

Người ta sẽ nhận thấy rằng trong lịch các bài đọc trong Thánh lễ và kinh phụng vụ đương thời, sự liên kết của Phép Rửa và Tiệc Cưới tại Cana với Lễ Hiển Linh vẫn được duy trì. Lễ Chúa chịu phép rửa thường được cử hành vào Chúa Nhật sau Lễ Hiển Linh, và Chúa Nhật tiếp theo luôn có bài đọc Tin Mừng về tiệc Cưới Cana (Gioan 2: 1-11) hoặc một đoạn Tin Mừng từ Gioan ngay trước tiệc cưới (Gioan 1: 29-42).

Việc sử dụng từ "hiển linh/epiphany" để chỉ về thần tính có trước Kitô giáo. Hoàng đế Antiochus IV của Syria (Seleucid) (trị vì 175-165 trước Công nguyên), một bạo chúa độc ác 1-2 Maccabees tường thuật, tự đặt tên mình là “Epiphanes” vì ông coi mình là biểu hiện của thần tính trên trái đất. Người dân gọi ông là “Epimanes”, có nghĩa đại khái là “thứ gì đó đang đè lên não”, hay nói cách khác là “mất trí”. Antiochus cuối cùng chết trong thất bại; rõ ràng nhân loại sẽ cần phải chờ đợi một vị vua khác là "Hiển linh" thần tính của mình.

Bài đọc cho lễ trọng hôm nay không thay đổi từ năm này sang năm khác, vì vậy những chú giải của tôi phần lớn không thay đổi so với các năm trước:

Bài đọc 1 được lấy từ sách ngôn sứ I-sai-a 60:1-6

Đứng lên, bừng sáng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi,
vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Đức Chúa
như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất,
và mây mù phủ lấp chư dân ;
còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.
Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.
Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi :
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,
lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.
Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha :
tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,
đều mang theo vàng với trầm hương,
và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.

Trong đoạn trích từ Isaia này, Chúa dùng từ phụ nữ để gọi thành phố Giê-ru-sa-lem— “ngươi” trong suốt đoạn văn là đại từ số ít, giống cái. Đây là cách gọi điển hình của Isaia, và ở một nơi khác ông gọi Giê-ru-sa-lem là “con gái của Si-ôn” hay ngay cả “trinh nữ, cô gái Si-ôn” (Is 37:22). Dĩ nhiên, Si-ôn là sườn núi trên đó Đa-vít xây dựng cung điện hoàng gia, và do đó là trung tâm của thành phố, vì thế là trọng tâm của Giu-đa, là trọng tâm của Israel. Vì vậy, “Si-ôn” hoặc “Giê-ru-sa-lem” thường là được đại diện cho toàn thể dân Chúa chọn.

Là Kitô hữu, chúng ta hiểu “Giê-ru-sa-lem” và “Si-ôn” là để chỉ về Giáo hội, là “Giê-ru-sa-lem trên trời” (xem Híp-ri 12:22). Một cách riêng biệt, Giáo hội được hiện thân nơi Đức Maria, Mẹ của Giáo hội. Đức Maria là “trinh nữ, con gái của Si-ôn” cách riêng biệt. Hơn nữa, vì Si-ôn là vùng hoàng gia của Giê-ru-sa-lem, nên “trinh nữ, con gái của Si-ôn” được dùng để chỉ những cô con gái trinh nữ của nhà vua, những công chúa hoàng gia là những phụ nữ trẻ đẹp nhất, thành đạt và nổi tiếng trong thành. Đức Maria là cô gái đồng trinh của dòng dõi hoàng tộc, một hậu duệ của Vua Đavít. Khi Đức Maria nhìn thấy đoàn lữ hành lạc đà của các đạo sĩ đến nơi ở khiêm tốn của mình, đầy ắp với những món quà phù hợp với một vị vua, được mang đến từ những vùng đất dân ngoại xa xôi, những lời của Isaia 60: 1-6 được ứng nghiệm cách đặc biệt: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ… vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. ” Như ĐTC Bênêđíctô XVI đã nhận xét trong quyển 3 của Chúa Giêsu thành Nazareth về các câu chuyện thời thơ ấu, “Đức Maria, chính ngài, xuất hiện như  con gái của Si-ôn. Những lời tiên tri của Si-ôn được ứng nghiệm nơi Mẹ cách bất ngờ ”(trang 28 của phiên bản tiếng Anh).

Tóm lại, trong bài đọc thứ nhất này, (Is 60), ngôn sứ Isaia tiên đoán một ngày mà ánh sáng Thiên Chúa sẽ chiếu rọi trên khắp dân Ngài, thu hút các quốc gia, những quốc gia mà sẽ biết ơn ánh sáng này. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân tộc của Ngài sẽ không chỉ thu hút những người dân của Chúa (dân Israel) theo truyền thống, mà ngay cả những quốc gia xa xôi có nền văn hóa rất khác nhau, như Sheba (miền nam Ả Rập hoặc Ethiopia). Như chúng ta sẽ thấy, lời tiên tri này có những mối liên hệ quan trọng với bài đọc Tin Mừng.

2. Đáp ca (từ Thánh vịnh 72) là một trong những thánh vịnh quan trọng nhất trong 150 thánh vịnh. Nó xuất hiện ở cuối Sách II của Thánh vịnh (đó là Thánh vịnh 42-72), một trong những Thánh vịnh lạc quan nhất trong năm sách Thánh vịnh, chỉ vượt qua Sách V (Thánh vịnh 107-150) về sự vui mừng. Thánh vịnh 72 được gọi là “về Sa-lô-môn”, nhưng theo truyền thống được hiểu là một Thánh vịnh do Đa-vít viết về Sa-lô-môn chứ không phải do chính Sa-lô-môn viết. Nó mô tả hòa bình và thịnh vượng khôn tưởng tồn tại trong thời gian đầu của triều đại Sa-lô-môn, khi ông còn tuân theo luật pháp của Thiên Chúa và thừa hưởng tất cả mọi phước lành của giao ước Đa-vít. Thật vậy, Thánh vịnh 72 là một điểm cao về cảm xúc và tâm linh của sách Thánh vịnh, cũng như triều đại của Sa-lô-môn là một điểm cao trong lịch sử của dân Israen:

Đ. Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
1Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,2để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.

Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
7Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị
tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.

Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
10Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.

Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.


Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ.

Đ.Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Ngài.

Triều đại của Sa-lô-môn là một ngóng chờ hoặc dự biểu/type quan trọng về triều đại của Đấng Kitô và việc thành lập Giáo hội. Sa-lô-môn cai trị một đế chế đa quốc gia (I Các Vua 4:21), một đế chế báo trước cho đế chế thiêng liêng đa quốc gia là Giáo hội Công giáo. Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn nổi tiếng đến nỗi các nhà thông thái đến nghe ông từ khắp các quốc gia, ngay cả từ phương Đông (1 Các Vua 4: 29-34). Cũng vậy, lần cuối cùng các đoàn lữ hành đến Jerusalem mang theo vàng và trầm hương từ Sheba (được đề cập trong bài đọc thứ nhất) là dưới triều đại của Sa-lô-môn (1 Các Vua 10:10). Tất nhiên, điều này chỉ xảy ra khi Solomon ở đỉnh cao quyền lực của mình. Chúa Giê-su vượt trội hơn Sa-lô-môn, bởi vì ngay từ khi còn là hài nhi, các nhà thông thái phương Đông đã đến gặp Ngài để thừa nhận sự vĩ đại của Ngài và tôn vinh ngài. Chúa Giêsu là Con của Đa-vít vĩ đại hơn, khôn ngoan hơn cả Sa-lô-môn.

Sa-lô-môn có trí tuệ uyên bác, nhưng Chúa Giê-su còn hơn nữa, Ngài đem đến một sự khôn ngoan lớn hơn cả sự khôn ngoan, đó là sự khôn ngoan của tình yêu (1 Cr 13: 2). Kinh Thánh luôn ám chỉ rằng tình yêu vượt trên sự khôn ngoan, vì cuốn sách vĩ đại nhất trong ba cuốn sách khôn ngoan cổ đại của Sa-lô-môn là sách Diễm ca. Không phải ngẫu nhiên mà Diễm ca là cuốn sách Cựu ước duy nhất đề cập đến cả ba loại: vàng, nhũ hương và mộc dược (Diễm ca 1:11,13; 3:6,10; 4:6,13; 5:1, 5,11,13,14). Điều này đưa chúng ta trở lại chủ đề hôn nhân đặc trưng cho Kinh thánh. Chúa Giê-su không chỉ là chàng rể được tiên đoán trong nhiều đoạn Kinh thánh từ Cựu ước về vua Đa-vít (ví dụ: Thánh vịnh 45), mà chính Ngài là “sự kết hôn” của bản chất con người và thần tính trong một cá vị. Theo một nghĩa nào đó, Hiển linh/Epiphany là các vị vua của trái đất mang lễ cưới đến cho hôn lễ giữa con người và thần tính.

3. Bài đọc hai được trích từ thư của Thánh Phaolô gửi đến các tín hữu ở Ê-phê-sô. Trong đó, Thánh Phaolô nói đến “mầu nhiệm” của Thiên Chúa mà đến nay mới được tiết lộ cho thế giới, đó là các Dân ngoại (các dân tộc không thuộc dân Israel) là “những thành phần của cùng một thân thể, và những người được thừa hưởng lời hứa trong Đức Giêsu Kitô nhờ Tin Mừng. ”

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Ê-phê-xô 3:2-3a;5-6
2 Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3a Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là : trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.

Bài đọc này được chọn vì lời tuyên bố của Thánh Phaolô về dân ngoại “cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Các đạo sĩ, với tư cách là các học giả dân ngoại từ một số vùng đất phía đông, là những dân ngoại đầu tiên trong Tân Ước thừa nhận quyền lãnh chúa của Đức Giêsu Kitô. Họ đã nếm trước về sự tụ họp thật đáng kinh ngạc của các quốc gia khác nhau được gia nhập thành dân Chúa mà chúng ta gọi là “Giáo hội”.

Ngày nay, chúng ta coi “tất cả mọi người đều là con cái của Thiên Chúa” là điều hiển nhiên nên thật khó để tạo lại cảm giác mới lạ mà Thánh Phaolô và các Kitô hữu từ Do Thái giáo ban đầu đã cảm nghiệm khi khái niệm các dân tộc ngoại giáo đang được Thiên Chúa mời gia nhập để trở thành dân giao ước của mình. Chắc chắn hầu hết người Do Thái thời cổ đại đều không lường trước được điều này: khi những người phái Essenes ở Qumran, những người đã để lại cho chúng ta bản văn Dead Sea Scrolls, nghĩ rằng tương lai của dân ngoại là sẽ bị hủy diệt hoặc sẽ bị làm nô lệ dưới quyền của đế chế Israelite cai quản toàn thể thế giới (ví dụ, đọc War Scroll, 1QM). Giả thuyết của riêng tôi là Gioan Tẩy giả là một thành viên của nhóm Essenes, nhưng đã bị trục xuất vì ông khăng khăng muốn rao giảng về Nước Chúa cho người dân ngoại. (Xem chương 3 của cuốn sách Jesus and the Dead Sea Scrolls của tôi [Penguin Random House, 2019]).

Đây là một chủ đề mà nhóm Essenes đã không lý luận đúng đắn từ Kinh thánh, bởi vì có vô số lời tiên tri Cựu ước trực tiếp và gián tiếp nói về dân ngoại chia sẻ vào vinh quang của Thiên Chúa với dân Israel trong thời kỳ cuối cùng, kể cả đoạn từ Isaia 60 đã đọc ở trên. (Xem thêm Sáng thế 12:1-3; 22:15-18). Mối liên hệ giữa những lời của Thánh Phao-lô với lễ Hiển Linh thì rất rõ ràng: Các đạo sĩ dân ngoại từ phương Đông, đến để thờ phượng Chúa Giêsu, là một sự nếm trước và trông ngóng, hướng về thời đại của Giáo Hội, khi cánh cửa dẫn đến sự cứu rỗi sẽ rộng mở cho tất cả mọi dân tộc trên trái đất. Nhiều người trong chúng ta nghe lời giảng Urbi et Orbi của Giáo hoàng vào ngày Giáng sinh. Thật là một cảnh tượng xúc động khi chứng kiến ​​điều này, và nghe thấy tiếng hò reo của từng nhóm ngôn ngữ tập trung tại quảng trường dưới bóng của đấng kế vị thánh Phêrô. Đó là một dấu hiệu hữu hình ứng nghiệm lời của các tiên tri xưa của Israel, rằng một ngày nào đó, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Isaác và Gia-cóp sẽ được thờ phượng bởi tất cả các nước trên trái đất. Ai có thể nghĩ rằng điều này có thể xảy ra vào thời của Isaia, khi quốc gia Israel bị thu hẹp thành một vương quốc chư hầu nhỏ bé ở miền nam Palestine, và sẽ sớm không còn tồn tại như một quốc gia độc lập? Chỉ có sự mặc khải của Thiên Chúa mới có thể cho Isaia thấy trước được một tương lai mà con người không thể nghĩ đến trong thời đại của ông.

4. Bài đọc Phúc Âm tường thuật việc ba đạo sĩ đến thờ lạy Hài nhi Giêsu (Mát-thêu 2:1-12)
1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi : “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời : “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 6 Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

Các đạo sĩ là những người học giả uyên bác, những nhà khoa học thời họ. Cơ sở kiến ​​thức của họ sẽ bao gồm các nguyên tắc cơ bản của thiên văn học, vốn không khác biệt với chiêm tinh học thời cổ đại. Các chòm sao khác nhau có liên quan đến các nhóm dân tộc khác nhau, và có một “ngôn ngữ” diễn giải nhất định xác định các hiện tượng thiên văn với các sự kiện lịch sử. Theo sự sắp đặt của Chúa, các sự kiện thiên văn xung quanh thời điểm Chúa chúng ta sinh ra đã chỉ ra một dòng dõi hoàng tộc mới trong số những người Do Thái trong lược đồ diễn giải mà các nhà hiền triết phương đông này sử dụng.

Nhân vật Hêrôđê trong bài đọc Tin Mừng của chúng ta phù hợp với tính cách của Hêrôđê mà các sử gia xưa đã ghi lại. Theo nhà sử học Do Thái Josephus, thời trẻ, Hêrôđê là một nhà cai trị tài ba, người đã sớm tạo cho mình quyền lãnh đạo người Do Thái bằng cách đầu tư mạnh vào việc xây dựng lại Đền thờ trên quy mô lớn và thúc đẩy nền kinh tế thông qua hợp tác khéo léo với La Mã. Nhưng khi về già, ông ngày càng trở thành một bạo chúa tàn ác, có lẽ một phần là điên rồ, người đã hành quyết số lượng lớn các đối thủ chính trị cũng như nhiều thành viên trong gia đình mình, bao gồm cả một số vợ và con trai của ông. Là một kẻ xảo quyệt, mục tiêu chính của Hêrôđê trong cuộc sống là duy trì quyền lực của chính mình. Ông luôn cảnh giác trước những mối đe dọa có thể xảy đến với quyền hành của ông, đặc biệt là từ những người tuyên bố là họ ứng nghiệm những lời tiên tri của hoàng gia trong Kinh thánh Do Thái. Ông ta cực kỳ hoang tưởng, càng về già sức khỏe càng suy giảm, và hành vi thất thường của ông ta đã gây ra nỗi sợ hãi, thậm chí kinh hoàng cho những người phải cai quản quốc gia cùng ông ta. Không chút nghi ngờ, phần lớn thành phố và triều đình của ông không hài lòng khi thấy sự xuất hiện của các đạo sĩ với những câu hỏi “sai về mặt chính trị” về một vị vua mới sinh. Những câu hỏi này sẽ kích động hoang tưởng của Hêrôđê; và nếu Hêrôđê trở nên rối loạn, mọi người sẽ chết.

Những món quà mà các đạo sĩ đem dâng tiến mang đậm tính biểu tượng của Kinh thánh. “Nhũ hương và mộc dược” chỉ được đề cập với nhau trong Cựu ước trong sách Diễm ca của Solomon.  Chúng là loại nước hoa dành cho hôn nhân được sử dụng bởi Solomon và cô dâu của ông để chuẩn bị cho hôn nhân của họ. Ở đây trong sách Mátthêu, Chúa Giê-su được chỉ ra là Vị Vua, là Chàng rể từ khi Ngài mới sinh ra.

Đồng thời, “vàng và nhũ hương” chỉ được cùng đề cập với nhau trong Kinh thánh trong lời tiên tri Isaia 60: 6, một phần của bài đọc đầu tiên của chúng ta. Có một mối liên hệ rõ ràng của Chúa Giêsu với “ánh sáng” được tiên đoán bởi Isaia, ánh sáng được liên kết với ngôi sao kỳ diệu đưa các đạo sĩ đến với Chúa Hài đồng.

Về ngôi sao này thì có rất nhiều gợi ý — một số gợi ý khá hấp dẫn — đã được đưa ra trong nhiều năm để xác định thiên thể này. Tuy nhiên, một số Giáo phụ (ví dụ như Origen) đã chỉ ra rằng ngôi sao được đề cập phải là một vật thể siêu nhiên, vì các ngôi sao tự nhiên không di chuyển hoặc đứng yên, cũng như không thể đánh dấu một vị trí trên mặt đất nhỏ như Bethlehem, đừng nói đến một ngôi nhà riêng lẻ. Tuy không thể tuyên bố như là giáo điều, tôi tin rằng ngôi sao là một sự xuất hiện siêu nhiên đối với những đạo sĩ này. Thiên Chúa giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ mà họ hiểu: ngôn ngữ của các vì sao.

Khi chúng ta suy ngẫm về ý nghĩa của các bài đọc thánh thiêng này cho chính mình vào cuối tuần này, trước hết chúng ta bị ấn tượng bởi sự ứng nghiệm của các lời tiên tri về việc các dân tộc sẽ được quy tụ lại với Chúa Kitô. Giờ đây, vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, cứ ba cư dân trên thế giới thì có một người tự nhận mình là tín đồ của Chúa Kitô, tổng cộng là 2,2 tỷ người, trong đó khoảng một nửa là người Công giáo. Ngay cả khi tác giả Tân ước cuối cùng viết thư của mình, dân số theo Kitô giáo nhiều nhất là hàng chục nghìn người, chủ yếu nói tiếng Hy Lạp và tập trung ở phía đông của Đế chế La Mã. Sự mở rộng đáng kinh ngạc của “giáo phái Do Thái” này đến những vùng đất chưa từng được biết đến sẽ là điều hết sức vô lý trong thời cổ đại đó.

Trong thời hiện đại, đức tin đã bùng nổ ở những khu vực từng bị đóng cửa với Giáo hội. Châu Phi cận Sahara, nơi số lượng người theo Kitô giáo thì không đáng kể, thậm chí cả trăm năm trước đây, hiện có khoảng 60% là người là Kitô hữu. Mặc dù luôn luôn có một trận chiến tâm linh đang diễn ra, nhưng đúng là có vô số từ mọi quốc gia đã tụ họp dưới Ánh sáng.

Ở một khía cạnh khác, chúng ta thấy trong các đạo sĩ đại diện của các học giả và khoa học gia, những người cống hiến cuộc đời mình để học hỏi, để đạt được sự khôn ngoan. Những ngôi sao mà họ nghiên cứu chỉ ra sự hiện hữu của Chúa. Nhiều người đã viết về một thực tế đáng ngạc nhiên rằng các định luật và công thức vật lý cho phép các ngôi sao chiếu sáng trong không gian và các hành tinh quay quanh chúng, dường như đều được "tinh chỉnh/ finely tuned", đến nỗi cho các số chuẩn hoặc "hằng số vật lý" mà chúng phụ thuộc vào không thể thay đổi một phần của thậm chí -10 lũy thừa 37 (nghĩa là 0.000....37 số zero..1), cho những hành tinh ít nhạy cảm nhất. Ví dụ, nếu lực hấp dẫn mạnh hơn một chút, vũ trụ sẽ sụp đổ trước khi các hành tinh được hình thành; và nếu nó yếu hơn một chút, các hành tinh và ngôi sao thậm chí sẽ không hình thành. Nếu ánh sáng nhanh hơn một chút, thì vũ trụ sẽ quá nóng để có sự sống; chậm hơn một chút, nó sẽ quá lạnh cho sự sống. Nhiều nhà khoa học và triết gia khoa học đã viết về hiện tượng này, hiện tượng này thường được gọi là “sự tinh chỉnh của vũ trụ”. Cha Robert Spitzer, chẳng hạn, đi sâu vào vấn đề này trong cuốn sách của ông từ nhà xuất bản Ignatius Press, New Proofs for the Existence of God /Những bằng chứng mới chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Tuyên bố tôi ưa thích nhất về vấn đề này là từ Sir Fred Hoyle, nhà vật lý thiên văn người Anh vĩ đại nhất thế kỷ XX, và bản thân ông là một người theo thuyết vô thần, dù sao cũng đã thừa nhận:

“Một cách giải thích theo lẽ thông thường về các sự kiện cho thấy rằng một trí óc siêu vời đã thọc tay vào vật lý, cũng như hóa học và sinh học, và không có lực mù quáng nào [theo nghĩa không phải Thiên Chúa dựng nên vũ trụ] đáng được đề cập đến trong thế giới tự nhiên. Đối với tôi, những con số tính toán từ thực tế dường như quá áp đảo đến mức kết luận này gần như không thể nghi ngờ được nữa.”

Vì vậy, các đạo sĩ đã đúng: nếu một người thì chân thật và đi theo bằng chứng nó đưa ra, việc suy niệm các vì sao sẽ dẫn trí tuệ đến tìm thấy Chúa.

 Những đạo sĩ này đã cởi mở với sự thật, ngay cả khi họ sẽ phải hành trình đến một nơi rất xa xôi và rất khác lạ với nền văn hóa của họ. Họ là những người khôn ngoan, thông thái, họ thể hiện một trí tuệ thực sự sáng suốt. Bằng một cách nào đó (chúng ta không biết rõ ràng), họ đã nhìn thấy nơi hài nhi Giêsu, món quà của Thiên Chúa cho loài người, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Sự khôn ngoan chân chính nhận ra giới hạn của sự khôn ngoan. Có một cái gì đó cao thượng hơn sự khôn ngoan, và đó là tình yêu (1 Cô-rinh-tô 13: 1-13). Tình yêu là sự khôn ngoan tối thượng. Những trí thức này quỳ gối và cúi đầu trước một điều gì đó vĩ đại hơn mình: Tình yêu của Thiên Chúa, một Tình Yêu khiêm nhường và không gây sợ hãi của một đứa trẻ ngồi trong lòng mẹ mình. Thay vì làm giảm mất đi sự khôn ngoan, sự khiêm tốn của họ khi đối mặt với Tình Yêu sẽ nâng cao sự khôn ngoan.

Những người cống hiến cuộc sống của mình để theo đuổi việc học cần phải tránh cái bẫy của sự kiêu hãnh trí tuệ để thể đem lợi ích đến cho đồng loại. Các đạo sĩ là những học giả đã cúi đầu trí tuệ trước thực tế của tình yêu và sự khiêm tốn. Chúng ta nên noi gương họ.

Share:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét